Anna Karenina (Tập 1) - Phần 1 - Chương 01

Phần Một

Chúa dạy: “Việc báo oán thuộc về
ta, chính ta lại ra ân đền bù lại.”

1

Mọi gia
đình sung sướng đều giống nhau, nhưng mỗi gia đình bất hạnh lại khổ sở theo
cách riêng.

Trong
gia đình Oblonxki, mọi việc đều rối bét. Bà vợ khám phá ra việc chồng tằng tịu
với cô nữ gia sư người Pháp dạy trẻ trước đây và nói thẳng với chồng là mình
không thể sống chung với ông nữa. Sự tình kéo dài từ hai hôm nay khiến cho cả
vợ chồng, con cái và kẻ ăn người làm trong nhà đều cảm thấy khổ tâm. Tất cả đều
thấy hai người chẳng còn lý do gì để ăn ở cùng nhau nữa và mối dây ràng buộc họ
bây giờ còn lỏng lẻo hơn cả cái quan hệ giữa những người tình cờ gặp nhau trong
một quán trọ bên đường. Bà vợ không buồn bước ra khỏi phòng; ông chồng vắng nhà
đã hai hôm; con cái tha thẩn khắp nhà như bị bỏ rơi; chị vú nuôi người Anh cãi
nhau với bà quản gia, đã viết thư nhờ một cô bạn thân tìm cho chỗ làm khác; anh
đầu bếp ra đi vào bữa ăn tối qua; cô phụ bếp và anh xà ích thì đòi tính tiền
công xá. Ba hôm sau cuộc cãi lộn, công tước Xtepan Arcaditr Oblonxki tức Xtiva(1) - như người ta
thường gọi trong giới thượng lưu - thức giấc vào giờ thường lệ, nghĩa là tám
giờ sáng, không phải trong phòng ngủ của vợ, mà trên chiếc đi văng bọc da ở
phòng làm việc của mình. Ông trở nghiêng cái thân hình nặng nề và phì nộn trên
lò xo đi văng như muốn ngủ lại, vòng hai tay ôm lấy gối và áp má vào; rồi bỗng
nhiên ông nhỏm lên, ngồi dậy và mở choàng mắt. “Ừ... ừ... thế nào nhỉ? Ông ta nghĩ ngợi, cố nhớ lại
giấc mơ vừa qua. Thế nào nhỉ? à, Alabin thết tiệc ở Darmoxtat; không, không
phải Darmoxtat(2) mà là cái quái gì My Mỹ kia.
Đúng rồi: Darmoxtat ở Mỹ. Alabin thết tiệc trên bàn thủy tinh và... những bàn đó hát bài Kho vàng của tôi và một khúc ca
khác du dương hơn. Có cả những bình pha lê nhỏ mà lại là đàn bà.” Cặp mắt
Xtepan Arcaditr bỗng ánh lên vui thích, và ông say sưa mơ mộng, môi nở một nụ
cười. “Ồ, khoái thật,
khoái ghê. Trong giấc mơ ấy, còn ối chuyện tuyệt thú, mà chẳng thể diễn đạt
bằng lời cũng như bằng ý; và khi đã thức dậy là không còn biết xác định nó ra
sao nữa.” Rồi, bỗng thấy tia sáng chiếu xiên qua từ sau tấm màn cửa bằng dạ,
ông vội đặt chân xuống đất, quờ tìm đôi dép da cừu thêu kim tuyến, món quà vợ
mừng nhân dịp sinh nhật ông năm ngoái; sau đó, theo cái thói quen từ chín năm
nay, ông cứ nằm nguyên, với tay về phía vẫn treo chiếc áo ngủ. Lúc đó ông mới sực nhớ ra tại
sao và thế nào mà mình lại không nằm trong phòng vợ; nụ cười vụt biến khỏi môi
và ông cau mày. Ông nhớ lại mọi việc đã xảy ra, miệng lẩm bẩm: “À! Chậc! Chậc!...” Và trong
trí tưởng tượng của ông, lại diễn ra tất cả các chi tiết xung đột với vợ, cái
thế bí không lối thoát và lỗi lầm của chính ông, nó giày vò dữ dội hơn mọi điều
khác. Ông nghĩ bụng: “Không, Doli sẽ chẳng tha thứ cho mình đâu, Doli không thể
tha thứ cho mình được. Và điều ghê gớm hơn hết là chính mình gây ra tất cả; tất
cả đều do mình, vậy mà thực không phải lỗi tại mình. Tất cả tấn bi kịch là ở
đó.” Ông vừa than vãn tuyệt vọng “ối chao”, vừa nhớ lại những chi tiết khổ tâm
nhất về cuộc cãi lộn. Chính cái phút đầu tiên là phút khó chịu nhất: vừa đi xem
hát về, dáng vui vẻ và hể hả, tay cầm một trái lê to làm quà cho vợ, ông không
thấy vợ ở phòng khách; ông ngạc nhiên vì sang phòng làm việc cũng không thấy;
sau cùng, ông gặp vợ ở phòng ngủ, tay cầm lá thư đốn mạt đã làm vỡ lở hết mọi
chuyện. Cô nàng Doli(3) suốt đời ưu tư và bận rộn, mà
ông vẫn cho chẳng có gì là sắc sảo, lúc đó đang ngồi yên không nhúc nhích với
lá thư trong tay và nhìn ông vừa kinh tởm, tuyệt vọng, vừa giận dữ. [Chúc bạn
đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

- Cái
này là cái gì? Cái gì? - bà chìa mảnh giấy hỏi chồng.

(1) Xtiva là Xtepan gọi theo
tiếng Anh. Thời đó, giới thượng lưu thường gọi nhau bằng tên đã Anh hóa hoặc
Pháp hóa và coi đó là mỹ tục. (Tất cả những chú thích ở dưới trang đều của
người dịch).

(2) Một tỉnh ở Đức. Vĩ ngữ
“stad” có nghĩa là tỉnh.

(3) Doli là tên Daria, gọi
theo tiếng Anh.

Điều
làm Xtepan Arcaditr khổ tâm hơn cả mỗi khi nhớ lại cảnh đó mà ông cứ nhớ lại
luôn mới tệ chứ - không phải bản thân câu chuyện mà chính là cái cung cách ông
trả lời vợ. Lúc đó ông lâm vào cái tình thế vẫn thường xảy đến với những người
bỗng dưng vướng vào một chuyện xấu xa. Ông không biết đường sửa soạn một bộ mặt
hợp với hoàn cảnh sau khi tội lỗi đã bị lộ. Đáng lẽ phải làm ra bộ tức giận,
chối phắt, hay thanh minh, xin lỗi, cùng nữa là cứ dửng dưng (cách nào cũng vẫn
tốt hơn) thì ông lại tươi cười, thản nhiên dễ dãi và lúc ấy vẻ mặt ông thật
ngây ngô. Sắc diện đó là vô tình, hoàn toàn vô tình thôi (Xtepan Arcaditr vốn
thích sinh lý học nên cho đó là “phản xạ não”). Ông không thể tha thứ cho mình
về cái cười đần độn ấy. Vừa thoáng thấy nụ cười đó, Doli giật bắn người như bị
một cơn đau giày vò thể xác. Không nén nổi cơn giận, bà tuôn ra những lời gay
gắt và bỏ chạy khỏi phòng. Từ đó, bà nhất định không nhìn mặt chồng nữa.

“Chính
cái cười ngây ngô là nguyên nhân của mọi chuyện - Xtepan Arcaditr nghĩ bụng -
Nhưng biết làm thế nào? Làm thế nào đây?”, ông nhắc đi nhắc lại một cách tuyệt
vọng. Và vẫn không tìm ra câu trả lời.

2

Xtepan
Arcaditr vốn thật thà với mình. Ông không thể dối lòng đến mức tin rằng ông đã
hối hận về hành động của mình. Một người đàn ông băm tư tuổi, bảnh bao, đầy dục
tình như ông, không thể hối hận vì đã thôi không yêu vợ, một bà mẹ bảy con nuôi
được năm và chỉ kém mình có một tuổi. Ông chỉ tiếc đã không biết giấu vợ cho
khéo hơn. Nhưng ông cũng nhìn rõ tất cả tầm nghiêm trọng của tình hình. Ông
thương Doli, thương các con và thương cả bản thân mình nữa. Nếu đoán trước được
tin đó sẽ làm vợ xúc động đến thế, có lẽ ông đã biết che đậy sự phụ bạc khéo
hơn. Tuy không bao giờ suy nghĩ cụ thể về chuyện đó, ông vẫn láng máng thấy
rằng bà vợ đã đoán biết ông bạc tình từ lâu, nhưng đành nhắm mắt làm ngơ đấy
thôi. Thậm chí ông còn cho rằng cái người đàn bà tàn tạ, luống tuổi, hết thời
xuân sắc ấy, người đàn bà chẳng có đức tính gì nổi bật và chỉ còn là bà mẹ tốt
trong gia đình, đáng lý phải biết ăn ở cho rộng lượng hơn thì mới hợp lẽ công
bằng. Thế mà sự việc lại xảy ra khác hẳn. “Ôi phiền quá! Phiền quá! Xtepan
Arcaditr cứ nhắc đi nhắc lại mãi mà vẫn chẳng tìm ra giải pháp. Trước đây mọi việc
đều êm thấm, hai vợ chồng sống cuộc đời tươi đẹp biết bao! Doli hài lòng, sung
sướng với lũ trẻ, mình không hề làm phiền Doli chút nào, mình để Doli tùy ý trông nom nhà cửa. Kể
cũng đáng tiếc là cô ta trước
kia lại là cô giáo dạy con mình, kể cũng hèn hạ tầm thường. Nhưng sao lại có cô
gia sư đẹp đến thế kia chứ! (Ông nhớ lại rõ ràng cặp mắt đen láy, tinh quái và
nụ cười của cô Rolland. Tuy nhiên, cả thời gian cô ta ở nhà mình, mình có dám
giở trò gì đâu, ác
nhất là cô ta lại... Thật cứ như cố tình ấy! Chao! Nhưng biết làm thế nào? Làm
thế nào đây?”

Chẳng
có giải đáp nào khác, ngoài câu trả lời chung cho mọi vấn đề phức tạp và nan
giải: đành lần lữa cho qua ngày, đành quên đi thôi. Không thể tìm được quên
lãng trong giấc ngủ, và nếu có thì cũng phải đến đêm; cũng không thể quay lại
với điệu nhạc, lời ca của những phụ-nữ-bình-pha-lê được nữa; âu là cứ ru mình
vào giấc mộng đời cho khuây khỏa. “Rồi sau sẽ hay”, Xtepan Arcaditr nghĩ bụng.
Ông đứng dậy, xỏ tay vào chiếc áo ngủ màu xám lót lụa xanh nhạt, thắt dây lưng,
và hít một hơi dài căng lồng ngực vạm vỡ, rồi lại gần cửa sổ, đôi chân chữ bát
bước đi thoăn thoắt, nhẹ nhàng, trái hẳn với tấm thân phì nộn, kéo rèm cửa lên
và lắc chuông rầm rĩ. Người hầu phòng Matvei, một lão bộc thân tín, lập tức
bước vào, tay cầm quần áo, đôi ủng và một bức điện tín. Theo sau là anh thợ cạo
với túi đồ.

- Có
giấy tờ gì của tòa án
không? - Xtepan Arcaditr hỏi, cầm lấy bức điện và ngồi xuống trước gương.

- Ở trên bàn ấy ạ, - Matvei
trả lời, liếc nhìn chủ bằng cặp mắt dò hỏi và đầy vẻ thông cảm; - đợi một lát,
- bác nói tiếp, mỉm cười ranh mãnh.

- Lão
chủ hiệu xe thuê vừa cho người tới đấy ạ.

Xtepan
Arcaditr không trả lời và chỉ đưa mắt nhìn Matvei trong gương, cái nhìn họ trao
đổi chứng tỏ họ hiểu nhau biết chừng nào. Xtepan như muốn hỏi: “Tại sao bác lại
nói với tôi điều đó? Bác thừa hiểu sự tình ra sao rồi còn gì?” Matvei thọc tay
vào túi áo dài chẽn, dạng chân ra, và chẳng nói chẳng rằng đưa ánh mắt thân ái
nhìn chủ, trên môi thoáng một nụ cười. Bác nói:

- Tôi
đã bảo họ chủ nhật hãy tới và từ nay đến hôm đó, đừng làm phiền ông vô ích. Câu
nói rõ ràng được chuẩn bị từ trước.

Xtepan
Arcaditr biết Matvei nói giỡn và muốn ông chú ý đến bác. Ông mở bức điện tin ra
đọc, mặc nhiên chỉnh lại trong đầu những chữ sai chính tả thường thấy ở các bức
điện, vẻ mặt bỗng sáng lên:

-
Matvei này, mai cô Anna Arcadievna đến đấy, - ông nói, tạm ngăn bàn tay bóng
nhẫy, mũm mĩm của anh thợ cạo đương rẽ một đường hồng hồng giữa hai chòm râu má
dài loăn xoăn của ông.

- Đội
ơn Chúa! - Matvei thốt lên và câu trả lời tỏ ra bác cũng hiểu rõ như chủ tầm
quan trọng của việc này: - Anna Arcadievna, cô em gái thân yêu của Xtepan
Arcaditr, có thể giúp hai vợ chồng làm lành với nhau.

Matvei
hỏi:

- Cô
đến một mình hay cùng đi với chồng kia ạ? - Xtepan Arcaditr không thể trả lời
vì anh thợ cạo đã nắm lấy môi trên ông; ông bèn giơ một ngón tay lên. Matvei
gật đầu một cái trong gương.

- Có
một mình thôi ạ. Vậy có phải sửa soạn căn buồng trên gác không?

- Báo
tin đó cho Daria Alecxandrovna biết đã, rồi bà bảo sao thì làm vậy.

- Báo
cho Daria Alecxandrovna? - Matvei hỏi lại, vẻ nghi ngại.

- Phải.
Này, mang cho bà xem bức điện; bà bảo gì phải nhớ nói lại với tôi đấy.

“Ông
định thăm dò đây”, Matvei hiểu ngầm như vậy, nhưng bác chỉ nói gọn lỏn:

- Thưa
ông vâng ạ. - Xtepan Arcaditr rửa mặt, chải đầu xong và sắp mặc quần áo thì
Matvei chậm rãi quay lại, đôi ủng khẽ kêu cót két, tay vẫn cầm bức điện. Lúc đó
anh thợ cạo đi rồi.

- Daria
Alecxandrovna dặn tôi Thưa với ông là bà sắp đi. Bà bảo: “Ông ấy (tức là ông
đấy ạ), ông ấy muốn làm thế nào thì làm.” - Và Matvei, hai tay đút túi, đầu
nghiêng sang bên, đăm đăm nhìn chủ, chỉ có đôi mắt là nhấp nháy cười. Xtepan
Arcaditr nín lặng. Rồi một nụ cười hiền hậu, hơi thiểu não, hiện trên khuôn mặt
đẹp của ông.

- Làm
thế nào bây giờ, Matvei? - Ông
hất hàm nói.

- Không
sao cả, ông chủ ạ, rồi sẽ ổn thôi, - Matvei trả lời.

- Có
chắc không?

- Thưa
ông, chắc chứ ạ.

- Bác
chắc thế thật à? Ai đó? - Xtepan Arcaditr nghe thấy tiếng áo phụ nữ sột soạt
sau cửa, liền hỏi.

- Thưa
ông, tôi đấy ạ. - Một giọng rắn rỏi và dễ nghe đáp lại; rồi khuôn mặt nghiêm
nghị, rỗ hoa của bác bảo mẫu Matriona Filimonovna hiện ra ở khung cửa.

- Có
chuyện gì đấy, Matriona? - Xtepan Arcaditr bước về phía bác ta, hỏi.

Mặc dầu
Xtepan Arcaditr hoàn toàn có lỗi với vợ và chính ông cũng biết vậy, nhưng hầu
như mọi người trong nhà, kể cả bác bảo mẫu là người thân tín nhất của Daria
Alecxandrovna, vẫn bênh ông.

- Có
chuyện gì vậy? - ông hỏi, giọng rầu rĩ.

- Thưa
ông, ông nên đến xin lỗi bà lần nữa đi. Chúa sẽ phù hộ cho ông. Bà đang đau
khổ, trông thương tâm lắm; còn trong nhà thì mọi việc đều rối bời. Ông phải
biết thương các em chứ. Ông hãy đến xin lỗi bà đi. Chẳng có cách nào khác đâu!
Gây đổ vỡ thì phải...

- Nhưng
bà chẳng tiếp tôi đâu...

- Như
vậy chẳng gì ông cũng làm hết bổn phận. Chúa lòng lành vô cùng! Ông cầu nguyện
đi, ông chủ ạ, ông hãy cầu nguyện đi!

- Thôi
được. Nào! - Xtepan Arcaditr nói, mặt bỗng đỏ dừ. Ông quay lại bảo Matvei: “Bác
giúp tôi mặc quần áo”, và ông cởi áo ngủ, dáng kiên quyết. Matvei thổi thổi
những hạt bụi vô hình, chìa sẵn cho chủ chiếc sơ mi hồ bột và hỉ hả ra mặt,
choàng áo lên cái thân hình trau chuốt của Xtepan Arcaditr. Mặc quần áo xong,
Xtepan Arcaditr bơm nước hoa, cài khuy tay áo, quen tay bỏ luôn vào túi chiếc
ví, hộp thuốc lá, bao diêm và chiếc đồng hồ quả quýt có dây chuyền kép đính đồ
trang sức, rũ khăn tay, rồi, cảm thấy sạch sẽ, thơm tho, thoải mái và khoan
khoái thể xác, mặc dù đang ở trong tâm trạng phiền muộn, ông đi thẳng sang
phòng ăn, bước chân hơi run rẩy, nơi món cà phê sáng và thư từ, giấy má đã chờ
sẵn. Ông đọc thư. Có một bức thư làm ông rất khó chịu: đó là thư của một thương
gia đang muốn mua khu rừng trong trang trại của vợ ông. Nhất thiết phải bán khu
rừng đó rồi; nhưng vấn đề chưa thể đặt ra trước khi vợ chồng hòa thuận trở lại.
Điều bực mình nhất là việc dàn hòa này lại dính đến chuyện tiền nong. Ông khó
chịu với ý nghĩ là trường hợp đó có thể làm ông mất thể diện: tìm cách làm lành
với vợ để bán trôi khu rừng. Đọc xong tập thư, Xtepan Arcaditr kéo đống giấy má
để trên bàn lại, giở nhanh hai tập hồ sơ, lấy chiếc bút chì to đánh dấu vài chỗ
rồi gạt tất cả sang bên, rót cà phê uống; ông vừa điểm tâm vừa giở tờ báo buổi
sáng còn ướt mực và bắt đầu đọc.

Xtepan
Arcaditr thường ngày đọc tờ báo của phái tự do, cũng không lấy gì làm tân tiến
lắm, thuộc cái khuynh hướng mà đa số đang theo. Và mặc dầu chẳng quan tâm đặc
biệt gì đến khoa học, nghệ thuật cũng như chính trị, ông vẫn kiên quyết giữ
vững quan điểm của đa số và của tờ báo về tất cả những vấn đề đó, và chỉ thay đổi
ý kiến khi đa số cũng thay đổi, hoặc, nói đúng hơn, ông chẳng thay đổi gì hết:
chính những quan điểm tự thay đổi lúc nào không biết. Xtepan Arcaditr không hề lựa chọn khuynh hướng cũng
như quan điểm; tự chúng tìm đến ông; ông chẳng mất công lựa chọn gì hơn chọn mũ
chọn áo: người ta ăn vận thế nào, ông làm theo như vậy. Nhưng sống trong một xã
hội mà mọi người đứng tuổi đều phải có một hoạt động trí tuệ nào đó, việc có
chính kiến đối với ông, cũng cần như đội mũ. Sở dĩ ông ưng khuynh hướng tự do
hơn khuynh hướng bảo thủ mà một số đông trong giới ông đang theo, đó không phải
vì ông thấy nó phải chăng hơn, mà bởi nó phù hợp với lối sống của ông hơn. Phe
tự do nói ở nước Nga, mọi sự đều bí bét: quả vậy, Xtepan Arcaditr nợ đìa ra và
luôn luôn túng tiền. Phe tự do nói hôn nhân là tục lệ lỗi thời, cần phải cải
cách: thực tế, cuộc sống vợ chồng chẳng đem lại hứng thú gì lắm cho Xtepan
Arcaditr, buộc ông phải dối trá, che đậy, và điều đó trái hẳn với bản chất ông.
Phe tự do nói, hay đúng hơn, ngụ ý rằng tôn giáo chỉ là một trở lực kìm bước
đám người vô học trong dân chúng: thì đấy, Xtepan Arcaditr có bao giờ chịu đựng
nổi một buổi lễ chầu, dù ngắn nhất, mà không rấm rứt ở bắp chân; ông không tài
nào hiểu được ý nghĩa của tất cả những bài thuyết giáo hãi hùng và khoa trương
về thế giới bên kia, trong khi người ta vẫn có thể vui chơi thỏa thích ở ngay cái thế
giới này. Ngoài ra, Xtepan Arcaditr, vốn thích bông đùa, thường rất khoái trá
mỗi khi có dịp châm chọc những người yên phận rằng: nếu ta hãnh diện vì dòng
giống thì lẽ nào chỉ dừng lại ở thời Ruritr(4) và không chịu công nhận ông tổ
đầu tiên là... con khỉ. Cho nên, khuynh hướng tự do đã trở thành thói quen của
Xtepan Arcaditr, và ông yêu thích tờ báo của mình như điếu xì gà sau bữa ăn
trưa, nó tỏa một màn
sương nhẹ lâng trong đầu.

(4) Tù trưởng của bộ lạc Varege ở bán
đảo Xcandinavi. Hồi gần cuối thế kỉ thứ IX, đột nhập nước Nga, chinh phục các
bộ lạc giữa Phần Lan và Xlav lập nên đế chế Nga.

Ông đọc
xã luận, bài báo giải thích là thời buổi này, thật hoài công mà đi la lối rằng
chủ nghĩa cấp tiến đang đe dọa
nuốt chửng mọi yếu tố bảo thủ; rằng chính phủ sắp sửa bắt buộc phải ra tay bóp
nghẹt con mãng xà tinh cách mạng; trái lại “theo ý chúng tôi, nguy cơ không do
con mãng xà tinh cách mạng tưởng tượng gây ra, mà chính là tại các yếu tố tồn
cổ đã ngoan cố kìm hãm đà tiến bộ”, v.v... Ông cũng đọc lướt bài báo thứ hai
bàn về vấn đề tài chính, trong đó người ta dẫn ra nào là Bentham(5) nào là Min(6) và xỏ ngọt Bộ Tài
chính vài cú. Vốn sắc sảo minh mẫn, ông hiểu ngay ý nghĩa của từng lời ám chỉ:
xuất phát từ đâu, nhằm vào ai và được tung ra nhân việc gì, ông đều hiểu hết và
cũng như mọi lần điều đó đem lại cho ông ít nhiều thú vị. Nhưng bữa nay, niềm
thích thú bị giảm đi khi ông nhớ tới lời khuyên của Matriona Filimonovna và
tình trạng rối bời trong gia đình; báo còn loan tin bá tước Boxt đi Vixbadell,
tin thị trường không còn món tóc bạc, tin có người muốn bán xe ngựa nhẹ và tin
một thanh niên tìm việc làm; nhưng những tin tức đó không mang lại cho ông niềm
thỏa mãn bình thản và
nhạo đời như mọi lần trước. Đọc báo xong, và uống cạn tách cà phê thứ hai với
chiếc bánh mì trắng nhỏ quệt bơ, ông đứng dậy, rũ những mẩu bánh vụn vãi trên
áo gilê và ưỡn bộ ngực nở nang, mỉm cười khoan khoái, không phải vì ông thấy
tâm hồn có gì đặc biệt thanh thản... mà là do thức ăn đã tiêu hóa tốt.

(5) Jeremie Bentham (1748-1832) nhà
triết học và pháp luật học Anh theo chủ nghĩa thực dụng.

(6) James Mill (1773-1836) nhà triết
học Anh, người kế tục Bentham.

Nụ cười
rạng rỡ làm ông sực nhớ lại tất cả, và ông đâm ra tư lự. Có tiếng hai đứa trẻ
đằng sau cửa (Xtepan Arcaditr nhận ra tiếng Grisa, con trai út, và Tania, con
gái lớn của ông). Chúng vừa đánh rơi một vật gì.

- Chị
đã bảo em đừng có để hành khách lên mái, - con bé la lên bằng tiếng Anh. - Bây
giờ thì phải nhặt lên nào!

Xtepan
Arcaditr nghĩ bụng: “Nhà cửa lung tung, trẻ con bị bỏ mặc chẳng ai trông nom.”
Và ông lại gần cửa, lên tiếng gọi hai con. Chúng bỏ chiếc hộp dùng làm tàu hỏa
và chạy lại với bố. Tania, con gái cưng của Xtepan Arcaditr, mạnh dạn bước vào,
quàng tay ôm lấy cổ bố vừa đánh đu vừa cười như mọi lần, khoan khoái hít hít
mùi nước hoa quen thuộc tỏa
ra từ hai chòm râu má của bố. Sau khi hôn bộ mặt bố đỏ bự vì phải cúi xuống và
ngời ngợi trìu mến, đứa bé buông tay ra định chạy, nhưng ông bố giữ con lại.

- Mẹ
đang làm gì? - Ông
vừa hỏi vừa vuốt ve cái cổ mảnh dẻ của con gái. Rồi quay sang mỉm cười với
thằng con trai út: Chào chú!

Ông
không thấy yêu con trai bằng con gái và luôn luôn gắng không để lộ điều đó;
nhưng thằng bé thừa biết và không buồn đáp lại cái cười gượng của bố.

- Mẹ ấy
à? Mẹ dậy rồi ạ, - con bé trả lời.

Xtepan
Arcaditr buông một tiếng thở dài. Ông nghĩ: “Thế ra, cả đêm nàng không
ngủ.”

- Mẹ có
vui không? - Con bé thừa biết bố mẹ đã cãi nhau, mẹ nó không thể vui được, bố
hẳn phải hiểu rõ, nhưng định đóng kịch nên vờ hỏi giỡn như vậy. Nó đỏ mặt thay
cho bố. Xtepan Arcaditr chợt hiểu ngay và cũng đỏ mặt.

- Con
chả biết, - nó nói. - Mẹ bảo chúng con không phải học nữa mà đi với cô Hal đến
nhà bà.

- Vậy
thì đi đi thôi, Tania bé bỏng của ba. à, khoan đã, - ông giữ con lại lần nữa,
vuốt ve bàn tay nhỏ xíu mềm mại của nó...

Ông cầm
hộp kẹo để trên lò sưởi từ hôm qua, chọn lấy hai cái con bé thích nhất: một kẹo
sôcôla, một kẹo mứt hoa quả và đưa cho con. Con bé giơ chiếc kẹo sôcôla và hỏi:

- Cái
này cho Grisa phải không ba?

- Ừ, ừ. - Và vuốt ve lần cuối
chiếc vai nhỏ nhắn của con gái xong, ông hôn vào cổ, vào chân tóc rồi cho nó đi
ra.

- Xe
đánh ra ngoài rồi đấy ạ, - Matvei vào báo và nói tiếp: - có một bà đến kêu
việc.

- Bà ta
đến lâu chưa? - Xtepan Arcaditr hỏi.

- Độ
nửa giờ rồi.

- Đã
bao lần tôi dặn bác phải báo ngay kia mà.

- Thì
tôi cũng phải để ông dùng xong cà phê đã chứ, - Matvei nói, giọng lủng bủng và
thân mật khiến ông không còn bụng nào mà giận được.

- Thôi
cho người ta vào nhanh lên, - Oblonxki cau mày nói. Người đó là vợ viên đại úy tham mưu Klinin, đến nhờ
vả một việc không thể giải quyết được và phi lý nữa; nhưng Xtepan Arcaditr,
theo thói quen, vẫn mời bà ta ngồi và chăm chú nghe từ đầu đến cuối không hề ngắt
lời, chỉ vẽ cụ thể nên xử sự thế nào, nên đến cầu cạnh ai, và viết hẳn một lá
thư bằng lối chữ khoáng đạt, đẹp và rõ ràng của ông, giới thiệu đến người có
thể giúp đỡ bà ta được. Sau khi đưa tiễn vợ viên đại úy, Xtepan Arcaditr bèn cầm mũ và dừng lại tự
hỏi xem có quên gì không. Ông chỉ quên mỗi một điều mà ông ước ao quên đi được
là... vợ ông. “À,
phải!”, ông cúi đầu và bộ mặt đẹp bỗng đượm buồn. Ông tự hỏi: “Ta nên đến gặp,
hay không nên đến?” Một tiếng nói từ trong lòng bảo ông có đến gặp cũng vô ích,
rút cục chỉ đi đến chỗ giả dối thôi, không thể chắp nối lại tình nghĩa vợ chồng
nữa rồi, bởi vì không ai có thể trả lại cho Doli cái xuân sắc quyến rũ thuở
xưa, cũng như không thể biến ông thành lão già bất lực được. Làm thế chỉ đưa
đến giả tạo và dối trá: mà giả tạo và dối trá thì trái hẳn với bản chất ông.
“Tuy nhiên trước sau, vẫn phải một lần, không thể cứ thế này mãi được!”, ông tự
bảo, gắng động viên mình mạnh hơn. Ông thẳng người lên, lấy điếu thuốc lá, châm
lửa hút, kéo hai hơi, rồi vứt điếu thuốc vào chiếc vỏ xà cừ dùng làm gạt tàn,
đi nhanh qua phòng khách và mở cửa phòng vợ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3