Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 18 - Phần 1
Chương 18: Trời tối trước khi mặt trời
lặn
Cách đó một
quãng ngắn, họ tìm thấy chiếc chuông gió treo trên một cành cây thấp trong
rừng. Nó được làm từ những miếng kim loại mỏng, hình thoi được sơn vẽ các cạnh,
theo lời Milligan, nó sắc đến nỗi có thể khiến ta đứt tay trong chớp mắt. Họ
không thấy dấu hiệu của manh mối nào trên cái cây treo nó, cũng không có dấu
vết nào trên mặt đất bên dưới cả. Reynie nghĩ chắc phải có gì đó được giấu trên
lớp sơn vẽ của chiếc chuông - thoạt nhìn có vẻ lộn xộn, tùy tiện, không có
đường thẳng liên kết và toàn những đường ngoằn ngoèo - nhưng khi Milligan lấy
các mảnh chuông gió xuống và đặt chúng lên mặt đất để kiểm tra thì mọi người
đột nhiên nghe thấy một tiếng leng keng khác ở xa.
“Một cái chuông
gió khác à?” Sticky hỏi.
“Đúng thế đấy!”
Reynie thốt lên. “Hạ cái chuông này xuống rồi, chúng ta mới có thể nghe thấy
cái kế tiếp - chiếc chuông đó dường như cách khá xa đây. Ngài Benedict đã để
lại âm thanh này làm dấu vết cho chúng ta!”
Kate nhìn đăm đăm về phía
trước. “Thế thì hành động thôi nào. Ai mà biết còn có bao nhiêu chiếc chuông
nữa?”
“Đợi đã nào!” Constance nói
rồi cúi người nhìn kỹ hơn các mảnh chuông. “Hãy khám phá cái này trước đã.”
“Không có thời gian nữa đâu”
Reynie nói. “Cơn gió sẽ lặng đi vào lúc mặt trời lặn, anh nghi ngờ là ngoài nó
ra, chúng ta có thể tìm được những cái chuông khác. Rất khó có thể nhìn thấy
trong rừng vì trời đang càng lúc càng tối.
Constance quắc mắt nhìn cậu. “Ai
nói cơn gió sẽ lặng vào lúc mặt trời lặn?”
“Han de Reizeger. Sticky đã
kể với bọn anh khi em ngủ.”
“Thế thì, điều đó thật ngu
ngốc! Bất cứ ai cũng nghe thấy tiếng một cái...?”
Milligan khum tay cầm lấy các
mảnh chuông bằng một bàn tay còn Constance thì ở tay còn lại. “Ngu ngốc hay
không thì chúng ta cũng cần khẩn trương lên.”
Constance, vừa bối rối vừa
bực bội, nhìn quanh cánh rừng âm u. “Nhưng không phải mặt trời đã lặn rồi à?
“Đó chỉ là có vẻ thế thôi bởi
vì dãy núi ấy,” Milligan nói, chân bước về hướng có âm thanh leng keng. “Phía
tây sườn núi trời vẫn còn sáng - mặc dù cũng không lâu nữa đâu.”
“Trời tối trước khi mặt trời
lặn,” Constance lẩm bẩm. “Thật kỳ cục.”
Khi đi ngược chiều gió, họ
tìm thấy chiếc chuông gió thứ hai và thứ ba cách đó năm mươi mét. Họ có vẻ như
đã đến bìa rừng và đây chắc đã là chiếc cuối cùng vì sau đó họ không nghe thấy
gì nữa. Khi Milligan trèo lên một cái cây để quan sát tốt hơn địa hình phía
trước, thì bọn trẻ tháo rời các mảnh chuông ra khỏi sợi dây thép buộc giữ chúng
và đặt xuống đất. Ba mươi mảnh hình thoi có một kích thước nhất định, mỗi mảnh
được vẽ những hình thù khác nhau.
“Tớ nhận ra những cái này là
gì rồi.” Kate nói.
“Một trò chơi ghép hình,” Reynie
gật đầu nói. “Làm thành một hình ghép cuối cùng.”
Kate lật các mảnh kim loại
lên. “Dù vậy, nó khá phức tạp đấy. Hình vẽ có cả ở hai mặt, các cạnh đều trông
giống y nhau, và chúng ta không biết bức hình này là vẽ cái gì. Chuyện này có
thể mất hàng giờ đồng hồ!”
Constance bước tới gần, chăm
chú nhìn vào các mảnh ghép. “Lật cái đó lên, chị Kate,” cô bé vừa nói vừa đưa
tay chỉ. “Không, cái kia cơ, cái kia, gần bên góc ấy. Không, cái khác cơ, ôi
trời ơi! Đây, để em.” Cô nhóc quỳ gối và lật lên vài mảnh. “Đó. Thế mới đúng
chứ! Đó là cách duy nhất chị có thể nhìn thấy tấm bản đồ đó hiện ra.”
Những đứa còn lại nhìn
Constance chằm chằm, rồi lại nhìn những mảnh kim loại la liệt trên mặt đất. Tấm
bản đồ mà Constance nhìn thấy lại chỉ là một mớ lộn xộn rối rắm các đường thẳng
và màu sắc đối với những đứa khác.
Reynie ngồi xổm xuống cạnh cô
bé. “Constance, bọn anh không thể nhìn ra nó được” cậu nói, cố gắng giữ gương
mặt thoải mái. “Em có thể sắp xếp lại các mảnh ghép cho bọn anh không?”
Đôi mắt của Constance tròn
xoe nhìn họ. “Ý anh em là người duy nhất...?”
“Ồ, thật sự không ai trong
bọn anh có thể nhìn ra nó cả,” Reynie nói, phẩy tay về phía các mảnh ghép, “nhưng
sẽ hiểu nhanh hơn nếu em làm thế. Em thấy sao?”
Constance nhìn thấu nỗ lực
của Reynie trong việc làm cho cô bé khỏi cảm thấy sức ép, nhưng cử chỉ tự tin,
thoải mái của cậu lại có vẻ như đang cố giữ bình tĩnh. Cô bé nuốt khan. “Em...
vâng, được ạ. Em sẽ sắp xếp.” Lóng nga lóng ngóng, cô bé vừa cầm lên một mảnh
kim loại thì ngay lập tức làm rớt nó. Cũng chính các ngón tay vụng về không thể
thắt nơ dây buộc giày ấy giờ đây đang phải thực hiện một bài kiểm tra vô cùng
quan trọng, sự căng thẳng, lo lắng khiến đôi tay cô bé càng thêm run rẩy.
“Chỉ cần bình tĩnh thôi mà,”
Reynie nói. “Hãy thư giãn đi. Tuy nhiên, dù em có mất thời gian lâu cũng vẫn là
nhanh hơn bọn anh có thể xoay xở.”
Constance hít vào một hơi vẫn
chưa thấy hết run, những ngón tay lóng ngóng vật lộn với việc sắp xếp các bức
hình mà cô bé hình dung thật rõ trong tâm thức.
Trong khoảng thời gian đó,
Milligan đã leo xuống cây và đi bộ ra khỏi bìa rừng để kiểm tra thứ gì đó trên
mặt đất. Kate cũng đi qua đó với ông. Rừng cây mở ra một núi đá đen gồ ghề - xa
xa, khoảng chừng một dặm, lờ mờ những dãy núi cao. “Mặt đất hầu như quá cứng
nên không thể lưu lại dấu vết,” Milligan nói khi Kate quỳ xuống cạnh ông. “Ngoại
trừ chỗ này.” Ông ra dấu chỉ về một khoảng đất sỏi rộng có vài vệt lốp nặng nề
in hằn lên đó.
“Cái gì thế ạ, xe ủi đất ạ?”
Kate hỏi, thắc mắc làm sao một cái xe ủi đất - bất luận là loại nào - lại có
thể đến được đây.
“Một phương tiện di chuyển có
thể lội nước,” Milligan nói. “Bố hiểu được đây là lý do vì sao chúng ta không
trông thấy một con thuyền nào. Lão Curtain có một chiếc Salamander.”
“Một gì cơ ạ?”
“Hãy hình dung một chiếc
thuyền bọc thép với những xích xe tăng. Đi nhanh trên đất bằng, thậm chí càng
nhanh hơn khi ở dưới nước. Đủ lớn để chở Curtain và toàn bộ đội ngũ những Gã Số
Mười, với rất nhiều khoảng trống để giam giữ tù nhân.”
Kate kinh ngạc khi biết rằng
lão Curtain có thể mang lão và lũ tay chân đi khắp nơi bằng một cỗ máy đáng sợ
đến thế. Hắn từng làm bọn trẻ ở học viện sợ phát khiếp với những chiếc xe lăn
có động cơ cải tiến, rít ầm ĩ, và chiếc Salamander này nghe có vẻ khá giống một
phiên bản ngoại cỡ của cái máy kỳ cục quái dị đó.
“Nó đến từ hướng đó,”
Milligan nói, chỉ tay về phía đông bắc. “Bố tưởng bọn chúng đổ bộ vào vịnh
nhưng rừng cây phải vượt qua quá rậm rạp khiến chiếc Salamander không thể đi
xuyên qua được. Có lẽ chúng lái vòng quanh hòn đảo, trên đường đi để lại quân
trinh sát. Những Gã Số Mười là những tên giỏi theo dõi. Ngài Benedict và Số Hai
sẽ không có cơ hội ẩn trốn và cũng không có chỗ nào để chạy cả.” Milligan giẫm
gót giày vào vết bánh xe của Salamander, giận dữ trước ý nghĩ những người bạn
của mình đã bị săn lùng.
Cảm giác giống Milligan, Kate
hỏi: “Bố nghĩ họ đang ở đâu?” Cô bé tưởng tượng đến lúc tìm thấy lão Curtain sẽ
bạt tai hắn một phát, dù trong thực tế cô biết mình chẳng có cơ hội đối đầu một
mình với hắn.
“Bố nghi là bọn chúng đã đi
sâu vào núi,” Milligan nói. “Chúng ta không nhìn thấy Salamander từ trên máy
bay, bởi vậy có lẽ nó đã được giấu trong một rãnh đào hoặc hang núi.”
Sticky đi tới để thông báo
Constance đang hoàn thành bức hình ghép. Cô bé chỉ mất có vài phút. Họ quay trở
lại khi cô bé đang đặt miếng ghép cuối cùng vào. Trước mặt họ là tấm bản đồ của
hòn đảo nằm trên mặt đất, nó chắc hẳn đã được mô phỏng theo những gì ngài
Benedict thấy từ lá thư của Han de Reizeger. Ngài Benedict chỉ lựa chọn vẽ vài
phần cụ thể của hòn đảo, và đã làm cho nó thật đơn giản nhưng đầy nghệ thuật,
với một vệt màu cỏ úa như những mũi tên thẳng tắp biểu thị cho cánh rừng nhỏ,
ba hình vòng cung bổ xuống biểu thị cho những dãy núi, và một nhóm dày đặc
những hình vuông đại diện cho ngôi làng ở sườn núi bên kia. Một đường thẳng lốm
đốm chạy thẳng xuyên qua tận cùng của dãy núi chính giữa, kết thúc ở chỗ ngôi
làng.
“Mọi người nghĩ đường thẳng
lấm chấm đó là gì?” Constance hỏi.
“Gần giống một đường hầm,
biểu thị vị trí của nó,” Milligan nói. Ông quỳ xuống và gõ ngón tay vào ngôi
làng. “Đây chắc hằn là chỗ các con sẽ gặp họ, đó cũng là điểm dừng kế tiếp của
ta.”
“Điểm đến kế tiếp của chú?”
Reynie nói. “Không phải của chúng ta sao?”
Milligan đứng lên. “Các con
sẽ ở lại đây dưới tán rừng này. Ta đã quan sát các hướng và không thấy dấu hiệu
nào có người đang đến - và hãy tin ta, nếu chúng ta bị phát hiện thì chắc chắn
sẽ có người đang đến - vậy nên đây là nơi các con sẽ được an toàn nhất. Chỉ cần
đừng có dùng đèn flash của con, Kate ạ, và tất cả các con cần giữ im lặng. Hãy
giữ mình tránh khỏi tầm nhìn và luôn cảnh giác nghe ngóng. Nếu ta không trở
lại...”
“Milligan!” Constance ngắt
ngang bằng một giọng cáu kỉnh. “Chú thậm chí chưa xem mặt bên kia mà.”
“Mặt bên kia ư?” Milligan
không nghe thấy chúng luận về phần này. “Còn gì nữa à?”
“Cho con một phút,” Kate vừa
nói vừa với vào trong cái giỏ của mình. Cô bé lấy ra một cây bút lông có kích
cỡ như một chiếc bút chì và cái lọ keo siêu dính rồi nhanh chóng quết keo lên
các đường nối giữa những mảnh ghép. “Mất khoảng ba mươi lăm giây để hoàn thành,”
cô bé nói. Không ai nghi ngờ con số này - mọi người đều biết Kate luôn tính
toán chắc chắn - và quả là thế, khi Kate nâng tấm ghép lên là ba mươi lăm giây
sau đó, các miếng đều dính vào nhau chắc chắn. “Bằng cách này chúng ta có thể
lật qua lật lại nó nếu cần,” cô nói, mà không làm nó rời ra.
Kate đặt tấm bản đồ hướng mặt
xuống đất, làm lộ ra ở phía sau một dãy những gạch ngang và dấu chấm hoàn toàn
quen thuộc với mọi người.
“Chú không biết nó sao?”
Reynie mỉm cười nói.
Ngài Benedict từng cho chúng
học về mật mã Morse như là nhiêm vụ bắt buộc ở Học viện, và cả bọn đã có thể
đọc được nó. Nhưng bởi vì Sticky là người dịch nhanh nhất, nên những đứa kia
thường ỷ lại cho cậu việc xử lý các thông điệp mã hóa, suốt thời gian qua chúng
đã quen với thói quen ấy và bây giờ lại quay sang hỏi cậu. Sticky nhăn nhở cười
- nỗi ngượng ngùng pha lẫn tự hào - rồi dịch lời nhắn:
Thật vui vì các cháu đã ở
đây. Trong làng sẽ tìm thấy các nhu yếu phẩm và manh mối, vì có thể chúng ta đã
ra ngoài khi các cháu đến. Manh mối này sẽ đưa các cháu tới chỗ chúng ta. Sớm
thôi. B.
“Một manh mối khác!” Kate reo
lên đắc thắng. “Vậy bố phải mang chúng con theo, bố Milligan. Bố biết mà!”
Milligan tỏ ra khá bình thản
trước sự ngạc nhiên của bọn chúng. “Dù sao thì bố cũng thà giữ mấy đứa càng gần
càng tốt còn hơn. Nhưng chúng ta không biết chắc là ngôi làng có an toàn hay
không.” Ông cân nhắc một lúc. “Được rồi, chúng ta sẽ làm thế này. Chúng ta sẽ
băng qua vùng đất bằng tới chân dãy núi. Các con sẽ đợi ở đó cho tới khi ta lục
soát qua đường hầm và ngôi làng. Nếu tất cả an toàn, ta sẽ đưa các con vào làng
và chúng ta có thể xem xét manh mối kia. Dù vậy, ngay khi chúng ta giải quyết
xong, ta sẽ mang các con trở lại đây. Ta không muốn một lời tranh cãi nào về
chuyện đó nữa.”
Bọn trẻ đồng ý và chuẩn bị
lên đường ngay, nhưng Milligan nói họ sẽ đợi tới khi trời tối hơn. Trời càng
tối thì họ càng dễ băng qua vùng đồng bằng quang đãng.
“Chúng ta cũng nên bỏ lại cái
bản đồ,” Milligan nói. “Mang theo nó sẽ làm chúng ta chậm đi, mà ta muốn băng
qua vùng này nhanh nhất có thể.”
“Constance và cháu sẽ giấu nó
đi,” Reynie nói, để ý thấy ánh nhìn buồn bã trong mắt cô gái nhỏ. Cậu biết cô
bé đang nghĩ gì. Chiếc bản đồ chuông gió này cũng là một ví dụ khác về sự rắc
rối mà bọn trẻ đã gây ra cho ngài Benedict - một bằng chứng rõ ràng cho tình
yêu thương ông dành cho bọn chúng - và nó có thể là thứ cuối cùng, vì không gì
đảm bảo rằng ông sẽ để lại được manh mối kế tiếp trước khi bị bắt. Reynie đoán
rằng Constance đang rất muốn có thêm một phút giữ tấm bản đồ và điều đó được
khẳng định khi cô bé không hề cằn nhằn cậu vì tình nguyện giúp cô bé.
“Anh có nghĩ chúng ta nên
chôn nó không?” Constance hỏi khi họ đang ngày một di chuyển sâu hơn vào rừng.
Reynie lắc đầu. Chôn tấm bản
đồ có vẻ như gợi nhớ tới một tang lễ, cậu nghĩ, và điều đó hẳn khiến Constance
thấy rất thương tâm. “Chúng mình chỉ cần phủ cành lá cây vân sam lên trên thôi.”
Constance gật đầu đầy nhiệt
tình với vẻ vừa biết ơn vừa cảm thấy nhẹ nhõm. Cô như thể một cô nhóc ba tuổi
mà Reynie từng thấy trước đây - dễ tổn thương, đầy hy vọng và hoảng sợ - và giờ
đến lượt cậu cũng có chung cảm giác đó.
Trước khi họ đi được hai mươi
bước, Kate đã bắt kịp. “Bố Milligan muốn các cậu luôn ở trong tầm nhìn,” cô bé
nói. “Tớ đã nói với bố là tớ không nghĩ các cậu định đi xa để tổ chức tiệc trà,
nhưng ông không muốn có bất kỳ điều gì sơ sẩy.”
“Nói với chú ấy là bọn mình
sẽ ra vịnh để bơi,” Constance đảo mắt nói.
Kate khịt mũi. “Tức cười thật
đấy! Chị sẽ nói với bố điều đó. Ồ, chị có thể hình dung khi đó quai hàm của ông
sẽ nghiến chặt lại.” Cô bé quay người trở lại chỗ bìa rừng.
“Tâm trạng của Kate chắc chắn
đang rất tốt đây,” Reynie khiển trách.
“Em biết,” Constance nói, “và
rất tức giận.”
Quả là thế, lâu lắm rồi Kate
mới cảm thấy sôi nổi và vui vẻ như thế này. Cô bé thấy thật ly kỳ khi nhìn bố
mình làm việc - thậm chí chỉ là việc quan sát bầu trời, như bố Milligan đang
làm bây giờ - hay một phần trong nhiệm vụ giải cứu mà theo quan sát của cô là
nhất định sẽ thành công.
“Cậu biết không,” cô nói với
Sticky trong khi chờ đợi, “nghe cậu dịch cái mật mã Morse làm tớ nhớ tới thời
gian chúng mình ở Học viện. Tớ chẳng bao giờ dịch được với tốc độ nhanh đến
thế.” Cô bé cười lặng lẽ. “Tớ nhớ những ngày đó, còn cậu thì sao? Ý tớ là ngoại
trừ những lúc khủng khiếp ấy.”
Sticky nhoẻn miệng cười và
gật đầu. Cậu cũng có cảm giác hoài niệm như thế nhiều lần rồi chứ không chỉ
riêng lúc này (cậu thích bị dọa dẫm lúc đó hơn là bị dọa bây giờ), và lời khen
ngợi của Kate khiến tinh thần cậu phấn chấn hơn hẳn. “Tớ đặc biệt nhớ cái lúc
cậu rơi từ trần nhà xuống và dọa bọn tớ sợ mất vía.”
Kate cười vang đưa tay xoa
cái đầu hói của cậu bạn một cách trìu mến - rồi giật mạnh tay ra sau như thể
vừa bị chích phải bụi gai. “Au! Cậu có mấy cái tóc lởm chởm sắc ghê!”
Sticky nhún vai, vẫn cười
nhăn nhở. “Xin lỗi. Tóc đang mọc, cậu biết mà.”
“Đó là điều bố Milligan vẫn
thường nói,” Kate lầm bầm. “Và ông cứ băn khoăn tại sao tớ chẳng bao giờ muốn
hôn má ông.”
Khi Reynie và Constance trở
lại sau khi làm xong nhiệm vụ, Milligan bảo mọi người chuẩn bị sẵn sàng. Trời
vẫn còn chưa tối như ý ông muốn, nhưng nó sẽ không tối thêm nữa - một vầng
trăng tròn vành vạnh đang nhô lên ở phía đông và trời quang đãng không một gợn
mây. Và vì thế, họ lại càng bị áp lực hơn trong việc cần phải giữ cả im lặng và
tốc độ, Milligan dẫn lũ trẻ đi ra một khoảng đất bằng. Để hạn chế thời gian ở
ngoài khoảng trống, họ lên đường với một tốc độ khẩn trương. Với Milligan
chuyện này chỉ là chạy nhanh một chút, nhưng với lũ trẻ thì đó quả là một cuộc
chạy nước rút, và Milligan cứ bế hết đứa này đến đứa kia, cứ thay đổi thế mỗi
khi có đứa nào chạy hết hơi không thở được. Kate cõng Constance chạy cả quãng
đường. Đó quả là việc đòi hỏi phải dai sức, và ngay cả nếu Milligan không cấm
trò chuyện thì Kate cũng chẳng thể nào thốt lên được một lời.