Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 05 - Phần 2
Ngay khi lũ trẻ ra khỏi tầm nhìn của mấy bảo vệ, chúng lao ngay vào căn phòng trống đầu tiên (tình cờ lại là phòng ngủ của Số Hai) để bàn bạc về tình trạng tiến thoái lưỡng nan này.
“Nếu họ tìm thấy manh mối đó,” Kate nói, đóng cánh cửa phòng lại, “thì các cậu biết đấy chúng mình sẽ chẳng bao giờ thấy được nó cả.”
“Có thể họ đã tìm thấy nó rồi,” Constance nói. Cô nhóc chán nản thả người lên tấm thảm trải sàn màu vàng chanh mà Số Hai đã dệt cho cái sàn phòng của mình. “Từ tất cả những gì chúng ta biết, họ đang lên kế hoạch cho một cuộc giải cứu tai hại nào đó ngay khi chúng ta đang nói chuyện lúc này.”
“Chúng ta phải giả định là họ chưa tìm thấy nó,” Reynie nói. “Ngài Benedict có nhiều sách và giấy tờ khủng khiếp trong văn phòng làm việc, họ có lẽ sẽ không nghĩ đến việc kiểm tra cuốn từ điển đó cho tới khi đã kiểm tra mọi thứ khác rồi.”
“Chúng mình cần một cuộc đánh lạc hướng,” Kate nói. “Việc gì đó để khiến họ ra ngoài đủ lâu cho chúng mình lẻn vào trong và tóm lấy cuốn sách đó.”
“Có ý tưởng nào không?” Reynie hỏi.
Sticky bắt đầu nhìn quanh căn phòng như đang tìm kiếm cảm hứng. Mọi thứ cậu nhìn thấy đều quá đỗi quen thuộc với cậu: cái tủ quần áo để mở với dãy quần áo màu vàng chanh; cái giỏ đựng đồ may vá và những chồng tạp chí khoa học cạnh giường (Số Hai chỉ ngủ - hiếm khi nào hơn một hoặc hai tiếng đồng hồ - và lấp đầy những đêm dài bằng các hoạt động lặng lẽ); cái bàn viết ngăn nắp gọn gàng với mớ bút viết cắm trong một cái cốc; và dĩ nhiên cả tủ tích trữ đầy đồ ăn vặt (dù cô ngủ ít, nhưng Số Hai lại phải ăn hầu như không ngừng nghỉ nếu không sẽ trở nên khó chịu cáu gắt và yếu xìu).
“Tớ ước gì chúng mình không vào căn phòng này,” Sticky lầu bầu, chán nản trước quá nhiều thứ gợi nhớ đến người bạn mất tích của cả bọn. Cậu ta đi đến cửa sổ tìm kiếm thứ gì đó khác lạ để ngắm nhìn.
Thật khó mà miêu tả được cái Sticky nhìn thấy qua ô cửa sổ. Quả vậy, nó là một trong số những quang cảnh kỳ lạ nhất mà cậu từng được chứng kiến. Trong khoảng sân bên dưới, ba viên sĩ quan cảnh sát đang xoay mòng mòng xung quanh với những cẳng chân lơ lửng văng phía sau, như thể họ là những cái nan hoa của một chiếc bánh xe. Tất cả bọn họ đang cố gắng giữ lấy cái thứ đang làm họ xoay tròn tròn ấy; họ rơi hết cả mũ; một người thậm chí còn mất cả chỏm tóc giả che phần đầu bị hói, nó nằm lăn lóc trên mặt đất giống như một con chồn bị đánh bất tỉnh vậy. Cùng lúc ấy, trên vỉa hè phía sau hàng rào, ông Bane khó chịu kia đang nỗ lực chặn đứng nhưng không thành công, ông ta ngã ngửa nằm thẳng cẳng và nhìn chằm chằm lên trời có vẻ hoang mang lắm. Và như thể tất cả chuyện này còn chưa đủ khiến Sticky nghi ngờ mình đang nằm mơ, thì một cảnh tượng còn kỳ quái hơn hiện ra, một con chim khổng lồ sà xuống quắp lấy mái tóc giả của viên cảnh sát nọ, bay lên mái hiên nhô ra của ngôi nhà.
Sticky giụi giụi mắt, chằm chằm nhìn lại, và đột nhiên hiểu ra. “Tớ nghĩ chúng mình đã có được vụ đánh lạc hướng rồi đấy - Moocho Brazos vừa đến.”
Những đứa kia vội đổ xô ra cửa sổ (Sticky nâng Constance lên cho cô nhóc nhìn thấy được) và nhanh chóng hiểu cuộc náo động ở bên dưới: Moocho đã đến để gặp Kate vì lý do nào đó; ông Bane đã thô lỗ từ chối chấp nhận anh ta, điều này khiến ông ta bị ném bay qua hàng rào; còn mấy viên cảnh sát sau đó buộc phải làm căng với người đàn ông to lớn này, điều đầu tiên họ làm là tóm lấy anh ta, rồi sau đó tuyệt vọng đeo dính lấy khi anh ta cố gắng xoay bọn họ văng ra trên đường đi đến cửa trước ngôi nhà.
Một tiếng còi reo inh ỏi từ nơi nào đó dưới nhà, tiếp sau đó là tiếng những cánh cửa mở rầm rầm, mọi người đổ xô ra hành lang và cầu thang. Bảo vệ túa ra như đàn ong vỡ tổ để tới lối ra, mọi người khác đều vội vàng chạy tới các cửa sổ để xem có chuyện gì.
“Sticky đúng đấy!” Reynie reo lên. “Bây giờ là cơ hội của chúng ta!”
Rồi xoay ngoắt người nhanh nhất có thể, cậu phát hiện cánh cửa phòng ngủ đã mở rộng và Kate Wetherall đã biến mất tăm.
***
Cả bọn thấy Kate đang đi lên cầu thang ngay khi chúng bắt đầu đi xuống. Trong vòng tay cô bé là một cuốn từ điển đồ sộ cũ kỹ, và đôi mắt xanh biếc lấp lánh đầy phấn khích. Cô bé chỉ ra phía sau về phía lối bọn trẻ vừa đến. Bọn chúng liền quay lại và hướng thẳng tới phòng của Constance, ở đó Kate khóa cửa rồi đi tới cửa sổ.
“Tốt,” cô bé nói rồi ngó ra ngoài. “Rhonda đã ở dưới đó và đang cố gắng làm rõ mọi chuyện rồi. Chúng mình sẽ có thêm thời gian.” Cô bé tặc lưỡi. “Tội nghiệp Moocho. Tớ đánh cuộc là anh ấy có bức điện của chị Rhonda và đã lo lắng phát điên.”
“Cậu không bị nhìn thấy chứ?” Sticky hỏi.
Kate nhún vai. “Không.”
Dù đã biết rõ cô bạn, nhưng mấy đứa vẫn nhìn Kate chằm chằm, kinh ngạc hết sức. Chỉ trong vòng có vài giây - trong khoảng thời gian mấy đứa còn lại vừa đến được cầu thang - thì cô bạn đã phi xuống gác vào phòng làm việc, tìm thấy cuốn từ điển, và ra khỏi đó mà không bị phát hiện. Điều đó dường như là không thể.
Kate nhận ra vẻ mặt của các bạn. “Gì thế?” Cô bé cúi xuống nhìn mình trong tấm gương treo tường của Constance. “Tớ có thứ gì trên mặt à?”
“Chỉ cần cho bọn em xem cuốn từ điển ngu ngốc đó thôi,” Constance bực bội nói. (Cô nhóc vẫn gặp rắc rối với việc buộc dây đôi giày.)
Kate đặt cuốn sách dày cộp xuống sàn, mọi người cùng quỳ xuống để nhìn gần hơn. Cuốn từ điển này là một món đồ cũ kỹ rách nát với những cái bìa méo mó xộc xệch - bằng chứng của việc bị đổ nước vào trước đây rất lâu - còn cái gáy sách thì vô phương cứu chữa. Cẩn thận rón rén để không phá hoại nó thêm nữa, Reynie mở cuốn sách ra và bắt đầu lật từng trang. Một vài trang dính cứng vào nhau không tách ra được; vài trang rơi tả tơi ra ngay khi mới chạm vào. Mùi nấm mốc vẩn lên khắp phòng.
“Ngài ấy đáng lẽ nên vứt cái thứ này đi từ lâu rồi mới phải,” Constance nói, chun chun cái mũi trước mùi nấm mốc. “Nó thậm chí còn không thể dùng được nữa.”
Reynie lật một trang nữa để lộ ra một khoảng cắt sâu hình chữ nhật giữa những trang sách. Nằm lọt thỏm trong khoảng trống được khoét đó là một quyển sách khác. “Có lẽ không thể sử đụng được với tư cách là một cuốn sách. Nhưng với tư cách là một nơi cất giấu thì nó thật hoàn hảo.”
Cuốn sách thứ hai có bìa da màu nâu và cũng khá lớn. Reynie nhanh chóng giở trang đầu tiên, nó trống trơn ngoại trừ câu đề tặng sau:
Các vị khách nên thường xuyên giữ những cuốn nhật ký, và các cuốn nhật ký nên thường xuyên lưu giữ các bí mật. Cuốn nhật ký này không ngoại lệ. Ta đã mạn phép viết vào trang nhật ký đầu tiên rồi. Hãy đọc nó thật nhanh và chuyển tiếp cho những người khác. Chúc chuyến đi vui vẻ! - Ngài Benedict.
Cùng với mấy đứa bạn dòm qua vai, Reynie lật thêm vài trang nữa. Thật khó mà đánh giá được liệu cuốn nhật ký này là một món quà đắt giá hay thứ gì đó ngài Benedict vớ được từ một đống đồ hạ giá - một vài thứ bị bỏ đi vì là một sản phẩm lỗi và được bán đổi lấy một vài đồng. Mặc dù được làm từ chất giấy nặng, tốt nhưng những trang giấy của nó bị xén lỗi gồ ghề, đến mức một vài trang lại có khổ rộng hơn những trang khác. Mỗi trang đều trống trơn ngoại trừ một chữ cái được viết ở góc ngoài dưới đáy cùng. Reynie lật tới mặt sau cuốn sách. Cũng thế. Một chữ cái ở mỗi trang, nhưng sắp xếp các từ đó lại cũng không tạo thành những câu rõ nghĩa.
“Chúng mình hãy xem lần lượt thật kỹ càng và chậm rãi thôi,” Kate nói.
Reynie quay lại mặt trước và bắt đầu giở các trang cùng một lúc, làm thế một lèo cho tới tận cuối. Vài trang đầu thu được chuỗi các từ sau:
CẮM XUỐNG NHỮNG BÔNG HỒNG VÀ SỐ BA NẮM LẤY CÁC CƠ HỘI NẮM LẤY THỜI GIAN ĐỂ TIN TƯỞNG NHỮNG NGỌN NẾN MÀU NÂU VÀNG LẤY CÁC GHI CHÚ LẤY THƯỚC KẺ CỦA TÔI NỮA CỞI GĂNG TAY MANG VỀ NHÀ.
Khoảng một phần ba cuốn nhật ký có một chuỗi từ khác bắt đầu:
MAY MẮN CỦA NHỮNG NGƯỜI ANH EM TÔI Ý NIỆM VÀ HẬU QUẢ TÊN VÔ LẠI CON SÂU LÀM RẦU NỒI CANH DÂY THẦN KINH CÂU ĐỐ CÁ NHÁM GÓC ĂN CÁ DA TRƠN ĐÁP ÁN.
Và một phần ba cuối cuốn nhật ký, các từ ở góc đáy trang lại chạy tiếp như thế này:
ĐƯỜNG TẮT CẮT TÓC ĐƯỜNG TẮT XANH ĐƯỜNG TẮT TÓC HÚI CUA ĐƯỜNG TẮT LÀM ĐƯỜNG TẮT LẠNH CẮT ĐƯỜNG TẮT BẠN ĐƯỜNG TẮT CÚ ĐẤM MÓC ĐƯỜNG TẮT XUYÊN QUA.
Sticky gãi gãi đầu. “Nó là một kiểu câu đố chữ nào đó, tớ thấy thế.”
“Nó đã nhắc đến từ ‘câu đố’,” Kate nói. “Có lẽ đó là manh mối?”
Hai đứa cùng nhìn Reynie để cầu cứu, nhưng Constance làm cả bọn ngạc nhiên bằng việc cất lời trước. “Đi đường tắt,” cô nhóc thì thầm, như đang nói với chính mình.
“Gì cơ?” Sticky hỏi.
“Đó là đáp án,” Constance tuyên bố, bây giờ càng tự tin hơn. “Hãy đi đường tắt.”
Reynie nhìn Constance thăm dò thật lâu. Cô nhóc nhìn chằm chằm lại như thể thách thức cậu dám cự cãi. Thay vào đó cậu quay sang hai đứa bạn và nói, “Tớ đồng ý với Constance.”
Sticky lắp bắp. “Nhưng... nhưng làm thế nào...”
Kate đang liếc nhìn tới nhìn lui Reynie và Constance. “Điều gì khiến cậu nghĩ thế?” cô bé hỏi, mặc dù có vẻ không biết hỏi ai trong hai bọn họ.
Reynie chìa bàn tay về phía Constance, ý bảo cô bé nên trả lời.
“Điều đó rõ ràng mà,” Constance nói. “Chúng chỉ có ba từ duy nhất được lặp đi lặp lại. Những từ khác chẳng có nghĩa gì - chúng chỉ là những thứ thêm vào để trông có vẻ kỳ quái thôi.”
“Chúng có thể được lặp lại rất nhiều lần,” Sticky nói, “nhưng làm sao em có thể chắc chắn cái đó là quan trọng?”
“Hãy nhìn chúng mà xem,” Constance nói. “Chúng luôn ở góc của một trang giấy khổ rộng, không bao giờ ở góc trang giấy khổ hẹp. Thế không phải trông có vẻ quan trọng à?”
Sticky không phải nhìn. Cậu hoàn toàn nhớ rõ các chữ cái đó ở từng trang giấy. “Ok, cũng đúng thế thật. Nhưng tại sao các trang giấy khổ lớn hơn lại quan trọng? Ai nói chúng ta có thể loại trừ các trang giấy hẹp kia?”
Constance nhún vai. Cô nhóc không có câu trả lời cho điều này. “Dù thế nào em biết là em đã đúng,” cô bé đáp. “Em chỉ có thể nói thế thôi.”
Reynie băn khoăn nhìn cô bé đăm đăm. Cậu nghĩ thật hiển nhiên khi Constance làm chúng ngạc nhiên. Cứ theo như những gì cô bé có khả năng làm được ở tuổi lên hai, thì chẳng có gì để nói về điều cô bé có thể làm được lúc này khi đã ba tuổi. Sau rốt thì cô nhóc chắc hẳn đã phát triển rất nhiều trong sáu tháng vừa qua.
“Reynie?” Kate gọi. “Có ý kiến gì về những trang sách khổ lớn ấy không?”
Reynie mở cuốn nhật ký tới phần đề tặng của ngài Benedict và rê ngón tay theo cụm từ này: Đọc nó thật nhanh. “Nhớ cái đó không? Tớ đoán nó quan trọng, ngài Benedict biết vài người trong chúng ta đọc nhanh đến mức nào - đặc biệt là Sticky.”
“Tốc độ thì có liên quan gì tới ý nghĩa của những từ đó chứ?” Kate hỏi.
“Tốc độ phải có liên quan tới những từ cậu nhìn thấy,” Reynie nói, và cùng lúc mọi người vẫn đang nhìn, cậu trải rộng theo hình quạt các trang nhật ký từ trái sang phải. Chắc chắn, chỉ có duy nhất những từ đó xuất hiện ở góc dưới cùng là: HÃY ĐI ĐƯỜNG TẮT.
“Oa, các cậu biết rồi!” Kate reo lên cười vang. “Tất nhiên rồi! Những từ kia ở các trang giấy khổ hẹp nên khi cậu trải ra như thế...”
“... chỉ có các góc của trang giấy lớn mới xuất hiện,” Sticky nói nốt và gật gù. “Phải rồi, tớ cũng thấy thế.”
Kate huýt sáo. “Tớ sẽ không đoán ra nổi điều đó trong cả triệu năm nữa.”
Constance trông cực kỳ phổng mũi.
“Được rồi, vậy là chúng mình đã bước được một bước tới gần hơn,” Reynie nói. “Chúng mình cần đi đường tắt. Nhưng đường tắt nào? Đường tắt dẫn tới đâu?”
Cả nhóm rơi vào yên lặng, Reynie chống cằm vào hai bàn tay, cố gắng tập trung. Từ khóe mắt cậu thấy Constance cũng đang làm y như thế. Lúc đầu cậu nghĩ cô bé đang chế nhạo trêu chọc cậu, nên định bảo cô nhóc thôi đi. Nhưng rồi cậu thấy cô bé nhắm mắt, rõ ràng cũng đang cố gắng suy nghĩ. Reynie cảm thấy một thoáng vô cùng kỳ quái. Cậu chưa kịp có thời gian nấn ná lại với cảm giác đó thì có người gõ cửa.
“Các em đều ở trong đó à?” tiếng Rhonda hỏi. “Các em có khách đến thăm này.”
Lũ trẻ trao nhau những cái nhìn chán nản. Nếu chúng không muốn làm dấy lên nghi ngờ, chúng không có lựa chọn nào cả. Trong thoáng chốc, cuộc họp của hội đã bị trì hoãn.