Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 1) - Chương 05 - Phần 1
Chương 5: Người
Gửi và thông điệp
Cuối
cùng thì cả bốn đều đồng ý gia nhập đội, cho dù mỗi người có những khó khăn
riêng khi đưa ra quyết định. Kate lôi một phong kẹo cao su ra và nói “cháu tham
gia” mà chẳng cần nghĩ ngợi gì. Reynie không đến vô ưu như Kate, nghĩ ngợi một
lúc. Nếu không tham gia vào đội, cậu sẽ làm gì? Quay về nhà tế bần sao? Gặp lại
cô Perumal thì tốt đấy, nhưng rồi cậu sẽ lại phải sống cuộc đời như trước kia:
lạc lõng giữa bạn bè cùng trang lứa, cô đơn và sống không mục đích. Hơn nữa,
nếu có thể tin tưởng được ngài Benedict (vì một số lý do nào đó, Reynie đã thực
sự tin tưởng), thì cảm giác cô đơn sống không mục đích hay chỉ là những chuyện
nhỏ bé nhất. Chuyện tồi tệ nào đó sắp xảy ra, và ngài Benedict cần chúng để
ngăn nó lại. Một cảm giác rất lạ về ý thức trách nhiệm, đấy là còn chưa tính
đến sự tò mò mãnh liệt, thôi thúc Reynie tham gia.
Constance
còn ngờ vực nhiều hơn. Dường như đó là cách tiếp cận mọi việc của cô bé. “Vậy
nếu cháu ở lại, và ngài kể cho cháu nghe bí mật lớn này, có cái gì ngăn cản
cháu đi ra ngoài kia và kể lại với tất cả mọi người không?”
“Không
gì cả,” ngài Benedict nói. “Cháu có quyền đi bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, nếu ta
không xác định từ trước là ta có thể tin tưởng cháu, thì cháu đã không có cơ
hội được vào căn phòng này. Hơn nữa, ngay cả khi cháu kể với người khác đi nữa,
thì sẽ chẳng ai tin cháu đâu, vì
cháu chỉ là một đứa trẻ. Đó chẳng phải lý do ban đầu để cháu tham dự kỳ thi này
sao?”
Mặt Constance cau lại
như sắp khóc - hoặc có khả năng cao hơn, là sắp cười phá lên.
“Ta không có ý công
kích cháu đâu cô bé,” ngài Benedict dịu dàng. “Giao kèo nhé. Nếu cháu đồng ý
tham gia vào đội, thì thỏa thuận thế này: Cháu sẽ làm theo hướng dẫn của ta,
nhưng là bởi cháu đồng ý làm như thế, chứ không phải vì ta bảo cháu phải làm
thế. Không ai có quyền ép cháu làm bất cứ việc gì. Tất cả đều là nguyện vọng
của chính bản thân cháu.”
“Được ạ,” cuối cùng
Constance cũng có quyết định. Bây giờ, chúng cháu sẽ ngủ ở đâu ạ?”
“Ta biết các cháu
mệt, nhưng phải đợi Sticky quyết định đã.”
Sticky khi đó đang co
ro trên ghế, hai tay ôm ngang đầu gối, vùi mặt vào đó. Nghe thấy những lời của
ngài Benedict, Sticky ngẩng lên với vẻ mặt hoảng loạn, rồi nhanh chóng giấu mặt
đi. Giọng nói bị nghẹt lại, Sticky lầm bầm, “Cháu có thể quyết định vào ngày
mai được không?”
“Ta e là không được
đâu, anh bạn. Không còn thời gian để phí phạm nữa. Ta không muốn phải thúc ép
cháu, nhưng cháu phải đưa ra quyết định cuối cùng vào tối nay.”
“Nếu cháu không tham
gia, ngài có nghĩ mọi người vẫn tạo thành một đội đủ tốt không?” Sticky tiếp
tục lầm bầm.
“Nói thẳng ra là
không. Ta nghĩ đội cần cháu để có thể thành công.”
“Nếu vậy thì làm sao
cháu nói không được?”
Ngài Benedict vẫn nhẹ
nhàng. “Sticky, cháu lo sợ là điều hoàn toàn chính đáng thôi. Thật kinh khủng
khi một đứa trẻ được đề nghị tham gia vào một nhiệm vụ nguy hiểm. Cháu hoàn
toàn có quyền nói không, và ta cũng sẽ hoàn toàn không trách cháu.”
“Cố lên nào, Sticky,”
Kate nói. “Sẽ thú vị đấy!”
Sticky lén nhìn từ
sau đầu gối mình, đầu tiên là thấy Kate, cô bé mỉm cười và nháy mắt với cậu bạn
của mình. Rồi đến lượt Reynie, “Tớ cũng sẽ giống ngài Benedict, không trách cứ
nếu cậu không tham gia. Nhưng tớ sẽ thấy an tâm hơn rất nhiều nếu có cậu.”
“Đúng thế chứ?”
Reynie gật đầu.
Sticky lại vùi mặt
xuống. Một lúc lâu, căn phòng trở nên yên ắng và ngập chìm trong cảm giác chờ
đợi. Ngoại trừ việc Constance ngáp dài và lấy tay cào cào vết côn trùng cắn ở mắt
cá, những người khác chẳng ai cử động hay nói một lời nào cả. Chỉ có tiếng thở
thật khẽ và tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ lẫn ở đâu đó giữa những cuốn sách.
Cuối cùng, Sticky
ngẩng lên. “Cháu sẽ tham gia. Bây giờ thì cháu được sử dụng phòng tắm rồi chứ
ạ?”
Mặc dù rất háo hức
muốn được hỏi thêm, nhưng vì đã khá khuya, và mi mắt của lũ trẻ thì nặng trĩu
rồi, nên ngài Benedict cho rằng bọn trẻ nên nghỉ ngơi và để dành những giải
thích cặn kẽ hơn cho buổi sáng hôm sau.
Rất nhanh chóng, bọn
trẻ được phát bàn chải đánh răng, bộ đồ ngủ và dép đi trong nhà để giữ ấm chân
- vì tòa nhà cũ kỹ này không kín gió vào ban đêm - trước khi chúng được đưa đến
phòng ngủ. Căn phòng của Reynie và Sticky nhỏ nhưng thoải mái với một tấm thảm
cũ kỹ trải trên nền nhà bằng gỗ, chiếc giường tầng kê sát vào tường, và dĩ
nhiên là có thêm vài giá sách. Khi đã đánh răng xong và quay trở về phòng,
Reynie thấy Sticky đã ngủ gật ở cái giường tầng dưới, đèn vẫn sáng, kính vẫn
đeo trên mũi, và dép thì vẫn còn nguyên ở chân. Trên ngực cậu bạn, phập phồng
lên xuống cùng nhịp thở đều đều của một người đang ngủ rất say, là một cuốn
sách dày về đời sống của các loài cây nhiệt đới được lôi trên giá sách xuống.
Sticky đã mở đến những trang giữa. Chỉ trong vòng vài phút ít ỏi cậu bạn đã đọc
được nửa cuốn sách.
Reynie kinh ngạc vô
cùng. Chính Reynie là người có khả năng đọc nhanh - nhanh hơn những người lớn
xung quanh - nhưng so với Sticky thì chẳng thấm vào đâu. Thật là một tài năng
phi thường, và giờ thì cậu ấy đang nằm đây, ngủ khì ngon lành trong nhà của một
người xa lạ. Cậu ấy chạy trốn điều gì? Đứng giữa một căn phòng sáng ánh đèn,
suy ngẫm về cuộc đời Sticky, Reynie cảm nhận một thứ cảm xúc hỗn độn lạ lùng
pha giữa ngưỡng mộ, yêu mến và đồng cảm - chẳng hiểu sao dù mới quen Sticky
được một ngày mà Reynie lại tưởng như cả hai đã biết nhau từ lâu lắm rồi. Với
Kate cũng thế, Reynie nhanh chóng cảm thấy yêu mến người bạn mới này. Còn
Constance… chà… có lẽ phải đợi mới biết được.
Dù thế nào, Reynie
nghĩ, nếu cuối cùng chẳng có gì xảy ra, thì ít nhất mày cũng có thêm những
người bạn mới. Như thế là quá nhiều so với những gì mày có ngày hôm qua rồi.
Reynie cởi đôi dép Sticky đang đi, đặt kính và cuốn sách đang đọc dở lên cái
giá cạnh giường, rồi kéo chăn đắp cho bạn, cậu tắt đèn và rón rén ra khỏi phòng.
Xuôi xuống đại sảnh
tối om và yên ắng - giờ này các cô gái hẳn cũng ngủ rồi. Bước xuống những dãy
cầu thang kêu kẽo kẹt, Reynie quay trở lại thư phòng của ngài Benedict. Cậu nhẹ
nhàng gõ cửa, và từ phía trong một giọng nói cất lên, “Cháu vào đi Reynie.”
Reynie bước vào. Chỉ
có mình ngài Benedict ở đó, ông đang ngồi bệt trên sàn, lưng dựa vào ghế và
xung quanh là cơ man những sách, giấy tờ và bút màu. Ngài Benedict chỉ một cái
ghế và nói:
“Cháu ngồi đó nhé,
chờ ta dọn dẹp cái đống này đã. Thật là một việc khó khăn khi phải làm việc
trên sàn thế này, nhưng đấy là thỏa thuận giữa ta với Rhonda và Số Hai. Bọn
chúng giờ cẩn thận quá mất rồi, chẳng dễ gì chúng mới chịu cho ta ở một mình
trong mấy phút. Nên ta đã phải hứa là sẽ ngồi càng nhiều càng tốt - và phải ở
trên sàn bất cứ khi nào có thể - thì thỉnh thoảng chúng mới cho ta được một
chút riêng tư.”
Dọn dẹp xong đống
giấy tờ bút mực, ngài Benedict ngồi xuống đối diện với Reynie. “Ta đang chờ
cháu. Ta đoán cháu muốn gọi cho cô Perumal để thông báo tình hình.”
Reynie gật đầu.
“Cháu rất ngoan đấy.
Số Hai đã kể lại với ta thái độ của cháu lúc nó cố tình làm cháu bối rối sáng
hôm nay, lúc cháu nói muốn gọi cho cô Perumal. Ta đoán là cháu nhận ra thực ra
đó cũng là một thử thách của kỳ thi.”
Reynie lại gật đầu.
Thật ra, lúc đó, Reynie chẳng biết đâu. Nhưng giờ, nhìn lại tất cả những việc
kỳ lạ đã xảy ra, cậu đã đoán ra phần nào.
“Cách cư xử của cháu
thật đáng ngưỡng mộ,” ngài Benedict nói. “Lễ phép nhưng kiên định, và chu đáo
nữa. Giờ ta e là cháu cũng không gọi điện được đâu, không phải là một phần của
kỳ thi đâu nhé. Cô Perumal có gọi cho ta lúc cháu đang ở phòng. Mẹ của Perumal
hình như đã phản ứng không tốt với loại thuốc mới và cần phải được đưa đến bệnh
viện. Cô ấy nói cháu không phải lo lắng, chỉ là một phản ứng bình thường thôi
và các bác sỹ cam đoan là mẹ Perumal sẽ lại lanh lợi trở lại vào sáng mai.
Nhưng Perumal muốn cho cháu biết cô ấy tự hào về cháu thế nào - tự hào chứ
không ngạc nhiên đâu nhé, cô Perumal nói thế đấy - và gửi lời chúc mừng cháu.”
“Bây giờ thì,” ngài
Benedict nói tiếp, tháo kính và nhìn Reynie với cặp mắt màu xanh rất sáng của
mình (màu mắt dường như xanh hơn nhờ vào bộ quần áo xanh ông đang mặc), “ta có
thể đoán được các câu hỏi tiếp theo của cháu đấy. Việc đầu tiên là, ta đã thu
xếp ổn thỏa với ngài Rutger của nhà tế bần. Chúng ta có đủ nguồn lực và kỹ năng
để làm rất nhiều việc mà các cháu không hình dung được đâu. Thứ hai, nghiêm túc
nhé: cháu không được liên lạc với cô Perumal nữa. Ta e rằng nhiệm vụ chúng ta
đang thực hiện không cho phép cháu làm thế. Đó là để bảo vệ cho Perumal, và cả
chính bản thân cháu nữa. Nhưng nếu mọi việc diễn ra tốt đẹp - chúng ta ai cũng
hy vọng như vậy cả - cháu có thể gặp lại cô ấy. Thật ra, chúng ta buộc phải
thành công trong một thời gian rất ngắn, và vì thế mà cơ hội đoàn tụ của cháu
với cô giáo sẽ đến sớm hơn, chẳng sớm thì muộn.
Reynie lại gật đầu,
nhưng cái gật đầu chẳng còn vẻ can đảm như trước đó, rồi cậu quay mặt đi giấu
những giọt nước mắt đã dâng trong mắt. Dù cũng đã lường trước tình huống này,
nhưng Reynie vẫn thấy buồn bã khi nghĩ đến việc có thể chẳng bao giờ lại được
ngồi uống trà cùng cô Perumal, hay cố gắng dùng vốn tiếng Tamil ít ỏi của mình
để kể cho cô về những chuyến phiêu lưu của mình nữa. Nghĩ ngợi về những gì đang
đợi mình ở phía trước khiến Reynie thấy buồn, và cả lo sợ nữa.
“Ta xin lỗi, Reynie,”
ngài Benedict ngập ngừng.
Reynie chưa thể quay
lại nhìn ngài Benedict ngay. Vẫn quay mặt đi chỗ khác, cố thở sâu và đưa tay
quệt vội nước mắt, để cố tự trấn tĩnh mình. Đến khi cảm thấy mình đã bình tĩnh
trở lại, Reynie quay lại nhìn ngài Benedict - lúc đó đã ngủ ngon lành trên ghế.
Vậy nhưng trước khi
Reynie kịp đứng dậy và nhón chân đi ra khỏi phòng, ngài Benedict đã mở mắt và
kéo tay cậu lại. “Thứ lỗi cho ta, Reynie,” ông nói, hắng giọng và đưa tay vuốt
lại mái tóc bù xù của mình. “Ở lại thêm chút nữa, ta muốn hỏi cháu một số
chuyện. Ta không ngủ lâu quá, phải không? Ta tin ta đã không bắt cháu phải đợi
quá lâu.”
“Dạ không. Chỉ một
hai phút thôi ạ.”
“Thế thì tốt. Thường
thì chỉ một hoặc hai phút thôi, nhưng thỉnh thoảng thì lâu hơn đấy. Bây giờ, ta
muốn hỏi cháu một chuyện...”
“Vâng ạ?”
“Có liên quan đến bàn
cờ ở vòng thi thứ nhất ấy. Cháu là thí sinh duy nhất từ trước đến nay trả lời
đúng, và ta rất muốn nghe cháu giải thích rõ hơn. Trên bàn cờ rõ ràng là chỉ có
quân tốt đen không còn ở vị trí xuất phát nữa, trong khi tất cả các quân cờ
khác có vẻ như chưa hề di chuyển. Trong khi theo luật cờ vua, quân trắng bao
giờ cũng được đi trước. Vậy thì tại sao cháu lại trả lời nước đi đó là đúng
luật?”
“Bởi vì quân mã trắng
đã thay đổi ý định ạ.”
“Mã trắng?”
“Đúng ạ. Quân tốt chỉ
có thể tiến, không thể lùi, vì vậy chắc chắn chưa có quân tốt trắng nào di
chuyển. Các quân mạnh hơn thì bị kẹt ở phía sau hàng tốt, nên cũng chưa thể có
quân nào di chuyển, chỉ duy nhất quân mã là có thể nhảy qua đầu các quân khác.
Tuy nhiên, một quân mã trắng đã có thể mở đầu ván cờ bằng cách nhảy ra phía
trước hàng tốt. Sau đó, khi một quân tốt đen đã di chuyển, mã trắng quay trở
lại vị trí xuất phát của nó. Vì thế mà nhìn bàn cờ cứ như là chưa có quân trắng
nào di chuyển trước đó vậy.”
“Hoan hô, Reynie.
Cháu gần đúng rồi đấy. Vậy thì nói cho ta biết, cháy thấy đây có phải là một
nước đi thông minh không?”
“Cháu chơi cờ không
giỏi, nhưng cháu xin trả lời ngài là không. Làm thế, quân trắng đã để mất lợi
thế được đi trước.”
“Vậy thì theo cháu
sao người cầm quân trắng lại làm thế?”
Reynie trầm ngâm,
tưởng tượng mình đang là người chơi cầm quân trắng, cho mã đi nước đầu tiên chỉ
để sau đó đưa nó về đúng vị trí xuất phát. Lý do gì khiến cho mình làm thế?
Cuối cùng, Reynie nói, “Có thể là anh ta nghi ngờ chính mình.”
“Có lẽ đúng là như
thế,” ngài Benedict nói. Cảm ơn cháu nhé Reynie, cháu rất tốt bụng và kiên trì
nữa, và giờ chắc là cháu đã sẵn sàng cho một giấc ngủ rồi phải không. Gặp lại
cháu vào bữa sáng mai nhé, rất sớm đấy.”
Reynie đứng dậy đi ra
cửa, nhưng bỗng ngập ngừng. Quay lại, Reynie thấy ngài Benedict đã lại đeo
kính, ngồi bệt xuống sàn, lưng dựa ghế và tay thì cầm một cuốn sách. Ngài nhíu
mày chờ đợi khi nhìn thấy Reynie vẫn đang nấn ná ở cửa.
“Gì thế Reynie?”
“Ngài đã đọc hết tất
cả sách ở đây chưa ạ?”
Ngài Benedict cười,
nhìn một lượt các cuốn sách có ở thư phòng rồi quay lại nhìn Reynie. “Con trai,
con nghĩ sao?”
Hôm sau, từ rất sớm,
bọn trẻ đã thức dậy và tập trung ở dưới phòng ăn (vì chả biết có chỗ nào khác
nữa). Mưa đập mạnh ngoài cửa sổ, gió ầm ùng trong ống khói lò sưởi thổi giấy tờ
bay tứ tung khắp phòng. Bầu trời xầm xì bên ngoài dường như cũng đang trườn vào
cả căn nhà, làm ánh sáng đèn yếu ớt và kéo dài mấy cái bóng của bọn trẻ, bên
cạnh mấy cái ống khói đang gào rú là tiếng sấm gầm gừ, nghe gần và đậy vẻ đe
dọa, cứ như có một con hổ đang lảng vảng trong bóng tối ngoài kia, phía sau mấy
bức tường. Thảng hoặc ánh đèn lập lòe trong tiếng sấm, và có một lần - khi lũ trẻ
vừa mới ngồi xuống bàn - đèn tắt hẳn. Trong chốc lát căn phòng chìm trong bóng
tối, khi đèn sáng trở lại đã thấy Milligan đứng đó, tay bê một bình nước hoa
quả, cứ như vừa xuất hiện từ một cõi mơ hồ nào đó.
Constance hét toáng
lên. Những đứa khác giật nảy người.
Milligan thở dài.
Rót nước hoa quả vào
cốc của lũ trẻ, Milligan nói, “Rhonda sắp mang bánh mì nóng và trứng ra. Còn Số
Hai đang phải che lại mấy khe hở trên tường phòng ngủ của mình, và sẽ đưa ngài
Benedict đến đây khi xong việc.”
“Milligan, cháu có
được uống sữa không ạ?” Kate phấn khởi hỏi. Cô bé là người dậy sớm nhất, đã kịp
tắm rửa và thay bộ quần áo mới Rhonda đưa cho, và - rõ ràng là chẳng thèm để ý
đến cơn bão ngoài kia - đang vui vẻ hơn bất cứ ai khác ở đây.
Và chẳng có gì phải
nghi ngờ việc cô bé đang có tâm trạng tốt hơn Milligan, người vừa hỏi với cái
dáng vẻ ủ rũ “Thêm gì nữa không?”
“Sẽ không có trà,
phải không ạ?” Reynie hỏi. “Và có thể thêm một ít mật ong nữa ạ?”
“Và kẹo nữa?”
Constance hỏi.
“Không được ăn kẹo
vào bữa sáng,” Milligan nói, và rời khỏi phòng.
Rhonda xuất hiện với
một khay đầy bánh mì nóng, trứng và hoa quả. “Chào buổi sáng mọi người,” cô
nói. “Thời tiết chán nhỉ? Vào những hôm như thế này, lại phải chặn cái gì đó
trên mỗi chồng giấy, nếu không muốn gió thổi bay nó đi. Một cái bản đồ vừa mới
bay vèo qua chỗ chị ở ngoài phòng lớn, còn ở ngoài cầu thang chị tìm thấy danh
sách thực phẩm mà hai tuần trước chị đã để lẫn ở đâu đó.”
“Kẽ hở trên khắp
tường và gió lùa ở khắp nơi,” Constance cằn nhằn. “Phải sửa hết mấy chỗ đó đi thôi.”
“Nhưng em e kẽ hở và
gió lùa không phải là những thứ được ưu tiên,” Rhonda nói. “Kế hoạch của chúng
ta - bây giờ là của cả các em nữa - chiếm hết từng giây phút rảnh rỗi của chúng
ta rồi, và bao nhiêu sức lực thì đã dành hết cho các nghiên cứu, điều tra, và
thử nghiệm rồi còn đâu. Constance, đưa chị bình nước hoa quả với nào?”
“Không,” cô bé khoanh
tay trước ngực, dứt khoát.
“Có lẽ em sẽ bớt xấu
tính sau khi đã ăn chút gì đó đấy,” Rhonda nói, tự tay với lấy bình nước. Nghe
thấy thế, đôi má phúng phình, hồng hào của Constance ửng đỏ, đến mức tương phản
với hai gò má ấy, bộ tóc mỏng vàng hoe của cô bé bây giờ gần như có màu trắng,
và đôi mắt xanh xám thì sáng rực như sao. Rhonda nhận thấy điều đó ngay,
“Constance này, chị không nghĩ là đôi mắt của em lại đáng yêu đến thế đâu nhé.
Trông chúng kỳ diệu lắm đấy!”
Lời khen của Rhonda
khiến Constance bối rối không nói thêm được gì.
Milligan quay lại với
một ít sữa, một tách trà và một hũ mật ong. Thì thầm với Rhonda về điều gì đó
đại loại như đang làm nhiệm vụ, rồi bỏ đi luôn.
“Ý chú ấy là gì ạ?”
Sticky hỏi. “Đang làm nhiệm vụ?”
“Milligan là - ừm, vì
không tìm được từ nào hay ho hơn - là vệ sĩ của chúng ta. Anh ấy cũng có những
nhiệm vụ khác nữa, nhưng trên hết là phải đảm bảo cho chúng ta được an toàn. Dĩ
nhiên, cho đến thời điểm này chưa có nguy hiểm nào hiển hiện rõ ràng, nhưng giờ
các em đang ở đây rồi… Chị xin lỗi, chị không định làm các em sợ. Điều quan
trọng là anh ấy ở đây để bảo vệ các em.”
“Bảo vệ bọn em trước
cái gì ạ?” Reynie hỏi.
“Chị sẽ để ngài Benedict
giải thích tất cả với các em khi ngài ấy xuống. Quy định là: Các em không bao
giờ được rời khỏi tòa nhà này mà không có Milligan đi cùng. Ở trong nhà, các em
khá an toàn, vì có những phương pháp để bảo vệ chúng ta. Ví dụ cái mê cung
không chỉ đơn giản là một thử thách của kỳ thi - nó là lối vào duy nhất. Và ta
vừa nhớ ra một chi tiết: Tất cả các mũi tên đều chỉ đến cầu thang, có nghĩa là
chúng chẳng có tác dụng gì nếu các em muốn rời tòa nhà. Đó là một lý do nữa để
các em đừng bao giờ đi ra ngoài mà không có Milligan đi cùng. Phải có một
phương pháp đặc biệt mới có thể mở cánh cửa trước - các em đều nhớ là không hề
có tay nắm cửa ở phía trong chứ - và Milligan thì nắm rõ mê cung như lòng bàn
tay vậy.”
“Em thấy cách so sánh
này thật buồn cười,” Kate nói. “Bởi vì người ta có thể biết được lòng bàn tay
mình đến mức nào chứ? Thẳng thắn mà nói, có ai biết chính xác lòng bàn tay mình
trông thế nào không?”
Mọi người đều đang
săm soi lòng bàn tay của mình khi ngài Benedict bước vào, sát theo sau là Số
Hai. Dù đã thay bộ màu vàng hôm qua bằng bộ áo liền quần vàng nhưng trông Số
Hai vẫn rất giống một cây bút chì. Cô lẽo đẽo theo sát ngài Benedict đến tận
khi ông đã ngồi xuống bàn sau khi chào hỏi khắp lượt. Ngay sau đó, Số Hai sà
ngay xuống khay bánh mì nóng và trứng, vô tình va phải Rhonda.
“Xin lỗi,” Số Hai bối
rối.
“Không sao ạ,” Rhonda
nói, rồi quay về phía bọn trẻ, “Số Hai lúc nào cũng thấy đói vì chị ấy không
bao giờ ngủ. Một người phải cần nguồn năng lượng siêu khủng để có thể thức suốt
được như thế, vì thế chị ấy ăn rất nhiều.”
“Và nó còn khiến ta
căng thẳng và hay cáu gắt nữa,” Số Hai nói. Ăn đến phần vỏ bánh, Số Hai quay
bên này, lật bên kia, vội vàng cắn từng miếng bánh nhỏ.
“Cô không bao giờ ngủ
thật ạ?” Kate hỏi sau một lúc im lặng tò mò quan sát.
Số Hai nuốt vội miếng
bánh, “À, ừ, ta có ngủ chứ, nhưng ít lắm.”
“Chẳng phải chúng ta
tạo thành một cặp hoàn hảo sao?” Ngài Benedict nói, tay rót một tách trà. “Ta
thì không thể thức, còn Số Hai lại không thể đi ngủ.” Rồi ông bắt đầu cười,
nhưng ngay lập tức phải cố dừng lại, rõ ràng là ông không muốn liều lĩnh. “Tiện
đây, Rhonda, cháu có thấy cái bản đồ bến cảng của ta ở đâu không? Ta không thấy
nó trong thư phòng.”
“Cái bản đồ bị cuốn
bay xuống phòng lớn ạ,” Rhonda nói. “Cháu để nó ở cạnh cái chuồng, dưới cuốn sách
tiếng Thụy Sỹ về máy gia tốc hạt.”
“Cảm ơn Rhonda. Bây
giờ nói đến cái chuông, các cháu đều nhớ nó ở đâu chứ - đầu cầu thang tầng hai?
Bất cứ khi nào nghe chuông kêu, ta muốn mọi người tập trung ở đầu cầu thang đó
ngay lập tức. Chuông chỉ kêu trong trường hợp khẩn cấp thôi, nên đừng bao giờ
chậm trễ. Bỏ việc đang làm và đến chỗ quả chuông ngay lập tức. Các cháu hiểu
chưa nào?”
Bọn trẻ lo lắng gật
đầu. Tất cả những lần nhắc đến sự nguy hiểm, khẩn cấp, mà vẫn chưa hề có bất kỳ
lời giải thích nào, bắt đầu khiến lũ trẻ cảm thấy nặng nề.
“Ta xin lỗi vì khiến
các cháu lo lắng,” ngài Benedict nói. “Và ta cũng chẳng biết nói gì để giúp các
cháu bớt lo lắng. Điều ta có thể làm là trả lời các câu hỏi của các cháu. Ai
muốn bắt đầu trước nào? Constance?”
Constance đáp lời với
vẻ cáu tiết khủng khiếp rằng cô bé muốn biết tại sao chúng không được ăn kẹo
vào bữa sáng.
Ngài Benedict mỉm
cười. “Một câu hỏi hay đấy. Câu trả lời ngắn gọn là không có cái kẹo nào trong
tòa nhà này cả. Ngoài ra, quyết định này còn liên quan đến việc những viên kẹo
có hương vị tuyệt vời nhưng lại nghèo chất dinh dưỡng, mặc dù ta ngờ cháu chẳng
hứng thú với giải thích của ta, mà chỉ đơn giản là muốn thể hiện sự bất mãn của
mình thôi. Phải không Constance?”
“Có thể,” Constance
nhún vai. Cô bé có vẻ hài lòng,
“Còn câu hỏi nào nữa
không?” ngài Benedict hỏi.
Dĩ nhiên là có, và lũ
trẻ gần như nói cùng một lúc, yêu cầu ngài Benedict giải thích về “kế hoạch”
của ông, tại sao lại cần trẻ em, và nguy hiểm chúng đang phải đối mặt là gì.
Ngài Benedict đặt tách
trà xuống bàn. “Rất tốt, ta sẽ giải thích tất cả, nhưng các cháu có thể vừa ăn
sáng vừa lắng nghe ta.” (Tuy nhiến, chỉ có Constance là người duy nhất vẫn tiếp
tục ăn. Ba đứa trẻ còn lại chẳng thể tập trung làm gì được nữa ngoài việc lắng
nghe ngài Benedict.)
“Cách đây vài năm,”
ngài Benedict nói, “khi nghiên cứu về não người, ta phát hiện ra có những thông
điệp đang được gửi tới mọi người trên khắp thế giới - nhưng không ai nhận ra
điều đó. Giống như việc ta bí mật nhét một lá thư vào túi các cháu, sau đó các
cháu tìm ra và đọc nó, nhưng không biết lá thư đó từ đâu ra. Trong trường hợp
này, thông điệp đi trực tiếp vào não mọi người, nhưng họ không chỉ không biết
nguồn gốc của chúng, mà thậm chí còn không hay biết mình đã nhận được và đọc
những thông điệp đó.
“Các thông điệp có vẻ
như được phát đi ở dạng mật mã,” ngài Benedict tiếp tục. “Thoạt đầu trông có vẻ
giống những cầu vô nghĩa. Nhưng ngay từ đầu ta đã có lý do để tin tưởng chúng
có tác động mạnh mẽ - nhưng cực kỳ không tốt - lên những ai nhận được chúng, có
nghĩa là hầu hết mọi người. Thực tế, ta tin rằng những thông điệp này là nguồn
gốc của hội chứng có tên là Khẩn cấp - dù cũng phải thừa nhận là ta không biết
cụ thể như thế nào. Vì thế mà ta đã cố gắng tìm ra mục đích cuối cùng của họ là
gì, và ai gửi những thông điệp đi. Nhưng đến giờ phút này ta vẫn chưa hoàn toàn
thành công.”
“Nhưng ngài cũng đã
tìm được rất nhiều điều rồi,” Số Hai nói lại.
“Chắc chắn rồi. Ta đã
biết được, chẳng hạn, làm cách nào mà những thông điệp này được gửi đi...”
“Và chúng được gửi đi
từ đâu nữa,” Rhonda không giữ được kiên nhẫn nữa.
“Và Người Gửi có thể
làm được những gì nữa,” Số Hai gào lên.
Rõ ràng Số Hai và
Rhonda lo sợ lũ trẻ có thể đánh giá sai khả năng của ngài Benedict. Nhận ra
điều này, ngài Benedict nhìn cả hai và mỉm cười, “Đúng thế, những người bạn của
ta. Chúng ta đã có được một số thông tin, chẳng hạn như Người Gửi sử dụng trẻ
em để gửi đi những thông điệp bí ẩn.”
“Trẻ em sao ạ?”
Sticky nói. “Nhưng sao lại là trẻ em?”
“Và chính xác thì
những thông điệp nói gì ạ?” Reynie hỏi.
“Khi các cháu đã ăn
xong bữa sáng, ta sẽ chỉ cho các cháu tháy. Còn bây giờ, để ta...”
“Xin ngài, bữa sáng
không thể chờ được hay sao ạ?” Kate ngắt lời. “Cho chúng cháu xem ngay bây giờ
đi ạ!”
“Ồ, nếu các cháu đều
thấy thế thì...” ngài Benedict nói khi nhìn thấy vẻ sốt sắng của bọn trẻ.