Tương lai của một Ảo tưởng - Chương 04
III.
Những giá trị đặc biệt của những ý tưởng tôn giáo nằm trong
những gì?
Chúng ta đã nói về sự thù địch với văn minh vốn nó được tạo
ra từ áp lực mà văn minh vận hành, những sự từ bỏ bản năng mà nó đòi hỏi. Nếu
một người tưởng tượng những cấm đoán của nó được nâng bỏ, nếu thế, sau đó, một
người có thể lấy bất kỳ một phụ nữ nào người ấy thích như là một đối tượng tình
dục, nếu một người có thể không do dự giết chết tình địch để chiếm lòng yêu của
người đẹp, hay giết bất cứ ai đứng cản đường của người ấy, cũng vậy, nếu như
một người có thể chở đi bất kỳ những tài sản nào của một người khác mà không
phải xin phép – tuyệt vời làm sao, thật là một chuỗi những thỏa mãn một đời có
thể có được!
Đúng thế, một người nhanh chóng chạm với khó khăn đầu tiên:
tất cả mọi người khác ai ai cũng có cùng một mong muốn chính xác như tôi có, và
sẽ đối xử với tôi không cân nhắc nào nhiều hơn tôi đã đối xử với anh ta. Và như
vậy, trong thực tế, chỉ có một người là có thể thực hiện được hạnh phúc không
hạn chế, bằng cách loại bỏ như thế những hạn chế của văn minh, và người ấy sẽ
là một bạo chúa, một nhà độc tài, người đã nắm giữ tất cả những phương tiện đến
quyền lực. Và ngay cả ông ta sẽ có mọi lý do để mong rằng những người khác sẽ
thực hiện ít nhất một giới răn văn hóa: “ngươi sẽ không giết người”.
Nhưng cuối cùng sau tất cả, thật là vô ơn làm sao, thiển cận
làm sao, để phấn đấu cho việc huỷ bỏ văn minh! Những gì sẽ còn lại là một trạng
thái của tự nhiên, và điều đó sẽ là càng khó hơn để chịu đựng.
Đúng là tự nhiên sẽ không đòi hỏi chúng ta bất kỳ những hạn
chế bản năng nào, nó sẽ để mặc chúng ta làm những gì chúng ta thích, nhưng nó
có phương pháp hiệu quả đặc biệt của nó về hạn chế chúng ta. Nó phá hủy chúng
ta - lạnh lùng, tàn nhẫn, không ngừng, như nó xem ra với chúng ta, và có thể
qua chính những sự việc mà thỉnh thoảng làm chúng ta hài lòng. Đã đích xác là
chính những nguy hiểm này vốn với chúng mà thiên nhiên đã đe dọa chúng ta,
khiến chúng ta đã đến với nhau và tạo ra văn minh, mà vốn nó cũng là, trong số
những thứ khác, nhằm mục đích làm cho cuộc sống cộng đồng của chúng ta có thể
có được. Đối với những nhiệm vụ chủ yếu của văn minh, lý do tồn tại thực sự của
nó, là để bảo vệ chúng ta chống lại thiên nhiên.
Chúng ta đều biết rằng trong nhiều phương cách văn minh đã
thực hiện điều này rất tốt rồi, và rõ ràng như thời gian tiếp tục trôi, nó sẽ
làm điều đó thêm tốt hơn nhiều. Nhưng không có ai là dưới ảo tưởng rằng thiên
nhiên đã được chế ngự, và ít có ai dám hy vọng rằng nó có bao giờ sẽ hoàn toàn
bị con người khuất phục. Có những yếu tố, chúng xem dường chế nhạo tất cả kiểm
soát của con người: trái đất, nó chấn động và xé nát và chôn vùi tất cả mạng
sống con người và những công trình của họ; nước, mà lũ lụt và nhận chìm tất cả
mọi thứ trong một hỗn loạn, những cơn bão, cuốn đi tất cả mọi thứ đứng trước
chúng; có những bệnh tật, mà chúng chỉ gần đây mới được nhìn nhận như những tấn
công bởi những sinh vật khác, và cuối cùng có bí ẩn đau đớn về cái chết, đã
chưa tìm thấy được thuốc nào chống lại nó, và có lẽ cũng sẽ chẳng bao giờ.
Với những sức mạnh này, thiên nhiên trỗi dậy chống chúng ta,
hùng vĩ, độc ác và không mủi lòng, nó đem đến não thức chúng ta lại một lần nữa
sự yếu đuối và bất lực của chúng ta, vốn chúng ta đã nghĩ rằng đã thoát khỏi
qua công trình của văn minh. Một trong số ít những biểu tả hài lòng và đề cao
mà nhân loại có thể đem cho là khi, trong đối mặt với một thảm họa thiên nhiên,
nó quên đi những bất hòa với văn minh của nó và tất cả những khó khăn nội bộ và
những thù hận, và nhớ lại những nhiệm vụ lớn lao chung của sự bảo tồn chính nó
chống lại sức mạnh siêu phàm của thiên nhiên.
Đối với cá nhân, cũng thế, đời sống là gánh nặng, đúng như nó
là với nhân loại nói chung. Văn minh trong đó anh tham gia áp đặt một số lượng
thiếu thốn trên anh ta, và những người khác mang lại cho anh một mức lượng của
đau khổ, hoặc là bất kể những giới luật của văn minh của anh, hoặc vì những bất
toàn của nó. Cộng thêm vào điều này là những thương tích mà thiên nhiên không
thuần hóa - anh gọi nó Số Mệnh – bắt anh phải chịu.
Một người có thể giả định rằng điều kiện này của những sự vật
sẽ kết quả trong một trạng thái mong đợi lo lắng thường trực ở anh ta và làm
tổn thương trầm trọng đến sự quá-chỉ-yêu-mình tự nhiên của anh. Chúng ta đã
biết cá nhân phản ứng như thế nào với những thương tích mà văn minh và những
người khác gây ra trên người ấy: anh phát triển một mức độ tương ứng của đối
kháng với những quy định của văn minh và thù địch với nó. Nhưng làm thế nào anh
bảo vệ mình chống lại những sức mạnh siêu phàm của thiên nhiên, của Số mệnh,
vốn chúng đe dọa anh như chúng đe dọa tất cả những người còn lại?
Văn minh cất đi gánh nặng cho anh về công việc này; nó thực
hiện điều đó trong cùng một cách giống nhau cho tất cả, và đáng ghi nhận rằng
trong điều này gần như tất cả những văn minh hành động như nhau. Văn minh không
gọi một ngừng nghỉ trong nhiệm vụ bảo vệ con người chống lại tự nhiên, nó chỉ
đơn thuần theo đuổi điều ấy bằng những cách khác. Công việc này là một công
việc đa tạp nhất. Vị kỷ của con người bị đe dọa nghiêm trọng, kêu gọi đến sự an
ủi, phải cướp đi những khiếp đảm khỏi cuộc sống và vũ trụ, hơn nữa sự tò mò của
anh ta chuyển động, đó là sự thật, bởi sự quan tâm thiết thực mạnh nhất, đòi
hỏi một trả lời.
Một số lượng lớn đã đạt được rồi với bước đầu tiên: sự nhân hóa
[18] thế giới tự nhiên. Những sức mạnh phi nhân và những định mệnh không thể
đến gần được, chúng còn là vĩnh viễn xa vời. Nhưng nếu sức mạnh thiên nhiên có
đam mê vốn cuồng nộ như chúng xảy ra trong tâm hồn của chúng ta, nếu tự thân
cái chết không phải là một điều gì đó đột phát ngẫu nhiên, nhưng là hành động
tàn bạo của một Ý chí độc ác, nếu ở khắp mọi nơi trong tự nhiên có những
Sinh-linh xung quanh chúng ta, thuộc loại mà chúng ta biết trong xã hội riêng
của chúng ta, thì sau đó chúng ta có thể hít thở tự do, có thể cảm thấy an ổn
như ở nhà trong sự kỳ lạ, huyền bí và có thể giải quyết sự lo lắng vô nghĩa của
chúng ta bằng những phương tiện thuộc về tinh thần.
[18]
Humanization – từ đông sang tây đằng sau những sức mạnh thiên nhiên đều là
những Gót, thần, và thường khoác khuôn mặt người. Đây là “nhân hoá” thiên
nhiên.
Thí
dụ cụ thế nhất và quen thuộc nhất có lẽ là trong Kiều “Mặc người mưa Sở mây
Tần, Những mình nào biết có xuân là gì” - hiện tượng thiên nhiên được nhân hóa:
mây kéo đến phủ núi rồi mưa xuống – thành “mây mưa” chỉ chuyện nam nữ giao phối
– Xa khỏi đất Hylạp và đỉnh Olympia, chúng ta có chuyện một ông vua Tàu, bị
bệnh (ít nhất theo Freud) - vua nước Sở đi chơi ở đầm Vân Mộng, mơ thấy cùng
một người con gái giao hoan. Khi từ biệt vua, nàng nói: “Thiếp là thần nữ núi
Vu Sơn, buổi sớm làm mây, buổi chiều làm mưa”.
Trong
đồng dao Việt – hiện tượng thiên nhiên – lấy thí dụ - thông thường và đơn giản
như mưa và nắng - cũng được xem như có nguồn từ những tác nhân siêu nhiên: “Vừa
mưa vừa nắng, ông Cắng đánh nhau - bà Cau ra chữa, tí nữa lại mưa”.
Chúng ta vẫn còn là không có khả năng tự vệ, có lẽ, nhưng
chúng ta không còn bị tê liệt một cách bất lực, ít nhất chúng ta có thể phản
ứng. Có lẽ, quả thật vậy, chúng ta thậm chí không là không có khả năng tự vệ.
Chúng ta có thể áp dụng cùng những phương pháp chống lại những siêu nhân bạo
hành bên ngoài, giống như chúng ta đã sử dụng trong xã hội của chúng ta riêng,
chúng ta có thể cố gắng cầu khẩn họ, dỗ dành họ, để hối lộ họ, và do ảnh hưởng
đến họ như thế, chúng ta có thể tước đi một phần sức mạnh của họ. Một thay thế
như thế này của khoa học tự nhiên bằng tâm lý học không chỉ đem cho cứu trợ
ngay lập tức, nhưng cũng chỉ ra cách để làm chủ xa hơn nữa đối với tình thế.
Bởi tình thế này không có gì mới. Nó có một mẫu thức trẻ con,
từ đó nó là chỉ sự tiếp tục trong thực tế. Bởi một lần trước đó một người đã
tìm thấy chính mình trong một tình trạng bất lực tương tự: khi là một đứa trẻ
nhỏ, trong quan hệ với cha mẹ của người ấy. Một người có lý do để sợ hãi họ, và
đặc biệt là cha của mình, và tuy thế một người đã chắc chắn về sự bảo vệ của
ông này chống lại những nguy hiểm người ấy đã biết. Thế nên, nó đã là tự nhiên
để đồng hóa hai tình huống. Ở đây, cũng vậy, ước muốn đã đóng vai trò của nó,
như nó đóng trong đời sống-mơ ước.
Người nằm ngủ có thể bị thất kinh với một linh cảm về cái
chết, vốn nó đe dọa đặt anh ta vào trong mộ. Nhưng sự đổi-mộng [19] biết làm
thế nào để lựa chọn một điều kiện nó sẽ thậm chí chuyển biến cố hãi hùng đó
thành ra một sự hoàn thành ước muốn: người nằm mơ nhìn thấy mình trong một ngôi
mộ cổ Etruscan mà ông đã trèo xuống vào trong, vui sướng tìm thấy những thích
thú về khảo cổ được thỏa mãn [20].
[19]
dreamwork hay dreamwork (l’élaboration du rêve): the processes by which the
unconscious mind alters the manifest content of dreams in order to conceal
their real meaning from the dreamer.
[20]
[Đây đã là một giấc mộng thực xảy ra của Freud, trình bày trong Chương VI (G)
của The Interpretation of Dreams (1900a). Standard Ed., 5, 454-5].
Theo cùng một cách, một người làm những sức mạnh của tự nhiên
không chỉ đơn giản trở thành những người mà với họ ông ta có thể liên kết như
anh ta có thể với những đồng đẳng của mình – làm như thế sẽ không công bằng với
những ấn tượng áp đảo quá mạnh vốn những sức mạnh ấy tác động trên anh ta -
nhưng anh ta đem cho chúng cá tính của một người cha. Ông chuyển chúng thành ra
những Gót, đi theo lối này, như tôi đã cố gắng để cho thấy [21] không chỉ là
một mẫu thức trẻ con, nhưng là một mẫu thức loại phát sinh [22].
[21]
[Xem section 6 của bài luận thuyết thứ tư trong Toteem and Taboo (1912-13),
Standard Ed., 13, 146 ff].
[22]
phylogenetic – tiến trình các sự kiện liên quan đến sự tiến hóa của một loài,
giống. khác với của cá nhân là ontogeny.
Trong quá trình thời gian, những quan sát đầu tiên được làm
bằng sự đều đặn và phù hợp với luật trong những hiện tượng tự nhiên, và với
điều này, những lực lượng của tự nhiên bị mất những dấu vết con người của
chúng. Nhưng sự bất lực của con người vẫn còn và cùng với nó là sự khát khao
của con người về người cha của mình, và những Gót. Những Gót còn giữ nhiệm vụ
gồm ba lớp của họ: họ phải “trừ tà trục quỉ” [23] những khủng khiếp của thiên
nhiên, họ phải hòa giải con người với tàn nhẫn của Số phận, đặc biệt như khi nó
được cho thấy trong cái chết, và họ phải đền bù cho những đau khổ và thiếu thốn
vốn một đời sống văn minh nói chung đã áp đặt lên trên con người.
[23]
exorcist: trừ tà trục quỉ - the expulsion or attempted expulsion of an evil
spirit from a person or place.
Nhưng ở trong những chức năng này có một dần dần chuyển dịch
[24] sắc thái. Đã quan sát thấy được rằng những hiện tượng tự nhiên phát triển
tự động theo những nhu cầu nội bộ. Không nghi ngờ gì, những Gót đã là những
chúa tể của thiên nhiên, họ đã sắp xếp nó là như nó đã là và bây giờ họ có thể
để mặc nó lại với chính nó. Chỉ thỉnh thoảng, trong những gì được biết là những
“phép lạ” [25], họ đã can thiệp vào quá trình của nó, như thể để làm cho minh
bạch rằng họ đã không có từ bỏ chút-gì từ lĩnh vực quyền lực của họ có ban đầu.
[24]
Displacement: the unconscious transfer of an intense emotion from its original
object to another one.
[25]
Miracles
Về phương diện phân bối những định mệnh, một nghi ngờ khó
chịu đã tồn tại rằng phức tạp khó hiểu và sự bất lực của loài người không thể
chữa chạy được. Đó đã là chỗ này mà những Gót đã vừa nhất để bị xem là thất
bại. Nếu tự chính họ đã tạo ra Số phận, sau đó những khuyên giúp của họ phải
được coi là rất khó hiểu. Khái niệm đã xuất hiện đầu tiên ở chân trời với những
giống dân tài năng nhất của thời cổ rằng Moira [Số phận] đứng trên những Gót,
và rằng những Gót chính họ có những số phận riêng của họ.
Và thiên nhiên càng trở nên tự trị nhiều hơn và những Gót đã
càng trở thành rút ra khỏi nó, tất cả những kỳ vọng đã càng tha thiết hướng đến
chức năng thứ ba của những Gót – đạo đức đã trở thành lĩnh vực thực sự của họ
càng nhiều hơn [26]. Bây giờ đã trở thành nhiệm vụ của những Gót để làm cho
ngang bằng tất cả những khiếm khuyết và những tệ nạn của văn minh, để can dự
vào những khổ đau mà con người gây ra lẫn cho nhau trong cuộc sống cùng với
nhau của họ, và để canh chừng trên việc thực hiện những giới luật của văn minh,
mà con người tuân theo hết sức cẩu thả, bất toàn. Những giới luật đó tự thân
chúng đã được gán cho một nguồn gốc thần thánh [27], chúng được nâng lên cao
hơn xã hội loài người và đã được mở rộng ra với thiên nhiên và vũ trụ.
[26]
Trong lĩnh vực thứ ba – các vị Gót, rồi sau này chỉ còn lại một vị Gót theo các
tôn giáo Abraham (đi đôi với sự thống nhất, hợp nhất các bộ lạc có các Gót khác
nhau – nay thành một quốc gia – nên chỉ cần một Gót để thờ phụng cho tiện, và
giữ sự thống nhất – thế nên sự hình thành của một Gót, tương ứng với những
(12/10) bộ lạc của Israel hợp nhất ở vùng Canaan với Solomon – hay sự hợp nhất
phát triển của đế quốc Lamã về sau này với Constantine) –
Gót
như thế khởi đi là hình ảnh của một kẻ thưởng phạt về đức hạnh và tội lỗi. rồi
thành kẻ cầm chầu, giữ nhịp cho luân lý, cương thường khi xã hội từ trạng thái
thị tộc, bộ lạc mở ra thành những xã hội đông đảo lớn rộng phức tạp, rồi cùng
với tâm lý con người ngày càng phát triển, Gót mang những tính chất siêu hình
trừu tượng khác nhau, để đáp ứng với sự thay đổi của nhận thức con người. Nhưng
khởi đi là hình ảnh người cha, bảo bọc và thưởng phạt.
Quan
niệm đạo đức dựa trên thưởng phạt là quan niệm rất ấu trĩ và sơ đẳng nhất, khởi
đi từ tâm lý trẻ con, cũng là khởi đi vã vẫn mãi còn lại như là yếu tính của
đạo đức trong các tôn giáo Abraham, như Freud đã thản nhiên chỉ ra – và theo đó
Gót – người cha trước kia của đứa trẻ nhân loại – trước kia vẫn cho roi cho
bánh, nay thành cha ở trên trời cao kia của nhân loại – cho quà thiên đường và
roi địa ngục, dù thay đổi nhưng chỉ là những hình thức là được làm lớn rộng,
nhưng khái niệm cơ bản vẫn là khái niệm một ông bố lúc hiền lúc dữ - thưởng
phạt đám con cái, chỉ mở quyển “sách tốt” (kinh Thánh) đọc vài trang là thấy
ngay một ông bố, hay đúng hơn một ông trưởng tộc vùng Trung Đông, trọng nam,
khinh nữ, đa thê nếu không nói là đa dâm, thiện ác tùy tiện, và rất mê tín và
dị đoan.
[27]
Thí dụ - mười điều răn hết sức tầm thường về luân lý cho người Do thái – Moise
nói là do Gót ban cho họ.
Và như vậy, một kho hàng của những ý tưởng được tạo ra, sinh
ra từ nhu cầu của con người để làm cho bất lực của mình có thể chịu được và xây
dựng từ những vật liệu của những kỷ niệm của tuổi thơ bất lực của chính mình,
và thời thơ ấu của loài người [28]. Nó rõ ràng có thể thấy rằng việc sở hữu của
những ý tưởng bảo vệ anh ta trong hai hướng - chống lại những nguy hiểm của
thiên nhiên và Số phận, và chống lại những bất công, thương tổn vốn đe dọa anh
ta từ chính xã hội nhân loại.
[28]
nguyên văn “So wird ein Schatz von Vorstellungen geschaffen, geboren aus dem
Bedürfnis, die menschliche Hilflosigkeit erträglich zu machen, erbaut aus dem
Material der Erinnerungen an die Hilflosigkeit der eigenen und der Kindheit des
Menschen geschlechts”.
Bản tiếng Pháp cũng theo sát hơn “un trésor
d’idées, né du besoin …”
Đây là thực tính [29]
của vấn đề. Đời sống trong thế giới này phục vụ một mục đích cao hơn, không
nghi ngờ gì, không phải là dễ dàng để đoán biết mục đích ấy là gì, nhưng chắc
chắn nó có nghĩa là hoàn thiện bản chất của con người. Nó có lẽ là một phần
tinh thần của con người, linh hồn, mà trong quá trình thời gian đã quá chậm chạp
và miễn cưỡng tự tách ra khỏi thể xác, đó là đối tượng của sự nâng cao này và
sự thăng vút cao.
[29] Gist
Tất cả mọi việc xảy ra
trong thế giới này là một biểu hiện của những ý định của một trí thông minh
vượt trội hơn so với chúng ta, mà cuối cùng, mặc dù những cách thức và những
nẻo đường của nó là khó theo dõi, truyền lệnh đặt để tất cả mọi sự việc vào
trong toàn hảo nhất - đó là, để làm cho chúng thành thú vị với chúng ta. Trên
mỗi chúng ta có một Gót-bảo-bọc [30] nhân từ mà chỉ có vẻ nghiêm nghị và sẽ không
để chúng ta bị trở thành một đồ chơi của những lực lượng thiên nhiên quá hùng
mạnh và tàn nhẫn.
[30] Providence: sự bảo bọc của Gót hay thiên nhiên
(trời sinh voi sinh cỏ) – cũng chỉ một Gót nào đó – thay thế cho sức mạnh thiên
nhiên – bảo bọc chúng ta.
Nhìn theo Darwinism, không phải “trời sinh trời
dưỡng” nhưng chúng ta đã thay đổi cho hợp với “trời”, những ai không thế đã
chết từ bao đời rồi, chúng ta là những kẻ sống sót, hay là con cái của những
thế hệ người đã sống sót, đã thay đổi “ứng hợp” với “trời” (tự nhiên) nên vần
được “trời dưỡng”.
Vậy nếu có mang ơn ai, chính là tổ tiên, dòng giống
của chính mình, những người đã tranh đấu với lũ lụt vùng châu thổ sông Hồng,
chẳng hạn, đã dựng nhà sàn, đã trồng lúa nước miền Thủy tinh thấp, lúa nếp miền
Sơn tinh cao,.. để ở để ăn, và sống còn, … đã giữ sự sống và công thức cho sự
sống tạo hình nên xương thịt và phát triển, tồn tại (DNA) rồi truyền mãi không
dứt xuống đến tận chúng ta.
Không có Gót nào từ sa mạc Trung Đông, sản phẩm mơ
tưởng từ trí tuệ ấu trĩ của đám dân còn sống đời bộ lạc mông muội, lúc ấy có lẽ
còn ở hang đá, ăn lúa mì, sống lang thang, (một trong những băn khoăn của họ là
không biết làm sao giữ cho phân mình thải ra đừng lẫn với thức ăn - S. Harris.
Sự Hy sinh Lý trí). Gót phát sinh từ đám dân lúc còn man dã ấy không có thể nào
bảo bọc, cứu trợ những người đương thời ở mãi tận phương Đông, là những tổ tiên
chúng ta, mà chính họ - hay Gót của họ cũng thế - cũng không thể nào biết tới,
hay có biết cũng không thèm hay có thể đoái hoài đến được.
Ngay cả Gót của họ - dân Do thái - “Yahweh” cũng
không giúp họ giữ được mảnh đất hứa, chịu hai nghìn năm lưu vong nô lệ, khổ ải
cho đến nay vẫn chưa yên. Vẫn không học được bài học thương yêu - khi nắm được
quyền lực, họ cũng độc ác, tham lam, tàn tệ với những người anh em yếu đuối
(khác tôn giáo) sống cùng trên một mảnh đất - tàn tệ còn không kém gì những tàn
tệ chính họ đã hứng chịu trong qúa khứ bị kỳ thị ở châu Âu. Đọc lịch sử của đám
dân được Gót chọn riêng đó - và nhìn theo cái nhìn tôn giáo - thờ Gót của
Abraham đó - không thấy một hy vọng nào cho tương lai loài người.
Cái Chết tự nó không
là một dập tắt, chấm hết, không phải là một trở về với (thế giới) vô cơ không
sự sống, nhưng bắt đầu của một loại hiện hữu mới, nó nằm trên con đường phát
triển đến một cái gì đó cao hơn.
Và, nhìn theo một
hướng khác, cái nhìn này thông báo rằng cùng những luật đạo đức mà những văn
minh của chúng ta đã thành lập, chúng cũng chi phối toàn bộ vũ trụ, ngoại trừ
việc chúng được duy trì bởi một tòa án tối cao của công lý nhiều sức mạnh hơn
và nhất quán hơn không thể nào so sánh được. Đến tận cùng, tất cả tốt lành được
khen thưởng và tất cả ác độc bị trừng phạt, nếu không thực sự trong hình thức
này của sự sống, vậy thì là sau đó trong những kiếp bắt đầu sau cái chết. Bằng
cách này, tất cả những khiếp hãi, những thống khổ và những nhọc nhằn của đời
sống được trù tính xóa cho sạch, thành tiêu ma.
Cuộc sống sau khi
chết, vốn vẫn tiếp tục như cuộc sống trên trái đất, giống đúng như phần vô hình
của quang phổ tham gia vào phần nhìn thấy được, mang đến cho chúng ta tất cả sự
hoàn hảo mà chúng ta có lẽ có thể đã bị thiếu xót ở đây trên trái đất.
Và sự khôn ngoan tối
thượng vốn nó điều khiển tiến trình này của những sự vật, sự tốt lành vô hạn mà
nó thể hiện tự thân ở trong đó, công lý mà đạt được mục tiêu của nó trong đó –
những điều này là những thuộc tính của những hữu thể linh thiêng vốn cũng tạo
ra chúng ta và thế giới như một toàn bộ, hay đúng hơn, của chỉ một hữu thể linh
thiêng, trong văn minh của chúng ta, vốn tất cả những Gót cổ xưa đã được cô
đọng vào trong đó.
Dân tộc đầu tiên đã
thành công trong sự tập trung cô đọng những thuộc tính của Gót đó, không phải
là không có một chút tự hào về sự tiến bộ. Nó đã đặt mở ra để thấy người cha
vốn đã được ẩn dấu đằng sau tất cả mỗi thần thánh linh thiêng như là hạt nhân
của nó. Về cơ bản đây là một sự trở lại sự khởi đầu lịch sử của những ý tưởng
về Gót. Bây giờ Gót là một nhân vị duy nhất, quan hệ của con người với ông ta
có thể khôi phục lại sự thân mật và cường độ của mối quan hệ của trẻ con với
cha của mình.
Nhưng nếu một người đã
làm quá nhiều cho cha của mình, người ấy muốn có một phần thưởng, hoặc ít nhất
là đứa con yêu quý duy nhất của ông ta, đám Con dân được Lựa chọn của ông [31].
Rất muộn về sau này, những người Mỹ ngoan đạo tuyên bố quyền để được là “Quốc
gia riêng của Gót”, và, đối với phương diện về một trong những hình dạng, trong
đó con người tôn thờ những thần linh, tuyên bố (này) chắc chắn là hợp lệ [32].
[31] Freud nói về dân tộc ông – chúng ta có thể xem
dân Do thái là dân tộc đã làm một “cách mạng” trong thực hành tôn giáo – ở giữa
những dân tộc Trung đông và Hy lạp, và cả chính họ, vốn có rất nhiều Gót, họ đã
chuyển từ nhiều Gót sang độc thần – một Gót – và tự nhận mình là “The Chosen
People” – dân tộc duy nhất có “thỏa ước” với Gót và được Gót riêng chọn.
Thỏa ước của dân Do thái với Gót (sau đạo Kitô mở
rộng ra là “nhân loại” với Gót” - vì lý do tuyên truyền) bắt đầu với ông tổ dân
này là Abraham, sau đó lại làm mới với con cháu ông là Isaac, Jacob, cuối cùng
Moses thêm vào 10 điều răn. Tất cả chỉ là giữa dân Jewish với Gót của họ, vị
này có “bí danh” là “Yahweh”.
Rất cơ bản và đơn giản, dân Do thái nguyện tuân
phục chỉ một Gót, theo 10 điều răn, God đồng ý sẽ thương yêu bảo bọc họ, giúp
họ chiến thắng những kẻ thù của họ, họ là dân tộc được chọn riêng và được ước
hẹn cho vùng đất Hứa – tức là vùng Canaan – (Promised land & chosen
people).
Freud có giải thích của riêng ông về sự xuất hiện
khái niệm tôn giáo độc thần – ý tưởng chỉ có một Gót duy nhất - trong nghiên cứu
cuối cùng về tôn giáo của ông là Moses and Monotheism (1939).
[32] Chúng ta thấy những điều buồn cười như trên
vẫn tái diễn, ngay cả trong những người Việt trên đất Việt, muốn làm con riêng,
con ngoan, muốn làm con đặc biệt của Gót, dâng đất nước cho Gót, cho mẹ Gót.,…
Ở đây, chỉ nói về một điều là – nguồn gốc của chiến
tranh, bất hòa là từ đây mà ra. Ngoài khái niệm trong/ngoài với những người
khác tôn giáo, trong các tôn giáo độc thần, còn tranh dành nhau địa vị con
riêng, con cưng,.. ai đúng “ý cha” ai sai “ý cha”, nên anh em một nhà đánh giết
nhau thảm khốc còn hơn với người ngoài. Thế nên, không phải cùng thờ một Gót
thì thôi không còn đánh nhau nữa, nhưng lại còn đánh nhau to hơn. Như trong
những cuộc chiến giữa Tin lành và Catô thời Phục hưng, ở châu Âu.
Những ý tưởng tôn giáo
đã được tóm tắt ở trên, dĩ nhiên đã thông qua một quá trình phát triển lâu dài,
và đã được dính chặt với những giai đoạn khác nhau của những văn minh khác
nhau. Tôi đã chỉ tách ra lấy một giai đoạn loại giống như vậy, vốn nó gần tương
ứng với những hình thức cuối cùng được văn minh da trắng Kitô giáo của chúng ta
hiện nay thể hiện. Nó rất dễ dàng để thấy rằng không phải tất cả những phần của
bức tranh này đếm kiểm cộng trừ lại đều tốt như nhau, với lẫn nhau, rằng không
phải tất cả những câu hỏi thúc dục một câu trả lời đã nhận được một trả lời, và
rằng đó là khó khăn để loại bỏ sự mâu thuẫn từ kinh nghiệm hàng ngày.
Tuy nhiên, như đang có
chúng đấy, những ý tưởng đã nói đó - những ý tưởng vốn đó là tôn giáo theo
nghĩa rộng nhất – đã được đánh giá cao như là sở hữu quý giá nhất của văn minh,
như là điều quý giá nhất nó cung cấp cho những kẻ tham gia vào nó. Nó được đánh
giá cao thêm rất nhiều hơn tất cả những dụng cụ để chiến thắng được của cải quí
giá từ trái đất, hay cung cấp dinh dưỡng cho con người, hoặc phòng ngừa bệnh
tật cho họ, và v.v…
Mọi người cảm thấy
rằng cuộc sống sẽ không thể chịu đựng được nếu họ không gắn với những ý tưởng
này giá trị vốn được tuyên xưng cho chúng. Và bây giờ câu hỏi đặt ra: những ý
tưởng này trong ánh sáng của tâm lý học là gì? Từ đâu chúng lấy được sự đề cao,
trong đó chúng được giữ? Và, để có một bước rụt rè xa hơn, có giá trị thực sự
của chúng là gì?