Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Chương 18 - Phần 1

Chương
18

1953

Trong năm năm và ba tuần, tất nhiên Allan đã học
tiếng Nga khá chuẩn nhưng lại quên sạch chỗ tiếng Trung Quốc. Bến cảng là một
nơi thực sự sống động, và Allan đánh bạn với những thủy thủ trở về, người có
thể cập nhật cho ông về những gì đã xảy ra trên thế giới.

Một trong những điều đã xảy ra là Liên Xô đã nổ quả
bom nguyên tử của mình một năm rưỡi sau cuộc gặp của Allan với Stalin, Beria và
Yury Borisovich tốt bụng. Phương Tây nghi ngờ họ hoạt động gián điệp, bởi vì
quả bom dường như được xây dựng theo nguyên tắc y hệt như kiểu Mỹ. Nhưng Allan
thì nhớ lại hồi ở trên tàu ngầm, trong khi tu vodka thẳng từ chai, Yury thực sự
đã có bao nhiêu gợi ý.

- Tôi ngờ rằng, Yury Borisovich đáng mến là một tổ
sư về nghệ thuật vừa uống rượu vừa nghe chuyện cùng lúc, - ông nói.

Allan còn biết thêm là Mỹ, Pháp và Anh đã hợp nhất
khu vực chiếm đóng của họ và thành lập nước cộng hòa liên bang Đức. Stalin nổi
giận, ngay lập tức trả đũa bằng cách lập ra một nước Đức của mình, Tây Âu và
Đông Âu mỗi bên đều có một nước Đức. Allan thấy nó nghe có vẻ thực tế.

Và vua Thụy Điển đã chết, theo như Allan đọc được
trong một bài báo Anh, chẳng biết vì sao lại có trong tay một thủy thủ Trung
Quốc, người nhớ ra mình đã từng trò chuyện với gã tù nhân Thụy Điển ở
Vladisvostok nên đã mang nó theo. Khi tin đến với Allan thì nhà vua đã chết gần
một năm rồi, nhưng cũng chẳng quan trọng. Và một vị vua mới ngay lập tức đã kế
vị, do đó, mọi thứ ở cố hương đều OK.

Nhưng các thủy thủ ở cảng chủ yếu nói về cuộc chiến
tranh Triều Tiên. Và cũng chẳng đáng ngạc nhiên lắm. Rốt cuộc thì Triều Tiên
chỉ cách đấy khoảng 200 km.

Theo như Allan hiểu thì tình hình là:

Bán đảo Triều Tiên gần như bị bỏ rơi khi chiến tranh
thế giới thứ hai kết thúc. Stalin và Truman mỗi bên chiếm một phần trong thỏa
thuận anh em, quyết định rằng vĩ tuyến 38 sẽ phân chia ở từ bắc xuống nam. Điều
đó kéo theo các cuộc đàm phán bất tận xem có nên để Triều Tiên tự trị hay
không, nhưng vì Stalin và Truman bất đồng chính kiến (trên thực tế không phải
về tất cả), mọi sự đã kết thúc như ở Đức. Đầu tiên, Mỹ thành lập ra Nam Triều
Tiên, Liên Xô trả đũa bằng Bắc Triều Tiên. Rồi sau, cả Mỹ Liên Xô cùng buông
tay, để Triều Tiên tự lo với hai miền của nó.

Nhưng chuyện không suôn sẻ lắm. Kim Il Sung ở miền
Bắc và Syngman Rhee ở miền Nam, cả hai đều nghĩ rằng mình xứng đáng nhất để
lãnh đạo toàn bộ bán đảo. Và họ bắt đầu gây chiến vì chuyện đó.

Nhưng sau ba năm với khoảng bốn triệu người chết,
chẳng có gì thay đổi (trừ tất cả những người đã chết). Miền Bắc vẫn là miền Bắc
và miền Nam là miền Nam. Và vĩ tuyến 38 vẫn chia cắt họ.

Về đồ uống, tức là lý do chính để trốn khỏi trại
Gulag, cách tự nhiên nhất đương nhiên là lẻn vào một trong những con tàu bỏ neo
ở cảng Vlapostok rồi đi. Nhưng ít nhất bảy người bạn của Allan trong trại đã
từng nghĩ thế trong những năm qua, và cả bảy đã bị phát giác và xử tử. Mỗi khi
chuyện đó xảy ra, những người khác trong lều đều khóc. Hầu hết, dường như cả
Herbert Einstein. Chỉ có Allan để ý thấy Herbert ngồi phàn nàn rằng lần này lại
cũng không phải là mình.

Một trong những khó khăn để lẻn vào tàu là thực tế
đơn giản rằng mọi tù nhân đều mặc quần áo tù đen trắng. Bằng cách nào họ cũng
không thể trà trộn vào đám đông. Bên cạnh đó, lối đi hẹp để lên tàu luôn được
canh gác, và có chó nghiệp vụ đánh hơi tất cả các khối hàng được nâng lên tàu
bằng cần trục.

Thêm vào đó, chẳng dễ dàng gì để tìm ra các tàu chịu
nhận Allan như một hành khách lậu vé như thế. Rất nhiều tàu đi vào đại lục
Trung Quốc, những tàu khác đến Wonsan trên bờ biển phía đông của Bắc Triều
Tiên. Có lý do để tin rằng thuyền trưởng Trung Quốc hay Bắc Triều Tiên khi thấy
một tù nhân Gulag trên tàu mình thì sẽ đuổi anh ta trở lại hoặc ném xuống biển
(kết quả cuối cùng như nhau, nhưng ít thủ tục hành chính hơn).

Không, đi bằng đường biển khó mà thoát, mà ông thì
rất muốn trốn. Đường bộ cũng có vẻ không dễ dàng hơn. Về phía bắc đi sâu vào
Siberia lạnh giá đương nhiên là không được. Cũng không thể đi về phía Tây vào
Trung Quốc.

Chỉ còn phía nam, Nam Triều Tiên, nơi họ chắc chắn
sẽ được chăm sóc như người tị nạn Gulag, kẻ thù của cộng sản. Điều đáng tiếc
duy nhất là Bắc Triều Tiên chắn ở giữa đường.

Chắc chắn sẽ có một số trở ngại trên đường đi, Allan
ý thức về điều đó trước cả khi ông có thời gian vạch kế hoạch chạy trốn bằng
đường bộ về phía nam. Nhưng việc gì phải lo lắng đến chết vì chuyện đó, vì ở đó
chắc chắn sẽ chẳng có vodka.

Ông nên cố gắng trốn một mình hay cùng với ai đó?
Trong trường hợp đó, nó sẽ là Herbert, dù ông ta thật thảm hại. Allan thực sự
nghĩ rằng mình có thể dùng Herbert trong việc chuẩn bị. Thêm nữa đi hai người
chắc chắn sẽ vui hơn chỉ một mình.

- Trốn ư? - Herbert Einstein hỏi. - Bằng đường bộ?
Đến Nam Triều Tiên? Qua Bắc Triều Tiên?

- Đại loại thế, - Allan đáp. - Ít nhất đấy là một
giả thuyết xem sao.

- Cơ hội để chúng ta sống sót chắc phải soi bằng
kính hiển vi, - Herbert bảo.

- Cực kì nhỏ, - Allan đáp.

- Tôi đi với ông! - Herbert nói.

Sau năm năm, tất cả mọi người trong trại đều biết
tù nhân số 133 - Herbert chẳng mấy khi nghĩ gì trong đầu, và nếu có ý nghĩ hiếm
hoi nào thì chúng lại mâu thuẫn lẫn nhau.

Điều này khiến cho các lính canh tù khá khoan
dung với Herbert Einstein. Nếu bất kì tù nhân nào khác không đứng theo qui định
lúc xếp hàng lấy đồ ăn thì may mắn nhất là anh ta sẽ bị quát vào mặt, thứ hai,
vẫn còn may, là bị thúc báng súng trường vào bụng, còn trong trường hợp xấu
nhất, nó sẽ là vĩnh biệt.

Tuy nhiên, sau năm năm trong doanh trại Herbert
vẫn bị lạc đường. Tất cả cùng màu nâu, cùng kích thước khiến anh ta không biết
đằng nào mà lần. Thức ăn luôn được dọn ra giữa trại 13 và 14, nhưng tù nhân số
133 có thể được tìm thấy lang thang cạnh trại số 7. Hoặc 19. Hoặc 25.

- Đồ chết tiệt, Einstein, - lính canh tù mắng. -
Xếp hàng ăn chỗ kia kìa. Không, không phải ở đấy, kia kìa! Nó vẫn ở đấy từ đời
tám hoánh nào!

Allan nghĩ rằng mình và Herbert có thể lợi dụng
điều này. Tất nhiên họ có thể mặc quần áo tù trốn đi, nhưng với bộ vó đó thì
sống quá một, hai phút cũng còn khó. Allan và Herbert cần phải có đồng phục
lính. Và tù nhân duy nhất có thể đến gần kho quân trang mà không bị bắn ngay
lập tức khi phát hiện là số 133 Einstein.

Vì vậy, Allan hướng dẫn bạn mình phải làm gì. Chỉ
việc “đi nhầm đường” vào giờ ăn trưa vì lúc đó các nhân viên tại kho quân trang
cũng đi ăn trưa. Trong nửa tiếng đó, kho hàng chỉ được một người lính có súng
máy ở tháp canh 4 trông chừng. Cũng như các lính canh khác, hắn ta biết cái tật
lạ lùng của tù nhân số 133, nên nếu nhìn thấy Herbert, có lẽ hắn chỉ la mắng
chứ không xả súng bắn ông ta. Và nếu Allan tính sai, thì cũng không quá tệ vì
Herbert vẫn khao khát được chết từ lâu rồi.

Herbert nghĩ kế hoạch của Allan khá ổn. Nhưng đấy
là những gì mà ông định làm, có thể nói như thế.

Và tất nhiên là hỏng việc. Herbert thực sự cố
tình đi nhầm đường và lần đầu tiên sau bao nhiêu năm tìm đúng đến nơi xếp hàng
lấy đồ ăn. Allan đã đứng ở đó, với một tiếng thở dài, ông đẩy nhẹ Herbert về
phía kho quân trang. Nhưng vô ích, Herbert lạc một lần nữa và thấy mình ngơ
ngẩn trong phòng giặt ủi. Và ông ta tìm thấy gì ở đó, nếu không phải là một đống
đồng phục mới được giặt sạch và ủi!

Ông lấy hai đồng phục, giấu bên trong áo khoác
của mình rồi quay lại khu trại lần nữa. Người lính trong tháp canh số bốn nhìn
thấy nhưng thậm chí không buồn la mắng ông ta. Hắn chắc mẩm là thằng ngu này
đang tìm đường về trại của mình thôi.

- Một tin giật gân đây, - ông lẩm bẩm một mình
rồi quay lại như cũ, mơ màng về một cõi xa xôi nào đó.

Giờ thì Allan và Herbert đã có đồng phục lính
trông như những tân binh kiêu hãnh của Hồng Quân. Bây giờ phải làm phần còn
lại.

Thời gian gần đây, Allan nhận thấy số lượng tàu
đi Wonsan Bắc Triều Tiên gia tăng đáng kể. Tất nhiên là Liên Xô không chính
thức về phe Bắc Triều Tiên trong cuộc chiến tranh, nhưng rất, rất nhiều vật
liệu chiến tranh đã được chở đến bằng xe lửa ở Vlapostok, rồi đưa lên các con
tàu đến cùng một điểm. Tàu không ghi nơi đến, nhưng các thủy thủ có miệng thì
nói, và Allan thì có ý hỏi họ. Đôi khi còn thể nhìn thấy hàng chở gì, ví dụ xe
địa hình hoặc thậm chí cả xe tăng, trong khi vào những dịp khác chỉ chứa các container
gỗ bình thường.

Allan nghĩ tới chuyện nghi binh như hồi ở Teheran
sáu năm trước đó. Theo câu châm ngôn La Mã cũ, cứ làm những gì bạn làm tốt
nhất, Allan nghĩ rằng có lẽ cần một ít pháo hoa. Và thế là các container đi
Wonsan Bắc Triều Tiên lọt vào tầm ngắm. Allan không thể biết nhưng đoán rằng
vài thùng trong số đó có chứa chất nổ và nếu một container như thế bắt lửa
trong khu vực bến tàu, nếu nó bùng nổ không kiểm soát ở những chỗ khác nhau...
thì chà, Allan và Herbert sẽ có cơ hội lẻn vào một góc, thay đồng phục của Liên
Xô... và... chà, sau đó họ có thể lấy một chiếc xe hơi... có sẵn chìa khóa cắm
ở ổ khởi động, đầy bình xăng, và chủ xe không phản đối. Rồi các cửa được canh
gác phải được mở theo lệnh của Allan và Herbert, và một khi họ đã ra khỏi bến
cảng và Gulag, không một ai nhận ra bất cứ điều gì kì lạ cả, không ai thấy mất
chiếc xe bị đánh cắp và không ai đuổi theo họ. Và tất cả những rắc rối này chưa
thấm vào đâu so với vấn đề làm thế nào họ vào được Bắc Triều Tiên và nhất là -
làm thế nào để đi được từ miền Bắc xuống miền Nam.

- Có thể là tôi nghĩ hơi ngu, - Herbert nói. -
Nhưng có vẻ như kế hoạch của ông chưa sẵn sàng lắm.

- Ông không ngu đâu, - Allan phản đối. - Chà, có
lẽ một chút thôi, nhưng về chuyện này, ông hoàn toàn đúng. Càng nghĩ về nó, tôi
càng thấy chúng ta chỉ nên để thế đã, rồi ông sẽ thấy chuyện gì đến sẽ đến, vì
nó thường xảy ra như vậy. Trên thực tế là gần như thường xuyên.

Phần đầu tiên (và duy nhất) của kế hoạch chạy
trốn là bí mật châm lửa đốt một container phù hợp. Để đạt mục đích đó, họ cần:
1) một container phù hợp, và 2) một cái gì đó để gây cháy. Trong khi chờ đợi
con tàu chở cái thứ nhất đến, một lần nữa Allan lại cử Herbert Einstein nổi
tiếng ngu đi làm một nhiệm vụ. Và Herbert đã hoàn thành một việc kì diệu là ăn
cắp một quả pháo sáng và giấu nó trong quần mình trước khi lính gác Liên Xô
phát hiện ra Herbert ở một nơi bị cấm đến. Nhưng thay vì bắn chết hoặc ít nhất
là tóm lấy gã tù, lính gác chỉ quát tù nhân số 133 sau năm năm phải biết cách
đừng đi lạc nữa. Herbert xin lỗi, và rón rén bỏ đi. Thế quái nào, ông lại lạc
hướng nữa.

- Doanh trại ở bên trái, Einstein, - tên lính gác
hét lên sau lưng ông. - Sao mà ngu thế?

Allan khen ngợi Herbert đã làm tốt và giả vờ tốt.
Herbert đỏ mặt vì lời khen, nhưng bác bỏ nó, nói rằng làm ra vẻ ngu ngốc chẳng
khó gì nếu mình ngu ngốc thật. Allan đáp ông không biết nó khó thế nào, vì
những kẻ ngu mà Allan từng gặp trong đời thường cố gắng làm ngược lại.

Rồi cũng đến cái ngày thích hợp. Đó là một buổi
sáng lạnh, ngày 1 tháng Ba năm 1953, khi một chuyến tàu đến có nhiều toa xe tới
mức Allan, hoặc ít nhất là Herbert, không thể đếm hết. Cái tàu rõ ràng là của
quân đội, và mọi thứ sẽ được chất lên ít nhất là ba chiếc tàu, tất cả đều đến
Bắc Triều Tiên. Tám chiếc xe tăng T34 chứa trong đó thì không giấu đi đâu được,
nhưng mọi thứ khác đều được đóng kín trong các container gỗ khổng lồ không hề
có nhãn hiệu gì. Tuy nhiên, khe hở giữa các tấm ván vừa đủ để có thể bắn một
quả pháo hiệu vào một trong các thùng chứa. Và Allan đã làm đúng như thế sau một
ngày rưỡi kể từ hôm bốc hàng, khi vừa có cơ hội.

Tất nhiên, chẳng bao lâu khói bốc lên từ
container, nhưng nó phải mất vài giây trước khi khối hàng cháy, nên Allan có
thể chuồn ngay và không bị nghi ngờ ngay lập tức là có liên quan. Ngay sau đó,
cả chiếc container bốc cháy, bất chấp trời đang âm độ.

Kế hoạch là nó sẽ phát nổ sau khi ngọn lửa lan
đến một quả lựu đạn hoặc cái gì đó tương tự trong khối hàng. Điều đó sẽ làm cho
lính canh phản ứng giống như lũ gà mái điên, và Allan và Herbert có thể về trại
của mình để nhanh chóng thay quần áo.

Vấn đề là nó không hề phát nổ. Tuy nhiên khói thì
kinh khủng, và thậm chí còn tồi tệ hơn khi bọn lính canh không muốn đến gần lửa
nên đã ra lệnh cho các tù nhân dội nước vào chiếc container đang cháy.

Điều này khiến ba trong số các tù nhân đã lợi
dụng khói che phủ để leo qua hàng rào cao hai mét đến phía bến cảng để ngỏ.
Nhưng tên lính trong tháp canh nhìn thấy những gì đã xảy ra. Hắn đang ngồi sẵn
đằng sau khẩu súng máy và xả súng hết băng này đến băng khác xuyên qua đám khói
vào ba tù nhân. Vì sử dụng đạn gắn hỏa tiễn, hắn bắn hạ cả ba người với một số
đạn lớn và họ rơi xuống đất chết tươi. Nếu chưa chết thì sau đó một giây họ
chắc chắn cũng chết, bởi vì tên lính trong tháp canh đã lia súng máy bắn thủng
không chỉ các tù nhân mà còn cả chiếc container không bị hư hại gì nằm bên trái
của chiếc mà Allan Karlsson đã đốt cháy. Chiếc công-ten-nơ của Allan chứa một
ngàn năm trăm cái chăn quân sự. Cái container bên cạnh chứa một ngàn năm trăm
quả lựu đạn. Đạn hỏa tiễn chứa phốtpho và khi viên đạn đầu tiên trúng vào quả
lựu đạn đầu tiên, nó phát nổ, và một phần mười giây sau nổ nốt một ngàn bốn
trăm chín mươi chín quả khác. Vụ nổ mạnh đến nỗi bốn chiếc container kề đó bay
xa từ 30 đến 80 mét vào doanh trại.

Chiếc container số năm chứa bảy trăm quả mìn chẳng bao lâu cũng phát nổ mạnh mẽ
như chiếc đầu tiên, khiến thứ chứa trong bốn chiếc container xa hơn lần lượt
bắn tung về mọi hướng.

Allan và Herbert muốn hỗn loạn thì đã có hỗn
loạn. Mà mới chỉ là khúc dạo đầu. Vì bây giờ đám cháy lan từ container này đến
container khác. Một trong số đó chứa đầy dầu diesel và xăng, đúng là lửa cháy
đổ thêm dầu. Một cái khác chứa đầy đạn dược cũng đi đời nhà ma. Hai trong số
lính gác tháp canh và tám doanh trại bốc cháy hoàn toàn trước khi chỗ đạn bắn
xe bọc sắt bắt lửa. Chỗ đạn đầu tiên đánh sập tháp canh thứ ba, cái thứ hai đã
bắn thẳng vào tòa nhà ở cổng vào của trại và kéo sập cả hàng rào lẫn trạm gác.

Bốn chiếc tàu đang neo sẵn để chở hàng và loạt
đạn bắn xe bọc thép tiếp theo khiến cả bốn bốc cháy.

Sau đó, một chiếc chứa lựu đạn phát nổ và bắt đầu
phản ứng dây chuyền đến cái container cuối cùng ở cuối hàng. Chẳng may nó lại
là chiếc chứa đạn bắn xe bọc thép và bắn theo hướng khác, về phía bến cảng để
ngỏ, nơi một tàu chở 65.000 tấn dầu đã về neo đậu. Một cú bắn trực tiếp vào cầu
khiến tàu chở dầu trôi dạt, và ba cú bắn tiếp theo vào bên hông thân tàu chở
dầu làm bùng lên một đám cháy lớn nhất.

Chiếc tàu chở dầu cháy dữ dội trôi dạt dọc theo
bờ kè về phía trung tâm của thành phố. Trong cuộc hành trình cuối cùng này, nó
đốt cháy tất cả những ngôi nhà dọc theo tuyến đường khoảng 2,2 km. Thêm vào đó,
hôm ấy có gió đông nam. Vì vậy, khoảng hai mươi lăm phút sau, toàn bộ - theo
nghĩa đen - Vlapostok bốc cháy.

Đồng chí Stalin vừa dùng xong bữa tối ngon lành
với các thuộc hạ Beria, Malenkov, Bulganin và Khrushchev thì nghe tin
Vlapostok gần như bị xóa sổ bởi một container đựng chăn bốc cháy và ngọn lửa
bùng lên không kiểm soát nổi.

Tin này làm Stalin rất khó chịu.

Nikita Sergeyevich Khrushchev, người mới được Stalin
sủng ái, vốn tính năng động bèn hỏi liệu mình có thể được phép đưa ra một lời
khuyên hữu ích về vấn đề này không và Stalin ậm ừ rằng được.

- Đồng chí Stalin yêu quý, - Khrushchev nói, - tôi
giả định là chuyện này chưa từng xảy ra. Giả sử ta đóng cửa hẳn Vladisvostok
với thế giới rồi từ từ xây lại thành phố, biến nó thành căn cứ Thái Bình Dương
đúng như đồng chí đã dự định trước đấy. Nhưng trên hết, chuyện này không xảy ra
là vì nó cho thế lực thù nghịch thấy điểm yếu mà chúng ta không nên để lộ. Đồng
chí Stalin hiểu ý tôi chứ ạ? Đồng chí có đồng ý không?

Stalin vẫn khó chịu. Và còn đang say nữa. Nhưng đồng
chí gật đầu tỏ ý rằng Stalin muốn Khrushchev nhận trách nhiệm dập vụ này đi như
nó chưa từng xảy ra. Rồi Stalin cáo từ vì cảm thấy không được khỏe.

Vladisvostok, Tư lệnh Beria nghĩ. Chẳng phải là nơi
mình đã giam giữ tay chuyên gia Thụy Điển phát xít để phòng khi Nga không thể
tự chế tạo bom? Mình đã quên béng mất hắn, lẽ ra phải thanh toán tên quỷ này
khi Yury Borisovich Popov đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ. Dù sao, có lẽ bây
giờ hắn đã bị thiêu cháy. Mặc dù hắn không cần phải làm cả một thành phố cháy
theo như thế.

Ở cửa phòng ngủ, Stalin bảo nhân viên tuyệt đối
không được quấy rầy mình. Rồi ông đóng cửa lại, ngồi trên mép giường, vừa cởi
nút áo sơ vừa ngẫm nghĩ.

Vlapostok... thành phố mà Stalin đã định biến
thành căn cứ của Hạm đội Xô Viết Thái Bình Dương! Vlapostok... thành phố đóng
một vai trò quan trọng đến thế để chuẩn bị tấn công trong chiến tranh Triều
Tiên! Vlapostok...

Đã không còn tồn tại nữa!

Stalin vẫn còn thời gian để tự hỏi làm thế quái nào
một container đựng chăn có thể bốc cháy dưới nhiệt độ âm 20 độ C. Ai đó phải
chịu trách nhiệm... và tên khốn đó... sẽ... sẽ...

Đến đó thì Stalin ngã chúi đầu xuống sàn. Và cứ nằm
nguyên thế trong hai mươi tư tiếng do đột quỵ, bởi một khi đồng chí Stalin đã
nói không muốn bị quấy rầy thì chẳng ai dám làm phiền.

Doanh trại của Allan và Herbert là một trong những
cái bắt lửa đầu tiên, mọi người ngay lập tức hủy bỏ kế hoạch lẩn trốn và mặc
đồng phục vào.

Tuy nhiên, hàng rào quanh trại đã đổ xuống và nếu
còn tháp canh nào chưa đổ thì cũng chẳng có ai bảo vệ. Vì vậy, ra khỏi trại
không khó. Vấn đề ở chỗ sau đó thì sao. Họ không thể đánh cắp xe tải quân sự vì
chúng đều bốc cháy. Và đi vào thành phố để kiếm một chiếc xe cũng không được.
Chẳng biết sao nhưng toàn bộ Vlapostok đều đang cháy.

Hầu hết các tù nhân trong trại thoát chết khỏi đám
cháy nổ tụ tập thành một nhóm trên con đường bên ngoài trại, ở một khoảng cách
an toàn tránh lựu đạn, đạn bắn xe bọc thép và mọi thứ khác đang bay lượn trong
không khí. Một vài phương án mạo hiểm được đặt ra, tất cả đều hướng về phía tây
bắc, bởi vì đó là hướng hợp lý duy nhất để người Nga chạy trốn. Phía đông là
biển nước, phía nam là Chiến tranh Triều Tiên, còn thẳng phía bắc là thành phố
đang bốc cháy hừng hực. Lựa chọn duy nhất còn lại là đi thẳng vào Siberia cực kì
lạnh giá. Nhưng bọn lính cũng nghĩ thế, và trước khi trời tối đã bắt hết đám
người bỏ trốn, đưa họ đến cõi vĩnh hằng, không sót một ai.

Chỉ trừ có Allan và Herbert. Cả hai đã mò tới được
một ngọn đồi phía tây nam Vlapostok. Họ ngồi nghỉ ở đó một lát, ngắm cảnh tàn
phá bên dưới.

- Quả pháo sáng cháy sáng thật đấy, - Herbert nói.

- Bom nguyên tử cũng chẳng làm được hơn thế, - Allan
đáp.

- Thế chúng ta làm gì bây giờ? - Herbert tự hỏi,
lạnh cóng đến nỗi đâm thèm được quay lại cái trại đã không còn đó nữa.

- Giờ ta sẽ đến Bắc Triều Tiên, anh bạn ạ, - Allan
đáp. - Và vì quanh đây chẳng có xe cộ gì, ta sẽ phải đi bộ. Thế cho ấm người.

Kirill Afanasievich Meretskov là một trong những sĩ
quan Hồng quân giỏi giang, được gắn huân chương nhiều nhất. Ông là một anh hùng
Liên Xô được thưởng Huân chương Lenin ít nhất bảy lần.

Là chỉ huy của quân đoàn Bốn, ông đã chiến đấu ngoan
cường chống quân Đức quanh tuyến Leningrad, và sau chín trăm ngày đáng sợ đã
phá vỡ cuộc bao vây. Không có gì ngạc nhiên khi Meretskov được phong làm tư
lệnh Liên Xô, cùng với tất cả huân huy chương và các danh hiệu.

Sau khi đẩy lùi được Hitler vĩnh viễn, Meretskov
tiến về phía đông 9.600 km bằng xe lửa. Ông được điều động chỉ huy Mặt trận
Viễn Đông, để đuổi Nhật ra khỏi Mãn Châu. Và không ai ngạc nhiên khi ông lại
thành công.

Và rồi chiến tranh thế giới kết thúc, Meretskov thấy
mệt mỏi. Chẳng ai chờ đợi ông trở lại Moskva, ông vẫn ở phía đông. Ngồi chơi
xơi nước sau cái bàn quân sự ở Vladisvostok. Một cái bàn rất đẹp. Bằng gỗ tếch
xịn.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3