23. Ông Kỳ đà - Lũ câm
Ông Kỳ đà
Bối cảnh của câu
chuyện này xảy ra cách đây chừng mười bốn năm. Xin lưu ý là từ đó đến nay nhân
vật chính thay đổi rất nhiều, cả ngoại hình và tính cách.
Mà bớ thằng Hồ
Sỹ! Mày đọc xong entry này, có cay cú ông thì cũng kệ mẹ mày! Có giỏi thì mở
một blog mà bêu nhọ nhau cho máu, cho chuyên nghiệp! Đừng giở giói đêm hôm gọi
điện chửi bới, làm ông mất ngủ!
Điều đầu tiên
cần phải khẳng định: Hồ Sỹ có một ông bố, và duy nhất chỉ có một ông bố. Ông bố
đó ở Hà Tĩnh. Làm cán bộ ngành thông tin. Y đã từng gặp ông tại Hà Nội. Đó là
một người cương trực và đôn hậu, có gì đó giống hình ảnh ông đồ xứ Nghệ xưa.
Quan hệ huyết
thống của bố con Hồ Sỹ là điều khỏi cần bàn cãi. Chỉ nhìn mặt là biết. Với sản
phẩm để đời mang tên Hồ Sỹ, có thể gọi ông là thợ đúc bậc bảy.
Tại sao lại cần
nhấn mạnh mối quan hệ huyết thống này? Xin thưa là để tránh cho ai đó suy nghĩ
rằng Hồ Sỹ có nhiều bố khi đọc lý lịch tự khai của gã. (Xin lưu ý là mỗi câu
này ứng với những thời điểm khác nhau, đối tượng nghe cũng là những nàng khác
nhau!)
Hồ Sỹ bảo: Bố
anh, tổng giám đốc một công ty xây dựng ở miền Trung...
Hồ Sỹ bảo: Bố
anh, Chánh thanh tra bộ tài...
Hổ Sỹ bảo: Bố
anh, Việt kiều ở Mỹ...
Hồ Sỹ bảo: Bố
anh,...
Hồ Sỹ bảo: Bố
anh,...
Đến đây hẳn mọi
người sẽ đặt dấu hỏi: Phải chăng Hồ Sỹ là kẻ ba hoa?!
Vâng! Xin thưa,
điều đó cực kỳ chính xác!
Hồ Sỹ sở hữu một
nội công thượng thừa là Thiết Diện Bì (da mặt sắt). Nên ít biết ngượng khi
khoác lác. Nếu ai đó phát hiện ra sự dối trá, môn nội công này càng phát huy
hiệu quả.
Hồ Sỹ tỉnh bơ,
lý luận: “Xét về nhân quyền thì bốc phét cũng là một quyền!”
Để ngụy trang
thứ nội công đấy trước mắt người đời, Hồ Sỹ cắm vào cằm mình nhúm râu.
Từ lâu Hổ Sỹ
nhận ra, với tem nhãn sinh viên Mỹ thuật, đi cưa gái không đến nỗi tồi. Nhưng
ăn sâu trong tâm thức người đời, là giống đấy nghèo! Mỗi lấn chứng kiến cảnh
chị em phân vân khi quyết định đổ, Hồ Sỹ hết sức khó chịu. Màn diễn này thường
lại dai. Rất tốn kém.
Để tốc thắng, Hổ
Sỹ sáng tạo một chiêu thức. Đó là nặn ra những ông bố có thương hiệu khác nhau.
Tùy gu của từng nàng mà lắp “bố” cho hợp những nhân vật này có điểm chung là
giàu, quyển chức; nhưng luôn ngăn cản con mình theo đuổi nghệ thuật. Đứa con
(tức Hồ Sỹ) cứng đầu, bất chấp tất, chạy theo niềm đam mê, thậm chí không thèm
nhận chu cấp của cha mẹ. Chi tiết này có ý nghĩa hết sức thiết thực. Nó giúp
giải thích những hoàn cảnh mỏng túi. Nhưng cũng ngầm làm các nàng hiểu, rằng ở
gã luôn tiềm tàng một nguồn tài chính hùng hậu.
Có kẻ bảo Hồ Sỹ
mắc bệnh ba hoa. Nhưng theo y bảo thế là sai. Vì xét ở khía cạnh y học, những
kẻ mang bệnh thường bị thôi thúc bởi ham muốn bất khả tri. Lý trí không kiểm
soát nổi. Nhưng Hồ Sỹ khác hẳn. Gã có chủ đích rõ ràng, kỹ năng lại khéo léo.
Hồ sơ tiểu sử những ông bố được tiết lộ bài bản, úp úp mở mở, làm người nghe
mặc nhiên tin. Đôi khi còn khiến các nàng nghĩ, rằng cái ông bố giàu có đấy gã
cố tình giấu. Lộ là chẳng qua do lỡ lời.
Ông bố giả tưởng
của Hồ Sỹ có lý lịch luôn biến màu. Nên được mệnh danh là “Ông kỳ đà!”
Với tiểu sử
trang nam nhi từ chối đời sung túc để nghệ thuật dấn thân, gã hiện ra như một
lãng nhân đậm màu sắc truyền kỳ.
Cũng chả nên dại
dột mà kết luận chị em nhẹ dạ và nông nghĩ!...
Có một lần, y và
Hổ Sỹ đi chơi cùng một nhóm các nàng. Mới quen. Chuyện rất rôm rả. Khi Hồ Sỹ
vào nhà vệ sinh, thập thò nháy mắt y, ý gọi đi cùng.
Vào nhà vệ sinh,
Hồ Sỹ nói:
“Tao quên mẹ nó
mất là lúc trước bảo với các em bố tao là ai! Thế mày có còn nhớ không?...”
Lũ câm
Hồi 1994, mình
học năm thứ hai Mỹ thuật Công nghiệp. Mình có lão bạn già nhờ trang trí đám
cưới. Nhà lão này ở ngõ Xã Đàn, cạnh trường dạy học sinh câm điếc. Mình liền
kéo mấy thằng cùng lớp đi làm cùng.
Lão bạn già của
mình là dân văn nghệ, tính đại gàn đại dở, ba mươi bảy tuổi lấy vợ. Lão không
thích dùng đồ trang trí đám cưới bán đại trà ở Hàng Mã, mà thích phải là đồ tự
làm, sao cho nhắng cho độc.
Bọn mình mua
giấy màu, vải vụn về xé, dán lên tường rất vui mắt. Rồi treo mấy cái khẩu hiệu:
“Phong-Hương vạn tuế” (tên cô dâu chú rể), “Một đám cưới - Trọn kiếp người”. Ở
phần phông nền chính, mình nói với chú rể: “Hôn nhân vốn là cuộc chiến, hạnh
phúc trong hôn nhân chính là những lúc đình chiến, anh nên làm biểu tượng hai
khẩu thần công chụm đầu dưới chữ Song Hỷ”. Mình nói thế là đùa, ai dè lão bảo:
“Có lý! Cứ làm thế cho tao.” Mình đâm áy náy, gàn lại, lão nhất quyết không
chịu.
Cắt xong hình
hai khẩu pháo thì gắn thêm bông hoa hồng ở nòng, vẫn đang đà nhảm nhí, mấy
thằng mình dán chi chít lên phông những viên đạn hình chai, để “Rượu tình yêu 1.000
độ".
Dân tình đi
ngang lắm người thấy lạ, ngó vào xem. Chú rể sướng, mặt mũi cực kỳ vênh vác.
Địa điểm đám
cưới ở cạnh Trường Câm điếc Xã Đàn. Có mấy đứa học sinh trường này cũng ra xem,
chúng nó khoái, mồm ú ớ, tay chân vung vẩy.
T học một lớp
của người câm kéo dài từ năm rưỡi đến hai năm, mấy đứa này tuy học cấp hai,
nhưng tuổi cũng lớn, chừng mười sáu mười bảy. Chúng nó chỉ ảnh cô dâu chú rể,
bóp bàn tay này vào cổ tay kia, thụt thụt cổ tay, nói: “pịt”. Thấy thằng Châu
Điên học cùng mình úp bàn tay vào đít rồi vỗ mồm Sỹ Phò, mấy đứa ấy nhìn Sỹ
Phò, nói: “ăn k... í... t". Bọn bạn mình cũng huơ huơ tay nói chuyện với
chúng nó, cả lũ vỗ mồm vỗ dái, thỉnh thoảng lấy tay này bóp vào cổ tay kia thụt
thụt, kêu “pịt tẹ”, cười nhăn nhở. Xem chừng hiểu nhau.
Trang trí xong
lúc xâm xẩm tối, mình và mấy thằng bạn chuẩn bị về trường, mới nhờ lão chú rể
đi gọi hai chiếc xích lô. Hai gã xích lô vào, nhìn bọn mình với mấy thằng cu
câm huơ tay huơ chân, ú ớ vẫy nhau, mới hỏi chú rể:
- Bọn này bị sao
hả bác?
Lão chú rể chỉ
cái biển Trường Câm điếc Xã Đàn, nói:
- Biển đề rõ thế
này mà còn phải hỏi à?
- Thế giờ đưa
chúng nó về đâu hả bác?
- Cứ chở chúng
nó về Đê La Thành, lúc nào dừng thì chúng nó ra hiệu.
Thấy trò bị nhầm
thế hay hay, mình và mấy thằng bạn lúc ngồi xích lô tuyệt nhiên không cất lời,
chỉ huơ tay huơ chân, ú ớ...
Hai gã xích lô
vừa đi vừa nó một gã rụt rè:
- Cái bọn câm
này là cả điếc hả ông?
- Thì có điếc
mới câm chứ!
- Chắc không?
- Tôi đùa ông
chắc?
- Thế mình chửi
nó nghe không?
- Đã điếc mà lại
còn nghe? Ông chửi đi, tôi cá...!
- Đ... mẹ mày!
Hai gã xích lô
cười phành phạch.
- Ông nhà ở đâu?
- Tôi ở Phú Thọ.
Thế ông?
- Tôi ở đây, vừa
tù về, kiếm cái xích lô chạy.
- Mà bọn này
trông khôn.
- Thì nó chỉ mỗi
điếc với câm, chứ mọi cái nó khác gì mình!
- Đấy, tay chúng
nó kìa... đang nói chuyện ấy đấy, tay thụt lên thụt xuống... là ấy đấy, thấy
chưa!
- Hay chúng nó chửi nhau?
- Chửi nhau mà mặt thằng nào cũng cười hơn hớn thế à?
- Hóa từ nãy đến giờ chúng nó toàn nói chuyện ấy ông
ạ!
- Ừ, bọn này ăn gì mà dâm thế!
- Mà chúng nó tán gái kiểu gì ông nhỉ?
- Ờ, ờ... thì nó cưa mấy con cũng câm, không nói được
thì nó dùng tay...
- Tán kiểu bọn này đâm hay, chứ biết nói như mình, lại
chả sướng nhanh bằng chúng nó!
- Ừ, sao chúng mày sướng thế!
Đến trước cổng Trường Mỹ thuật Công nghiệp, bọn mình
ra hiệu dừng, lúc xuống xe, mình giơ ngón tay, ú ớ...
Gã người Phú Thọ hỏi gã đi tù về:
- Lấy chúng nó bao nhiêu?
- Mỗi xe mười nghìn.
- Có đắt không
- Kệ!
Gã xích lô vừa tù về giơ mười ngón tay.
Mình giơ năm ngón tay.
Gã giơ lại mười ngón tay.
Mình vẫn giơ năm ngón tay.
Gã chửi:
- Đ... mẹ thằng câm này, mười nghìn, đéo kỳ kèo!
Lúc ấy mình nói, rất rành rọt:
- Chúng mày đéo biết thương người tàn tật à?
Bọn mình có bốn thằng. Nặng nhất là Sỹ Phò bảy tư
kilogram. Ngoài Châu Điên có phần nhẹ cân thì mình và thằng còn lại cũng nặng
trên sáu chục.
Đến lượt gã xích lô này ú ớ, chắc gã nhớ đến việc vừa
chửi sa sả mấy thằng bọn mình, gã thọt thẹt:
- Dạ vâng, bọn anh tàn tật thì đưa em bao nhiêu cũng
được!