Cha Và Con - Chương 07
Chương 7
Anh ngồi khoanh chân trên một con đèo, dùng ống nhòm nhìn khắp khu
thung lũng phía dưới. Có một con sông nhỏ chảy qua. Những đống gạch vụn của một
nhà máy. Ngói đen kịt. Một đài phun nước bằng gỗ được cuốn quanh bởi những đai
kim loại. Không khói. Không có bóng dáng của sự sống. Anh hạ cái ống nhòm, ngồi
nhìn xuống bên dưới.
Cha có thấy gì không? Thằng bé hỏi.
Không con ạ.
Anh đưa ống nhòm cho con. Thằng bé tròng dây vào cổ,
đưa lên mắt và điều chỉnh ống ngắm. Vạn vật lặng như tờ.
Con thấy khói cha ạ, nó nói.
Đâu?
Qua mấy ngôi nhà kia kìa.
Những ngôi nhà nào?
Thằng bé đưa lại ống nhòm cho anh. Anh chăm chú nhìn
quanh mấy ngôi nhà. Một dải khói mỏng. Cha nhìn thấy rồi. Anh nói.
Chúng ta làm gì đây hở cha?
Cha nghĩ là chúng ta phải xuống xem thế nào. Chúng
ta chỉ cần thật cẩn thận. Có thể có một nhóm người sinh sống ở đó nhưng cũng có
thể chỉ là những kẻ lang thang.
Như cha con mình ạ?
Ừ, như cha con mình.
Thế nếu đấy là bọn xấu thì sao ạ?
Chúng ta phải liều xem thế nào. Chúng ta phải kiếm
cái gì đó để ăn con ạ.
Hai cha con giấu xe trong rừng, băng qua cửa phòng
ướp lạnh đường ray xuống một bờ dốc đầy xác cây thường xuân. Khẩu súng sẵn sang
trên tay anh. Théo sát cha đi con. Thằng bé bám lấy anh. Hai cha con lom khom
di chuyển từ góc này qua góc khác, qua những con phố như bộ đội. Họ ngửi thấy
thoang thoảng mùi gỗ cháy. Hai cha con nấp trong một cửa hàng và nhìn ra ngoài
nhưng không thấy động tĩnh gì. Tất cả các cửa hàng đã bị vơ vét sạch từ lâu.
Không một cái cửa sổ nào còn lành lặn cả. Trong các cửa hàng, trời tối om om.
Toàn rác rưởi. Trên sàn, những ngăn kéo, giấy tờ, hộp bìa nằm ngổn ngang. Hai
cha con chẳng tìm được gì. Họ đi lân những bậc thang sần sùi của một cái thang
cuốn bằng thép. Thằng bé nắm chặt tay anh. Trên già treo quần áo có mấy cái áo
vest nhưng quá bụi. Họ tìm giày nhưng không có đôi nào cả. Chỉ toàn rác, không
có gì dùng được. Họ
quay lại gỡ mấy cái áo vest xuống và cuộn chúng trên tay. Đi thôi con. Anh nói.
Anh nghĩ chắc phải có thứ gì sót lại nhưng chẳng còn
gì. Họ đá những thứ rác rưởi trên lối đi của một khu chợ. Những thùng đựng hàng
cũ, giấy tờ và muôn đời là bụi. Anh lục thật kĩ một cái giá xem có gì ăn được
không. Anh mở cửa phòng ướp lạnh nhưng mùi tử thi bốc ra làm anh phải sập cửa
lại ngay. Hai cha con đứng trên phố. Anh nhìn lên bầu trời ảm đạm. Cả hai thở phều phào. Thằng bé đã
kiệt sức. Chúng ta phải lục soát nữa con ạ. Phải tìm được gì đó. Anh nói.
Đến một ngôi nhà ở rìa thị trấn, hai cha con trèo
lên bậc thềm sau nhà để vào bếp và bắt đầu xem xét các ngăn tủ. Chúng đều đã mở
sẵn. Chỉ có một hộp bột mì. Anh đứng nhìn nó hồi lâu. Họ cũng đã xem cả tủ bát
đĩa trong phòng ăn và phòng ngủ. Những tấm dán tường đã bong ra nằm cuộn lại
trên sàn giống như những tài liệu cổ. Anh để con ngồi ngoài thềm cầm áo khoác còn
mình thì lên lầu.
Tất cả mọi thứ đều ẩm ướt và thối rữa. Trong phòng
ngủ đầu tiên có một cái xác quắt queo bị xiết cổ, những mảng tóc xơ xác vẫn
vương lại trên gối. Anh nắm lấy viền chăn, giũ nó khỏi giường rồi cuốn lên tay.
Anh xem qua nhà vệ sinh và khu công trình phụ. Trên mắc áo có một bộ quần áo
mùa hè. Chẳng còn gì nữa cả. Anh xuống dưới nhà. Trời đang tối dần. Anh nắm lấy
tay con rồi quay ra đường qua lối cửa trước. Đến đỉnh đồi, anh dừng lại và nhìn
thị trấn. Trời sụp tối rất nhanh. Lạnh nữa. Anh khoác hai cái áo vào người con
và bọc thằng bé trong áo khoác của anh.
Con đói quá cha ạ.
Cha biết.
Cha con mình có tìm lại được đồ đạc không?
Có chứ, cha nhớ đã để nó ở đâu mà.
Nếu có ai phát hiện ra nó thì sao?
Không ai phát hiện ra nó đâu.
Con hi vọng thế.
Không có ai mà, con đừng lo, đi nào.
Tiếng gì thế cha nhỉ?
Cha không nghe thấy gì.
Cha nghe đi.
Cha không nghe thấy.
Hai cha con lắng nghe. Từ xa vẳng lại tiếng tru của
một con chó. Anh nhìn xuống thị trấn tối tăm. Chó đấy con ạ, anh nói.
Một con chó ạ?
Ừ.
Nó ở đâu ra thế cha?
Cha không biết.
Chúng ta sẽ không giết nó đâu cha nhé.
Ừ, chúng ta sẽ không giết nó.
Anh nhìn thằng bé đang run rẩy trong tấm áo khoác
rồi quỳ xuống hôn lên vầng trán đầy tro bụi.
Chúng ta sẽ không động đến nó đâu, cha hứa đấy.
Hai cha con đắp áo khoác và chăn nằm nghỉ trong một
cái xe hơi đậu dưới gầm cầu vượt. Trong bóng tối và sự tĩnh mịch bao trùm, anh
có thể nhìn thấy những tia sáng le lói xuất hiện. Những tầng cao của mấy tòa
nhà vẫn tối đen. Con phải nhịn đi tiểu nếu không bọn chúng sẽ phát hiện ra con.
Bọn chúng đang ăn gì? Có Chúa mới biết được. Hai cha con trùm áo kín mình và
nhìn ra ngòi cửa sổ. Họ là ai vậy cha?
Cha không biết.
0o0
Anh tỉnh dậy nằm lắng nghe trong đêm. Anh không thể
nhớ ra được mình đang ở đâu. Suy nghĩ này khiến anh mỉm cười. Chúng ta đang ở
đâu nhỉ? Anh lẩm bẩm.
Gì cơ cha?
Không có gì cả đâu. Con ngủ đi.
Chúng ta sẽ ổn thôi phải không cha?
Ừ.
Và không có chuyện gì tồi tệ xảy đến cả?
Đúng vậy.
Vì chúng ta có súng ạ?
Ừ.
Sáng hôm sau trời mưa. Lạnh buốt người. Từng cơn gió
xoáy tít trên đường và thốc vào chiếc xe. Hai cha con ngồi nhìn nước chảy ròng
ròng trên kính. Họ kẹt gần một ngày trên xe. Khi trời tạnh, họ để áo khoác và
chăn lại trong xe rồi bắt đầu đi vào các ngôi nhà tìm kiếm thức ăn. Mùi khói lan
tỏa trong làn khí ẩm. Cha con anh không bao giờ còn nghe thấy tiếng chó nữa. Họ
tìm thấy một vài vật dụng và quần áo trong một ngôi nhà. Một cái áo bông. Vài
tấm bạt. Anh chắc chắn rằng mình đang bị theo dõi nhưng anh không nhìn thấy ai
cả. Trong một cái tủ đựng thức ăn, họ tìm được một bao tải ngũ cốc thô bị chuột
gặm nhấm cách đây chắc lâu lắm rồi. Anh dùng một tấm lưới chắn cửa sổ để sang
đống ngũ cốc và thu được một vốc đầy những viên nhỏ. Anh nhóm lửa dưới mái vòm
bê tông và dung một chiếc hộp thiếc để nấu chúng thành bánh. Hai cha con chuyền
tay nhau ăn. Anh gói chút bột ít ỏi còn lại vào một tờ giấy và cất trong ba lô.
Để thằng bé lại trước bậc thềm, anh băng qua đường
vào một căn nhà khác. Bỗng nhiên, thằng bé thấy một khuôn mặt nhìn mình chằm
chằm. Một thằng nhóc trạc tuổi nó mặc một cái áo len rộng quá cỡ. Nó đứng bật
dậy, chạy về phía đấy nhưng không còn ai ở đó cả. Nó nhìn lại đằng sau một chút
rồi băng qua khoảng sân đầy cỏ dại đến tận một cái rãnh đen ngòm. Quay lại đây
– thằng bé gọi to – tớ không làm cậu đau đâu. Thằng bé òa lên khóc. Anh hớt hải
băng qua đường và túm lấy con.
Con đang làm gì thế - anh rít lên – con có biết con
đang làm gì không?
Cha ơi có một thằng nhỏ.
Không có thằng nhỏ nào cả. Con đang làm gì vậy hả?
Có mà cha. Con đã nhìn thấy nó.
Cha đã bảo con phải ở yên một chỗ cơ mà. Cha có nói
vậy không? Chúng ta phải rời khỏi đây ngay. Nhanh lên nào.
Thằng bé cứ khóc ri rỉ và không ngừng ngoái lại.
Thôi nào, chúng ta phải đi. Anh nói.
Con muốn gặp nó, cha ạ.
Không có ai cả. Con muốn chết ư? Con có muốn như vậy
không?
Con không thèm – thằng bé nức nở - con không cần biết.
Anh đứng lại, đặt con xuống và ôm con. Cha xin lỗi.
Cha xin con đừng nói như thế. Con không được nói thế.
Hai cha con quay trở lại cầu vượt, lấy áo và chăn,
lộn lại đường ray tìm cái xe rồi đi tiếp.
Nếu không có ai chăm sóc cho thằng bé thì sao hở
cha? Nếu đúng là như thế thì sao? Thằng bé hỏi.
Ở đó có nhiều người con ạ. Họ chỉ đang nấp ở đâu đó
thôi.
Anh đẩy xe lên đường và khựng lại. Trên nền tro ẩm
là dấu vết của chiếc xe tải, hơi mờ một chút nhưng chắc chắn là nó. Anh cảm
thấy mùi của bọn chúng vương vất quanh đây. Thằng bé giật giật ống tay áo của
anh. Cha ơi, thằng bé hỏi.
Sao con?
Con thương thằng bé đấy lắm.
Cha biết, nhưng nó sẽ ổn thôi con ạ.
Chúng ta quay lại đi cha. Chúng ta sẽ cho nó cùng
đi. Cả nó, cả con chó nữa. Con chó sẽ tự tìm được thức ăn.
Chúng ta không thể.
Con sẽ chia cho thằng bé một nửa đồ ăn của con.
Thôi nào. Chúng ta không thể.
Thằng bé lại òa khóc.
Thế còn thằng bé thì sao? – Nó nức nở - Thế còn
thằng bé thì sao?
Tại một ngã tư, hai cha con ngồi trên lớp tro bụi,
trải tấm bản đồ ra và nghiên cứu. Anh chỉ vào bản đồ. Đây là hai cha con mình.
Ngay chỗ này đây. Thằng bé không them nhìn xuống. Anh nhìn vào những tuyến
đường được đánh dấu đen và đỏ chằng chịt như ma trận. Anh vẫn để tay vào chỗ
ngã tư như thể chắc chắn đó là chỗ hai cha con đang ngồi. Chúng ta vẫn có thể
quay lại – thằng bé nói – chưa xa lắm mà cũng chưa muộn.
Hai cha con nghỉ trong một vườn cây cách đường không
xa. Họ không tìm thấy
nơi nào an toàn để nhóm lửa. Tối hôm đó, hai cha con không nhóm lửa nữa. Sau
khi ăn mỗi người hai cái bánh bột ngô, hai cha con khoác áo và chăn lên người
rồi cùng đi ngủ. Anh ôm con đến khi thằng bé hết run rồi mới thiếp đi.
Con chó đã đi theo họ hai ngày nay rồi. Anh ra sức
dỗ dành nó, gọi nó tới gần mà nó không chịu. Anh bện một cái thòng lọng để bắt
nó. Trong khẩu súng lục chỉ còn ba viên đạn. Nó bỏ đi về phía cuối đường. Thằng
bé dõi theo con chó rồi lại nhìn anh, rồi nó quay sang nhìn con chó và bắt đầu
khóc nấc lên xin anh đừng giết con vật khốn khổ, anh đành phải hứa với nó là sẽ
không động đến một sợi lông
của con chó. Con chó khốn khổ chỉ có da bọc xương ấy hôm sau đi mất. Thằng bé
nhớ con chó nhưng chẳng còn nhớ tí gì về thằng nhỏ lúc trưa nữa.
Anh bốc một nắm nho khô, gói vào mảnh vải, bỏ vào
túi áo khoác và trưa hôm đó hai cha con ngồi trên thảm cỏ chết rụi bên đường mà
ăn. Thằng bé nhìn cha hỏi: Còn có bằng này thôi hở cha?
Ừ.
Mình sắp chết phải không cha?
Không.
Thế mình sẽ làm gì?
Giờ cha con mình uống nước, rồi sau đó mình lại đi
tiếp nhé.
Vâng ạ.
Bóng chiều đổ xuống, hai cha con lê bước mệt nhọc
băng qua cánh đồng. Họ cố tìm lấy một chỗ nào đó để có thể nhóm lửa mà không bị
phát hiện. Cái xe đẩy bị lôi xềnh xệch trên đất. Chẳng thấy chút tương lai hứa
hẹn nào trên mảnh đất này. Sáng sớm mai, họ sẽ tìm chút gì để cho vào bụng. Ánh
sáng nhá nhem trùm lấy con đường lầy lội. Hai cha con rẽ vào một cánh đồng, mệt
nhọc lết từng bước hướng về rặng cây phía đằng xa. Đó là một dải đen nổi lên
trên nền trời u ám như là một chút gì đó còn sót lại của thế giới chết chóc
này. Khi họ đến được chỗ rặng cây cũng là lúc bóng đêm bao trùm lấy cánh đồng.
Anh vẫn vừa nắm chặt tay con, vừa nhặt đá và cành con để nhóm lửa. Mấy cành cây
ướt hết, anh lấy dao gọt bớt lớp vỏ ngoài rồi nhặt nhạnh mấy bụi cây con, hong
chúng xung quanh đống lửa. Xong đâu đó, anh lấy tấm vải nhựa ra, trải trên nần
đất ẩm thấp. Anh lôi áo khoác và chăn trong xe đẩy ra, tháo đôi giày ướt sũng
lấm đầy bùn đất cho con, rồi anh tháo giày mình. Hai cha con ngồi đó, lặng lẽ
hơ tay bên đống lửa. Anh cố tìm một điều gì để nói nhưng lại không thể. Cái cảm
giác này đã từng xuất hiện, nó còn ghê gớm hơn là sự tê liệt và nỗi thất vọng
tột cùng. Cái thế giới lụi tàn này như đang co rút lại, ngày một tiến gần hơn
đến cái tâm lạnh lẽo… từng sự vật, từng sự vật một, nối tiếp nhau trôi vào lãng
quên. Những mảng màu. Tên gọi của các loài chim. Những thứ để ăn. Rồi sau cùng
là những thứ mà người ta tin rằng nó đã từng có tên. Tất cả, mong manh hơn là
anh hằng tưởng. Đã bao nhiêu điều mất đi rồi? Lối diễn đạt thần thánh đã bóp
méo nó và sự tồn tại của nó. Tất cả dần được gọi ra như người ta cố gắng khơi
đống tro tàn để giữ lại chút hơi ấm vào cái giây phút mà ngọn lửa đã tắt lụi.
Chặng đường dài đã khiến hai cha con kiệt sức, đặt
mình xuống là họ chìm ngay vào giấc ngủ. Sớm hôm sau khi anh thức giấc, lửa đã
tàn. Anh xỏ chân vào đôi giày lấm lem bùn đất, mệt nhọc lê bước đi nhặt nhạnh
mấy cành củi, liên tục hà hơi vào tay cho khỏi cóng. Trời lạnh buốt. Bây giờ có
lẽ là tháng mười một. Không, chắc là muộn hơn thế. Lửa đã lại được nhóm lên,
anh đứng dậy, tiến sát ra rìa mỏm đất nơi rặng cây nhô ra và cứ đứng lặng ở đó
nhìn trân trân vào khoảng không trước mặt. Những gì anh nhìn thấy chỉ là một
dải những cánh đồng đã chết rụi nối tiếp nhau. Xa xa có một kho thóc.
Hai cha con lại đi, vượt qua con đường lầy lội, dọc
theo một ngọn đồi đến chỗ kho thóc. Có lẽ nó đã bị thiêu rụi cách đây lâu lắm
rồi, vẫn còn thấy cái lò nấu rỉ sét ngay bên hố nước đen ngòm của hầm rượu. Những
tấm mái kim loại cháy đen, cong queo và rúm ró bị gió cuốn đang lăn long lóc
trên cánh đồng. Họ bước vào trong kho và mót được một vài nhúm thóc trên sàn
máy xay, mà nếu không nhìn kĩ thì anh không tài nào thấy được chúng giữa đám
cát bụi. Cha con anh đứng luôn ở đó, cứ thế mà ăn, ăn luôn cả đất cát. Ăn xong,
họ lại băng qua cánh đồng, tiếp tục cuộc hành trình.
Họ men theo một bờ tường bằng đá, băng qua một
khoảng vườn nham nhở còn sót lại. Những gốc cây cằn cỗi cháy đen vẫn đứng theo
hàng nhưng những cành cây thì nằm ngổn ngang trên mặt đất. Anh dừng lại, đưa
mắt nhìn quanh khắp các cánh đồng. Từ phía đông, gió đang thổi tới cuốn theo
cát bụi và tro tàn trong mỗi luống cày. Tắt gió, màn khói bụi rơi xuống, rồi
lại vội vã cuộn mù lên. Lại vẫn là cái cảnh tượng mà anh đã thấy. Những búi cỏ
nhuộm màu máu khô; nội tạng của người và gia súc gia cầm chết xám ngoét, rải
rác trên cánh đồng, lúc lăn bên này, lúc bị cuốn sang bên kia, long lóc theo
gió... Trên bức tường ở phía xa lủng lẳng rất nhiều đầu người. Tất cả đều mang
cùng một khuôn mặt khô quắt và dúm dó với bộ hàm ngoác đến tận mang tai và hai
mắt nhăn nhó. Những cái sọ người đeo khuyên tai vàng và dúm tóc như lông chuột chù lơ thơ quấn
lấy mấy cái đầu lâu. Mấy cái răng còn cắm trong miệng trông như khuôn hàm răng,
những hình xăm thô tẩm màu tự chế trông nhòe nhoẹt dưới tia nắng mặt trời kì
quái. Nào thì hình những con nhện, nào thì gươm giáo, bia đỡ; lại có cả một con
rồng. Những biểu ngữ, khẩu hiệu bằng chữ cổ thần bí, những dòng kinh cầu nguệch
ngoạc, sai chính tả. Những vết sẹo theo cùng một kiểu. Chiếc đầu bị đánh bằng
dùi cui nhưng chưa biến dạng đã bị lột da. Những chiếc sọ khác được tô vẽ
nguệch ngoạc trên trán. Một chiếc sọ trắng nhởn được khắc những đường cẩn thận
như một bản kế hoạch chi tiết.
Anh quay lại nhìn thằng bé. Nó đang đứng cạnh cái xe
đẩy. Gió vẫn thổi. Đồng cỏ khô cằn. Những hàng cây quằn quại trong bóng tối.
Một mảnh quần áo bay phần phật trong gió. Cảnh vật hoang tàn trong làn tro bụi.
Anh đi men theo bờ tường để xem xét lại lần cuối rồi trèo qua tường ra ngoài
nơi thằng bé đang đợi. Anh quàng tay qua vai thằng bé. Xong rồi. Mình đi thôi
con. Anh nói.

