Những bí ẩn của cuộc đời - Chương 09
Chương 9
Kích Thước Mới Của Khoa Tâm Lý
Người ta có thể học được nhiều việc bằng cách thử giải quyết những vấn
đề khó khăn. Sự giải quyết nhiều vấn đề lý thú căn cứ trên một nguyên tắc quan
trọng là sự lý luận hay suy gẫm.
Vấn đề quan trọng nhứt trong mọi vấn đề bí hiểm của cuộc đời là sự bí
mật về con người. Con người là ai? Y từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Để giải đáp
vấn đề này, chúng ta có thể áp dụng một phương pháp khoa học giản dị như sau:
Chúng ta đưa cho một người kia sáu cái diêm quẹt và bảo y hãy sắp thành bốn
hình tam giác đều cạnh với nhau (triangles équilatéraux.) Người ấy lần mò sắp
đặt các diêm quẹt một hồi lâu... Sau cùng y đành chịu thua và bỏ cuộc vì không
sao sắp được. Bài toán đố bí hiểm này chỉ có thể giải quyết được nếu người ấy
bỏ cái ý nghĩ sắp các diêm quẹt theo hai chiều đo (chiều dài và ngang) trên một
mặt bàn bằng phẳng, mà hãy thêm vào một chiều đo thứ ba (3ème dimension), tức
là chiều sâu, và sắp thành một khối Kim Tự Tháp (Pyramide).
Vấn đề bí hiểm của đời người đại khái cũng giống như cái trò chơi kể
trên. Chúng ta chỉ cần thêm vào một bề đo thứ ba, tức là yếu tố thời gian, và
chúng ta sẽ có thể hiểu được nguồn gốc và tương lai của con người.
Người ta thường cho rằng đời người chỉ là cái kiếp sống của thể xác, kể
từ khi bắt đầu sinh ra cho đến khi chết là hết. Nhưng nếu người ta có thể chứng
minh một cách khoa học rằng con người không phải là cái thể xác vật chất, mà
cũng là một linh hồn; linh hồn ấy đã từng sống trước khi y sinh ra và sẽ tiếp
tục tồn tại sau khi y chết, thì sự khám phá đó sẽ làm đảo lộn tất cả khoa tâm
lý học hiện naỵ Điều đó chẳng khác nào như một cái ống thăm dò mà người ta cắm
xuống tận những lớp sâu trong lòng Trái Đất để tìm mỏ dầu. Khoa Tâm Lý Học hiện
đại ví như một cái lỗ sâu có năm phân để trồng một củ hành, so với một cái
giếng dầu lửa bề sâu ba ngàn thước tượng trưng cho bề đo vừa nói trên.
Trong thời gian gần đây, các nhà tâm lý học đã nghiên cứu tỉ mỉ về cá
tính của con người, và nhờ sự nghiên cứu công phu đó, người ta đã có nhiều sự
áp dụng thực tế vào các vấn đề lao động, hướng nghiệp, công tác xã hội... Tuy
thế những sự phát minh đó cũng chỉ biết một cách rất nông cạn về con người.
Nếu người ta áp dụng thuyết Luân Hồi, thì đó là một ngọn đèn pha sáng
rực soi vào những hang ngách tối tăm, sâu thẳm của vấn đề bí hiểm này. Nhờ đó,
người ta có thể nhận thấy rõ bằng cách nào được cấu tạo nên những tánh tình, cử
chỉ, thái độ, đức tánh, vận mạng cùng thân thế hiện nay của một người.
Chúng ta có thể dùng một thí dụ khác: đời người có thể ví như một khối
nước đá ngâm dưới nước; chín phần chìm xuống nước chỉ có một phần nổi lên trên.
Thuyết Luân Hồi tiết lộ cho ta thấy chín phần khối nước đá chìm dưới mặt nước,
còn khoa tâm lý học hiện nay chỉ nghiên cứu một cách vất vả mệt nhọc về một
phần nhỏ bé nổi lên trên, mà ta có thể nhìn thấy!
Những tập hồ sơ của Cayce còn đưa ra nhiều thí dụ về bề đo "Thời
gian" kể trên, và về cách mà nó giải thích cá tính hiện nay của một người.
Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce có nói về một người lính Gaulois bị tướng La
Mã Annibal bắt làm tù binh và bắt làm nô lệ chèo thuyền ở giữa biển. Người tù
binh này bị các tướng da đen ngược đãi và sau cùng, y bị một tên da đen đánh
chết. Việc này xảy ra đã từ ba kiếp về trước, nhưng lòng căm thù uất hận về
hành động tàn ác này đã ăn sâu vào tiềm thức của y trải qua 22 thế kỷ. Trong
kiếp này, y làm nghề nông nghiệp và trồng tỉa ở tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ.
Suốt cả đời, y luôn luôn có một lòng thù ghét sâu đậm đối với dân da
đen; thậm chí, y lập nên một Hội bảo vệ chủ quyền của người da trắng. Đó là một
thí dụ điển hình về việc người ta giữ nguyên vẹn cá tính từ kiếp này sang kiếp
khác. Người ta có thể tìm thấy rất nhiều trường hợp như thế trong các tập hồ sơ
Cayce.
Một nhà viết báo nó biểu lộ trong nhiều năm một tinh thần chống Do Thái
rất mãnh liệt. Cuộc soi kiếp cho biết rằng thái độ ấy được truy nguyên ra từ
một kiếp trước ở xứ Palestine, trong kiếp đó, y thuộc về giáo phái Samaritains,
phái này thường có những cuộc xung đột dữ dội với người Do Thái ở nước láng
giềng.
Một người đàn bà ba mươi tám tuổi, độc thân, đã có nhiều mối tình duyên
trong đời, nhưng không chịu kết hôn với một người nào vì bà ta có một lòng nghi
kỵ rất thâm sâu đối với đàn ông. Sự dè dặt và nghi kỵ này do bởi ở một kiếp
trước bà ta đã từng đau khổ vì bị chồng bỏ để đi tùng chinh trong trận Thánh
Chiến.
Một người phụ nữ nọ có một tinh thần tôn giáo rất rộng rãi khoan dung,
được biết rằng cô có đức tính này là nhở bởi kiếp trước có tham dự cuộc Thánh
Chiến, và đã từng sống chung với người Hồi Giáo. Trong khi tiếp xúc với những
người thuộc một tôn giáo khác hẳn, lần đầu tiên cô dã nhận thức được rằng những
người "Ngoại đạo" cũng biểu lộ những đức tính tốt như can đảm, nhân từ,
khoan hậu, và lòng sùng tín thiêng liêng. Điều này đem đến cho cô một ấn tượng
mạnh mẻ sâu xa đến nỗi nó đã làm cho cô có một ý thức rõ rệt và bền bỉ về đức
tính khoan dung đối với người thuộc tôn giáo khác hơn mình.
Trái lại, một nhà chuyên môn quảng cáo nọ có óc hoài nghi và không có
tín ngưỡng tôn giáo, kiếp trước cũng là một chiến sĩ trong trận Thánh Chiến.
Nhưng y cảm thấy có sự khác biệt giữa sự Thuyết Giáo và Hành Đạo trong số những
người mà y đã gặp, đến nỗi trong kiếp này y vẫn còn giữ một sự nghi ngờ rất lớn
đối với những sự biểu lộ tôn giáo về hình thức bên ngoài.
Những thí dụ kể trên gồm ba thái độ khác nhau: Thái độ về vấn đề chủng
tộc, đối với người khác phái và đối với vấn đề tôn giáo, mà nguyên nhân là do
bởi ở một kiếp trước. Lẽ tụ nhiên trong mỗi trường hợp, đương sự phải gặp những
hoàn cảnh địa phương thuận tiện để gây cho y sự phản ứng về các vấn đề đó.
Người căm thù dân da đen sinh ra ở miền Nam Hoa Kỳ năm 1853 là thời kỳ mà những
phong tục và truyền thống ở xứ này là những hoàn cảnh thuận tiện để gây cho y
cái ý niệm kỳ thị chủng tộc da đen.
Vấn đề ảnh hưởng của hoàn cảnh địa phương cũng được nêu ra trong những
trường hợp khác như đã kể trên, hoặc trong nhiều trường hợp tương tự. Sự kiện
rằng có nhiều người cũng ở vào những hoàn cảnh địa phương giống như nhau, nhưng
lại có sự phản ứng khác hẳn, dường như chỉ rằng sự phản ứng đó có một nguyên
nhân sâu xa hơn là do những hoàn cảnh sinh hoạt ở kiếp này.
Các nhà chữa bịnh tâm thần đều đồng thanh cho rằng những thái độ tinh
thần của con người vốn từ trong tiềm thức biểu lộ ra ngoài. Nguyên tắc Luân Hồi
chỉ nới rộng lĩnh vực tìm thức để gồm luôn cả những kinh nghiệm của những kiếp
trước. Cũng như trong nhữg trường hợp bệnh tật của xác thể, người ta đã truy
nguyên lý do của mỗi chứng bịnh ở những kiếp trước là do bởi yếu tố thời gian.
Đó là nói về những thái độ cử chỉ của con người đối với một vài vấn đề nhất
định. Những thái độ đó, cũng như những khuynh hướng, đố kỵ, ưa thích... đều gồm
lại làm thành phần cá tính của một người. Những bản năng tự tồn, bản năng sinh
sản... đều hỗn hợp một cách chặt chẽ với tất cả những điều ham muốn khác của
đời sống con người. Tuy nhiên, ngoài ra những sự nhu cầu căn bản chung của nhân
loại, còn có những điều thích thú say mê và hứng khởi đặc biệt, biểu lộ một cách
khác biệt nhau rất xa ở một số người. Thí dụ:
Trong một gia đình có năm người con, một đứa thích âm nhạc, một đức
thích máy móc, một đứa thiên về hội hoạ, một đức thích sưu tầm các loài bướm;
đứa sau chùng chơi bời du đãng và phá phách làng xóm.
Sự giải thích thông thường của khoa học tâm lý về sự khác biệt giữa
những khả năng và tính chất kể trên: Một là do sự di truyền và hai là do những
yếu tố tâm lý phân giải (psychanalyse) tùy thuộc nơi vị trí của một người trong
gia đình và những kinh nghiệm riêng mà y thâu nhập được.
Những tập hồ sơ của Cayce chứa đựng những thí dụ dưới đây về những
khuynh hướng đặc biệt của một số người, được truy nguyên ra từ nhiều kiếp
trước.
Một vị nha y sinh trưởng ở thành phố New York, mặc dầu rất hài lòng về
chức nghiệp và đời sống ở thành thị, nhưng thỉnh thoảng lại thấy muốn sống ở
ngoài đồng ruộng hoặc trên bờ sông với một khẩu súng đi săn và một cần câu; và
cắm trại một mình với một chiếc lều dựng lên giữa bãi sa mạc. Sự thích thú sống
gần với thiên nhiên này vốn không phù hợp với tâm tính của một người quen sống
ở thị thành, nhứt là gia đình của y đã từng sống ở thành thị trải qua nhiều thế
kỷ. Điều này chỉ có thể giải thích được bằng thuyết Luân Hồi. Cuộc soi kiếp của
ông Cayce cho biết rằng trong một tiền kiếp, y là một người Đan Mạch di cư sang
Bắc Mỹ trong thời kỳ khai thác thuộc địa. Y sống ở New Jersey, trong một vùng
có nhiều đầm đìa, hồ ao, sông rạch; y sống với nghề săn bắt, gài bẫy thú rừng,
và buôn bán các loại thú. Cuộc đời hoạt động chốn bụi trừng, đầm lạch, sông
ngòi, đã đem cho y một sự thích thú đặc biệt vẫn còn tồn tại đến ngày nay, tuy
rằng điều ấy còn phải lệ thuộc vào đời sống hành nghề nha sĩ của y trong kiếp
này.
Có nhiều người cảm thấy yêu mến nồng nàn một xứ hay một vùng địa phương
xa lạ. Những cuộc soi kiếp truy nguyên ra sự hấp dẫn này ở một kiếp trước của
đương sự, trong kiếp đó y đã từng trải qua một thời kỳ sung sướng và hạnh phúc
ở xứ ấy. Thí dụ: Một người đàn bà nọ kinh doanh buôn bán lớn ở vùng bờ biển
phía đông xứ Hoa Kỳ, luôn luôn vẫn có ý muốn di cư xuống ở miền Tây Nam xứ ấy.
Sau cùng bà ta di cư thật và hiện nay bà làm chủ một khách sạn lớn ở tại New
Mexicọ Cuộc soi kiếp cho biết bà đã từng sống trong hai tiền kiếp ở vùng này,
và lòng trìu mến của bà đối xử ấy vẫn còn tồn tại trong những thế kỷ trung
gian.
Có bốn người kia, một người cảm thấy yêu mến những vùng hải đảo miền
Nam Thái Bình Dương, một người muốn sống ở tiểu bang New Orleans, một người yêu
mến xứ Ấn Độ và một người lại thích ở xứ Trung Hoa. Những cuộc soi kiếp cho
biết rằng trong kiếp trước, họ đã từng sống ở các xứ ấy, và đó là lý do của sự
hấp dẫn nói trên.
Sự thích thú về một môn nghệ thuật hay một nghề nghiệp nào cũng là do ở
những kinh nghiệm trong các tiền kiếp. Một thiếu phụ kia yêu thích đến say mê
môn khiêu vũ và kịch nghệ Hy Lạp, được biết rằng đó là do kinh nghiệm trong một
kiếp trước của y ở Hy Lạp, trong thời kỳ những môn nghệ thuật này phát triển
đến cực điểm. Sự thích thú của một thanh niên nọ về hiện tượng thần giao cách
cảm được truy nguyên ra từ một kiếp trước ở châu Atlantide, trong kiếp trước y
đã dạy môn tâm lý học và chuyển di tư tưởng.
Cũng do một kinh nghiệm cũ về nghề hoa tiêu về giám đốc ngành chuyên
vận ở châu Atlantide, mà một thiếu nữ nọ cảm thấy rất thích thú về môn lái máy
bay và môn kỹ thuật hàng không trong kiếp này. Một người đàn bà nọ ham thích
làm việc công tác xã hội phụng sự các trẻ em tật nguyền khốn khổ, được cho biết
rằng kiếp trước y đã từng sống ở xứ Palestine, tại đây y chịu ảnh hưởng giáo lý
của đức Jusus và bắt đầu hiến dâng cuộc đời để săn sóc cứu chữa những kẻ tàn
tật và bịnh hoạn. Một vị kỹ sư nọ đảm nhiệm một cơ quan nghiên cứu, và đã từng
làm việc nhiều năm trong phong trào phát triển ngành kỹ thuật, kiếp trước vốn
là một người Atlante chuyên coi về ngành Quản trị Khoa học trong xứ ở châu
Atlantide.
Sự tái diễn những kinh nghiệm và khả năng đặc biệt từ những tiền kiếp,
dường như càng biểu lộ rõ rệt trong cuộc đời của những nhân vật tên tuổi. Chúng
tôi không căn cứ điều này trên những cuộc soi kiếp của ông Cayce, mà căn cứ
trên tiểu sử của những nhân vật ấy.
Thí dụ như trường hợp của ông Heinrich Schliemann, nhà khảo cổ Đức đã
khám phá ra những di tích cổ của thành phố Troie bị chôn vùi dưới mặt đất, và
nhờ đó đã xác nhận tánh cách lịch sử của thiên Anh Hùng Ca "Iliade"
của Homèrẹ Ông là con của một vị mục sư nghèo, giảng đạo tại miền Bắc nước Đức
nhưng trong lúc thiếu thời ông đã say mê "Iliade", ông nhất định học
tiếng Hy Lạp và truy tầm nơi diễn tả sự tích của thiên Anh Hùng Ca bất hủ này.
Trong ba mươi lăm năm, ông Schiemann cố gắng dành dụm một số tiền để
giúp ông thực hiện công trình khảo cổ này. Ông trở nên một nhà sinh ngữ học ưu
tú, nhưng ông lại thích nhất môn sinh ngữ Hy Lạp và tất cả những gì thuộc về xứ
ngàn năm vạn vật này. Về sau, ông dùng những cách hành văn Hy Lạp trong khi nói
chuyện và nhà chép tiểu sử của ông thuật lại rằng trong dịp làm lễ rửa tội cho
con trai ông, ông đặc quyển Anh Hùng Ca của Homère trên đầu con ông và ngâm
vang lên những câu thơ bất hủ trong đó trước khi giao nó cho vị linh mục làm
phép rửa tội! Điều này chỉ là một trong những cử chỉ lố lăng khác, nó phản ảnh
một lòng hâm mộ hâm mộ và say mê nồng nhiệt nền văn hóa cổ xưa của xứ Hy Lạp.
Một sự say mê nồng nhiệt như thế có thể hiểu được nếu chúng ta thấy rằng đó chỉ
là do ký ức của linh hồn muốn nhắc nhở và sống lại thời kỳ hạnh phúc đã qua
trong dĩ vãng.
Một thí dụ khác cũng rất lý thú là trường hợp của nhà văn Lafcadio
Hearn. Ông sinh ra trên một hòn đảo ở gần Hy Lạp, cha ông là người Ái Nhĩ Lan,
mẹ Ông là người Hy Lạp. Ông đi phiêu lưu giang hồ từ Hy Lạp sang Anh quốc, Mỹ
quốc, đảo Guadeloupe, Martinique, và sau cùng ông đã tìm thấy "Quê hương
tinh thần" của ông ở xứ Phù Tang tại đây ông cưới vợ Nhật, đổi tên Nhật,
và dạy học ở một trường Nhật. Sự hiểu biết sâu xa về tâm hồn của người Nhật
bổn, tài năng lạ lùng của ông trong sự diễn đạt cái tinh hoa của nước Nhật cho
thế giới u Tây và diễn đạt tư tưởng u Tây cho người Nhật, không làm cho ta ngạc
nhiên nếu ta thấy rằng đó chỉ là do những kinh nghiệm cũ của ông ta trong một
tiền kiếp ở Nhật Bản.
Trường hợp của ông T.E.Lawrence là một thí dụ khác nữa. Ông ta rất đặc
biệt khôn khéo trong việc tiếp xúc với người Ả Rập và đã sống chung với họ như
một người Ả Rập. Ông không hề cảm thấy thoải mái dễ chịu ở tại quê hương xứ sở
hay trong gia đình ông ở Anh quốc. Ông chán nản mọi sự học ở nhà trường, trừ ra
lớp học lịch sử cuộc Thánh Chiến (Croisades), và việc nghiên cứu các tòa lâu
đài cùng thành lũy thời Trung Cổ.
Sự thành công đặc biệt của ông trong vai trò tướng soái chỉ huy quân
đội Ả Rập có thể hiểu được như là kết quả của một giai đoạn phiêu lưu ở kiếp
trước hồi thời Trung Cổ, trong kiếp đó chính ông ta là người Ả Rập và là một
chiến thuật gia, nhưng không đạt được mục đích trước khi ông ta từ trần.
Những khuynh hướng đặc biệt kể trên không phải chỉ có những nhân vật
tên tuổi của lịch sử mà thôi; mỗi người đều có thể nhận thấy ít nhiều khuynh
hướng đó ở chính những bạn bè thân quyến của mình.
Những nét riêng hay đặc điểm về cá tính, cũng như những thích thú và cử
chỉ cùng thái độ đặc biệt của một người là những yếu tố quan trọng trong việc
phân tách tâm lý, và những tập hồ sơ của Cayce đã nêu ra những trường hợp vô
cùng lý thú về sự truy nguyên ra những kiếp trước.
Bà vợ của một nhà triệu phú nọ Ở miền Tây Hoa Kỳ có một tính chất rất
độc tài và chuyên chế. Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân là vì bởi kiếp trước,
y đã từng làm giáo sư ở tiểu bang Ohio, và trong những kiếp trước nữa, y đã
từng nắm giữ những chức vụ cao ở Palestine và ở Ẩn Độ.
Một thanh niên nọ từ thuở nhỏ đã tỏ ra có tính rất hay tranh luận đôi co,
và có thể lý luận mọi sự một cách rất hùng hồn và xác đáng. Nguyên nhân là
trong một kiếp trước, y đã từng làm một luật gia và một luật gia và một kiếp
trước nữa, y đã làm quan Tòa ở xứ Ba Tư.
Một người đàn bà nọ có khuynh hướng trầm lặng và thần bí. Trong kiếp
trước, bà ấy đã từng cầm đầu một tu viện kín, vào hồi đầu thế kỷ mười chín.
Một thanh niên nọ con nhà giàu có lớn, nhưng lại có tật chè chén say
sưa quá độ đến nỗi gây sự thất vọng và đau khổ cho một gia đình trưởng giả.
Thói say sưa này được truy nguyên ra do sự chơi bời phóng túng trong kiếp
trước, hồi thời kỳ thiên hạ đổ xô nhau đi tìm vàng ở California. Người ta thấy
hằng trăm trường hợp tương tự trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce.
Khoa tâm lý học hiện đại cho rằng sự khác biệt giữa những người nhân
loại được định đoạt trước hết bởi sự di truyền của cha mẹ và sau đó bởi ảnh
hưởng của hoàn cảnh chung quanh. Tuy nhiên, theo quan niệm về thuyết Luân Hồi
thì chính sự di truyền và ảnh hưởng của hoàn cảnh cũng là những kết quả báo ứng
của những nguyên nhân gây ra từ những kiếp trước, và bởi đó mọi đức tánh của
linh hồn đều là do cái công phu đào tạo của từng cá nhân chứ không phải do cha
mẹ truyền lại.
Đức Phật có nói: "Hành động là kết quả của tư tưởng." Những
gì mà chúng ta làm hiện nay là kết quả của những điều ta đã suy ngẫm từ trước.
Trong Phật giáo, thuyết Luân Hồi là một giáo lý căn bản; đức Phật dạy rằng
những đức tính của con người bây giờ là kết quả của những tư tưởng và hành động
của y trong những kiếp trước.
Có nhiều người, tuy chấp nhận Nhân Quả, nhưng lại quan niệm luật ấy
dưới khía cạnh trừng phạt và đau khổ. Ta nên nhớ rằng danh từ Karma chỉ có
nghĩa là hành động, và đó là một danh từ trung lập. Mọi sự vật trong vũ trụ đều
có hai phương diện m và Dương, và Nghiệp Quả (Karma) cũng không ngoài cái thông
lệ đó. Lẽ tất nhiên, một hành động có thể tốt hay xấu, vị kỷ hay vị thạ Nếu
cách hành động cư xử của một người là tốt, thì không có gì ngăn trở y cứ tiếp
tục làm những điều phải và tốt lành do cái đà tiến hóa tự nhiên của con người.
Điều đó có thể gọi là Nguyên Tắc Liên Tục của nghiệp quả. Trái lại, nếu một
người có những hành động xấu xa hung dữ độc ác, thì nghiệp quả đó phải được sửa
chữa bằng luật Quả Báo; điều này gọi là Nguyên Tắc Thừa Trừ.
Do Nguyên Tắc Thừa Trừ, tức là do bởi mãnh lực tạo thế quân bình của
Luật Nhân Quả, chúng ta được dìu dắt trở lại con đường chính, là con đường tự
tu tiến và cải thiện lấy mình. Còn do Nguyên Tắc Liên Tục, chúng ta cứ từ từ
tiến bước một cách đều đặn, không gián đoạn trên con đường chính, tức là con
đường Tiến hóa đưa đến mục đích giải thoát vậy.