Hỏa ngục - Chương 075 + 076

Chương 75

“Em nghĩ anh ta bị đau tim!”,
Sienna kêu to.

Langdon chạy vội lại chỗ bác
sĩ Ferris nằm co quắp trên sàn nhà. Ông ta đang há hốc miệng, không sao thở
được.

“Có chuyện gì xảy ra với anh
ta?!” Với Langdon, mọi thứ diễn ra đột ngột chỉ trong khoảng khắc. Trước cảnh
đám lính ấy ập tới dưới nhà và Ferris nằm vật trên sàn, Langdon nhất thời cảm
thấy tê liệt, không dám chắc nên xoay về hướng nào.

Sienna quỳ xuống bên cạnh
Ferris và nới lỏng cà vạt, giật tung vài cúc áo sơ mi phía trên để giúp ông ta
thở. Nhưng khi áo sơ của Ferris bung ra, Sienna bật ngược lại và hét lên một
tiếng hoảng hốt, đưa tay che miệng trong lúc loạng choạng lùi lại, mắt đăm đăm
nhìn khoảng ngực trần của ông ta.

Langdon cũng đã nhìn thấy.

Phần da trên ngực Ferris biến
màu rất rõ. Một vết bầm xanh đen trông rất đáng ngại có chu vi bằng một quả
bưởi đang loang ra chỗ xương ức. Ferris trông như thể bị cả một quả đạn đại bác
bắn trúng ngực.

“Bị chảy máu trong”, Sienna
nói, ngước lên nhìn Langdon vẻ choáng váng. “Thảo nào anh ta cứ khó thở suốt cả
ngày.”

Ferris ngó ngoáy đầu, rõ ràng
đang cố gắng nói, nhưng ông ta chỉ có thể phát ra những tiếng khò khè yếu ớt.
Du khách bắt đầu tụm lại xung quanh, và Langdon cảm thấy tình hình sắp trở nên
hốn loạn.

“Đám lính ở dưới nhà”,
Langdon cảnh báo Sienna. “Anh không biết làm sao họ tìm ra chúng ta.”

Vẻ ngạc nhiên và sợ hãi trên
mặt Sienna nhanh chóng chuyển thành giận dữ, và cô trừng mắt xuống Ferris. “Anh
đã nói dối chúng tôi có phải không?”

Ferris lại cố gắng nói, nhưng
không thể phát ra tiếng. Sienna thò tay lục tìm các túi Ferris và móc ví cùng
điện thoại của ông ta rồi đút gọn vào túi mình, trừng mắt đứng nhìn ông ta như
buộc tội.

Đúng lúc đó, một phụ nữ Ý có
tuổi lách qua đám đông, quát to đầy giận giữ với Sienna. “Ấn vào ngực anh ta!”
Bà ấy dùng nắm tay ấn mạnh vào ngực mình.

“Không!”, Sienna quát lại.
“Làm hô hấp nhân tạo sẽ khiến anh ta tử vong! Nhìn ngực anh ta xem!” Cô quay
lại phía Langdon. “Robert, chúng ta cần thoát ra khỏi đây. Ngay bây giờ.”

Langdon cúi nhìn Ferris, lúc
này đang nhìn anh một cách tuyệt vọng, như thể muốn nói gì đó.

“Chúng ta không thể bỏ anh ta
lại!”, Langdon nói.

“Tin em đi”, Sienna nói. “Đấy không phải là trụy tim. Và chúng ta phải đi
thôi. Ngay bây giờ.”

Khi đám đông tụm lại gần, du khách bắt đầu kêu cứu. Sienna nắm lấy tay
Langdon bằng một sức mạnh đáng ngạc nhiên và kéo anh ra khỏi đám hỗn loạn, lách
ra khu vực thoáng khí ngoài ban công.

Langdon bị lóa mắt mất một lúc. Mặt trời đang xuống thấp ở đầu phía tây của
Quảng trường St. Mark khiến toàn bộ ban công như tắm trong ánh nắng vàng rực.
Sienna dẫn Langdon đi về mé bên trái, dọc theo sân thượng tầng hai, len lỏi qua
những khách du lịch đang ra ngoài này để chiêm ngưỡng quảng trường và bản sao
Đàn ngựa nhà thờ St. Mark.

Khi họ chạy dọc mặt tiền của thánh đường, một vùng đầm nước chợt xuất hiện
ngay trước mặt. Ngoài biển kia, một hình ảnh lạ lùng khiến Langdon chú ý –
chiếc thuyền siêu hiện đại trông như một dạng tàu chiến thời tương lai nào đó.

Langdon chưa kịp đổi ý thì Sienna và anh lại ngoặt sang trái, theo ban công
vòng tới góc tây nam của thánh đường về phía “Khuôn cửa giấy” – phần chái nối
thánh đường với Dinh Tổng trấn – được đặt tên như vậy vì các vị tổng trấn
thường dán các sắc lệnh ở đó cho công chúng đọc.

Không phải là trụy tim sao? Hình ảnh phần ngực xanh đen của Ferris bám chặt
lấy tâm trí Langdon, và anh đột nhiên cảm thấy sợ hãi trước chẩn đoán của
Sienna về tình trạng bệnh lý thật của người đàn ông kia. Hơn nữa, dường như có
gì đó đã thay đổi, và Sienna không còn tin tưởng Ferris nữa. Phải chăng đó là
lý do cô ấy cố ra hiệu bằng mắt cho mình lúc trước?

Sienna đột nhiên dừng sững lại và nhoài người ra phía ngoài lan can, ngó
xuống một góc hiên của Quảng trường St. Mark tít phía dưới.

“Khốn kiếp”, cô nói. “Chúng ta ở cao hơn em nghĩ”

Langdon sững nhìn cô. Em đang nghĩ đến việc nhảy xuống ư?!

Trông Sienna rất hoảng sợ.
“Chúng ta không thể để họ bắt được, Robert.”

Langdon xoay lại phái thánh
đường, đưa mắt nhìn cánh cửa nặng nề bằng sắt đúc và kính ngay phía sau họ. Rất
nhiều du khách đang ra ra vào vào và nếu ước tính của Langdon đúng, thì qua
được cánh cửa đó là họ sẽ vào trong bảo tàng gần phía sau nhà thờ.

“Họ sẽ bít kín mọi lối ra”,
Sienna nói.

Langdon suy ngẫm mọi khả năng
thoát thân của họ và đi đến một lựa chọn duy nhất. “Anh nghĩ anh đã nhìn thấy
thứ bên trong kia có thể giải quyết được vấn đề.”

Không do dự trước những gì
mình đang suy tính, Langdon dẫn Sienna quay vào trong thánh đường. Họ đi men
theo vòng ngoài của bảo tàng, cố gắng lẫn vào đám đông để không bị quá chú ý,
nhiều người trong đám đông đang nhìn chếch qua không gian rộng của gian trung
tâm giáo đường về phía đám đông nhốn nháo quanh Ferris. Langdon chú ý đến người
phụ nữ đứng tuổi ý đầy cáu giận đang hướng dẫn hai người lính mặc áo đen chạy
ra ban công, chỉ cho họ lối thoát thân của Langdon và Sienna.

Chúng ta phải nhanh lên, Langdon
nghĩ, nhìn lướt các bức tường và cuối cùng nhận ra thứ anh đang tìm kiếm ở gần
một tấm thảm cỡ lớn.

Thiết bị ở trên tường có màu
vàng tươi với một tấm biển cảnh báo màu đỏ: ALLARME ANTINCENDIO (49).

(49) Báo cháy.

“Báo cháy à””, Sienna nói. “Kế hoạch của anh như vậy
à?”

“Chúng ta có thể lẻn ra cùng với đám đông.” Langdon tiến lại và nắm lấy cần
báo động. Rồi chẳng ích gì đâu. Trước khi có thể suy nghĩ kỹ lại, anh khẩn
trương kéo mạnh xuống, thấy cơ cấu này dễ dàng làm vỡ tan cái trụ thủy tinh nhỏ
bên trong.

Không hề có tiếng còi và tình trạng huyên náo mà Langdon mong đợi.

Chỉ thấy im lặng.

Anh kéo lần nữa.

Chẳng có gì cả.

Sienna trợn mắt nhìn anh như thể anh đã hóa dại. “Robert, chúng ta đang ở
trong một nhà thờ đá toàn khách du lịch! Anh nghĩ những thiết bị báo cháy công
cộng này vẫn hoạt động khi vài kẻ tinh nghịch có thể…”

“Dĩ nhiên! Luật phòng cháy ở Hoa Kỳ…”

“Anh đang ở châu Âu. Ở đây bọn em không có nhiều luật sư như hoa Kỳ.” Cô
chỉ qua vai Langdon. “Và chúng ta cũng không còn thời gian đâu.”

Langdon ngoảnh về phía cánh cửa kính nơi họ vừa bước vào và nhìn thấy hai
người lính đang hối hả chạy vào từ phái ngoài ban công, cặp mắt quét qua toàn
bộ khu vực. Langdon nhận ra một người chính là gã đặc vụ cơ bắt đã nổ súng vào
họ trên chiếc xe Trike khi họ chạy trốn khỏi căn hộ của Sienna.

Không có nhiều lựa chọn, Langdon và Sienna cố gắng né khỏi tầm mắt của họ,
lẩn nhanh vào hốc cầu thang xoắn ốc kín đáo dẫn xuống tầng trệt. Khi bên kia
điện thờ có vài người lính đứng canh các lối ra, chăm chú quan sát khắp phòng.

“Nếu chúng ta bước ra khỏi cầu thang này, họ sẽ nhìn thấy ngay”, Langdon
nói.

“Cầu thang vẫn chạy xuống phía dưới nữa”, Sienna thì thào, ra hiệu về phía
một băng vải đề ACCESSO VIETATO (50) quây lấy những bậc thang phía dưới họ.
Phía sau băng vải, các bậc thang chạy xoắn ốc hẹp hơn nữa xuống một vùng tối
như hũ nút.

(50) Cấm vào.

Không phải là một ý hay, Langdon nghĩ. Hầm mộ dưới lòng đất sẽ không có lối
thoát.

Sienna đã bước qua băng vải và dò dẫm đường xuống đường hầm xoắn ốc, biến
mất hút trong khoảng tối.

“Cửa mở”,Sienna tự thì thào từ phía dưới.

Langdon không hề tỏ ra ngạc nhiên. Hầm
mộ của nhà thờ st. Mark khác với nhiều địa điểm khác ở chỗ nó cũng là một nhà
nguyện, nơi thường xuyên có các buổi hành lễ trước hài cốt của Thánh Mark.

“Em nghĩ em thấy có ánh sáng
tự nhiên”, Sienna nói khẽ.

Làm gì có chuyện như thế
được? Langdon cố nhớ lại những lần tham quan trước đây tới không gian dưới lòng
đất linh thiêng này và đoán rằng có lẽ Sienna vừa nhìn thấy ánh sáng vĩnh cửu –
một ngọn đèn điện vẫn còn thắp sáng trên mộ Thánh Mark ở chính giữa hầm mộ. Mặc
dù vậy, những bước chân đang đến gần ở phía trên khiến Langdon không còn nhiều
thời gian để ngẫm nghĩ. Anh nhanh chóng bước qua băng vải, cẩn thận không làm
nó đung đưa, và sau đó đặt tay lên tường đá gồ ghề, lần tìm đường đi qua đoạn
cua và biến mất hút.

Sienna đang đợi anh ở dưới
chân cầu thang. Phía sau cô, hầm mộ tối mù như bưng lấy mắt. Đó là một gian
phòng dưới lòng đất với phần trần đá thấp đến đáng sợ được gỡ bằng những cây
cột xưa cũ và những lối đi có mái vòm bằng gạch. Trọng lượng của toàn bộ thánh
đường chỉ nằm trên những cây cột này, Langdon thầm nghĩ, bắt đầu cảm thấy sợ
không gian chật hẹp ở đây.

“Em đã nói với anh rồi đấy”,
Sienna thì thào, khuôn mặt xinh đẹp của cô hơi sáng nhờ chút ánh sáng le lói.
Cô chỉ về mấy ô cửa sổ con hình vòm cung nho nhỏ ở tít cao trên tường.

Giếng lấy sáng, Langdon nhận
ra ngay, dù anh đã quên mất sự hiện diện của chúng ở đây. Những giếng này –
được thiết kế để lấy ánh sáng và không khí vào trong hầm mộ tù túng – được mở
thành những đường ống sau hút chạy suốt từ Quảng trường St. Mark phía trên
xuống. Kính cửa sổ được gia cố bằng một hệ thống hoa sắt ken dày gồm mười lăm
vòng tròn lồng vào nhau, và mặc dù Langdon ngờ rằng chúng có thể mở ra được từ
bên trong nhưng chúng đều cao đến ngang vai và rất khít khao. Thậm chí nếu bằng
cách nào đó họ thoát qua được cửa sổ để lọt vào giếng thì việc trèo lên khỏi
giếng vẫn là bất khả thi, vì chúng sâu đến hơn ba mét và đươc phủ những lưới
sắt an ninh to nặng ở trên đỉnh.

Trong thứ ánh sáng lờ mờ lọt
qua giếng, hầm mộ nhà thờ St. Mark giống như một khu rừng dưới ánh trăng – một
khoảng rừng dày đặc những cột trụ giống như những thân cây đổ bóng dài và nặng
nề xuống nền đất. Langdon đưa mắt về phía trung tâm hầm mộ, nơi một bóng đèn
duy nhất cháy sáng chỗ mộ Thánh Mark. Vị thánh trùng tên với nhà thờ yên nghỉ
trong quách đá phía sau một bàn thờ, còn đằng trước là những hàng ghế dài cho
số ít người may mắn được mời xuống hành lễ tại đây – trung tâm của cộng đồng
Thiên Chúa giáo Venice.

Một đốm sáng nhỏ xíu bất chợt
nhấp nháy sáng lên bên cạnh Langdon, anh ngoảnh nhìn thấy Sienna đang giơ lên
chiếc điện thoại sáng đèn của Ferris.

Langdon ngạc nhiên, “Anh nghĩ
Ferris nói điện thoại của anh ta hết pin rồi cơ mà.”

“Anh ta nói dối”, Sienna nói,
vẫn bấm lia lịa. “Về rất nhiều chuyện.” Cô cau mày trước cái điện thoại và lắc
đầu. “Không có tín hiệu. Em nghĩ có lẽ em có thể tìm được vị trí mộ của Enrico
Dandolo.” Cô đi vội tới giếng trên đầu cho gần tấm kính, cố gắng bắt sóng tín
hiệu.

Enrico Dandolo, Langdon thầm
nghĩ, vẫn chưa có cơ hội ngẫm nghĩ về vị tổng trấn này trước lúc phải tháo
chạy. Bất chấp tình thế khó xử hiện tại của họ, trên thực tế việc họ tới nhà
thờ St. Mark vẫn đạt được mục đích – hé lộ nhân dạng của vị tổng trấn bội bạc
đã chặt đứt đầu ngựa, và moi xương người mù lòa.

Thật không may, Langdon lại
không biết mộ của Enrico Dandolo nằm ở đâu, và rõ ràng Ettore Vio cũng vậy. Anh
ấy biết từng li từng tí về nhà thờ này…có khi cả Dinh Tổng trấn nữa. Việc
Ettore không lập tức chỉ địa điểm mộ của Dandolo cho Langdon thấy rằng ngôi mộ
này có lẽ chẳng nằm ở đâu gần nhà thờ St. Mark hoặc Dinh Tổng trấn.

Vậy nó ở đâu?

Langdon liếc nhìn Sienna, lúc
này đang đứng trên một ghế băng cô vừa đặt xuống bên dưới một giếng lấy sáng.
Cô mở chốt cửa sổ, đẩy nó mở bung ra, và giơ chiếc điện thoại của Ferris vào
lòng giếng.

Những âm thanh bên ngoài
Quảng trường St. Mark lọt xuống từ phía trên, và Langdon đột nhiên tự hỏi liệu
có thể có cách nào đó thoát ra khỏi đây không. Có một dãy ghế gấp phía sau
những ghế băng, và Langdon cảm thấy anh có thể nhấc bổng một chiếc đưa vào
giếng lấy sáng. Có khi những lưới sắt phía trên cũng được mở từ bên trong?

Langdon vội băng qua bóng tới
tới chỗ Sienna. Anh chỉ mới bước vài bước thì một cú táng rất mạnh vào trán
khiến anh bật ngược trở lại. Khi khụy gối xuống, ngay lập tức anh nghĩ mình vừa
bị tấn công. Nhưng anh nhanh chóng nhận ra không phải, nên đành thầm rủa chính
mình đã không phán đoán được rằng thân hình cao hơn một mét tám của mình thật
quá khổ so với chiều cao của mái vòm được xây cho người có tầm vóc trung bình
từ hơn một nghìn năm trước.

Trong lúc vẫn quỳ trên nền đá
cứng và chờ cho đom đóm mắt dịu lại, anh nhận ra mắt mình đang nhìn xuống một dòng
chữ khắc trên nền hầm.

Sanctus Marcus.

Anh nhìn sững một lúc lâu.
Không phải tên của Thánh Mark khắc ở đó khiến anh chú ý mà là thứ ngôn ngữ được
dùng để viết cái tên đó.

Tiếng Latin.

Sau cả ngày trời đắm mình
trong tiếng Ý hiện đại, Langdon cảm thấy hơi mất phương hướng khi thấy tên
Thánh Mark được viết bằng tiếng Latin, một chi tiết gợi nhớ nhanh rằng thứ từ
ngữ này là ngôn ngữ chung của đế chế La Mã khi Thánh Mark qua đời.

Rồi một ý nghĩ nữa vụt đến
với Langdon.

Giai đoạn đầu thế kỷ XIII –
thời kỳ của Enrico Dandolo và cuộc Thập tự chinh thứ tư – ngôn ngữ của giới cầm
quyền vẫn chủ yếu là tiếng Latin. Một tổng trấn Venice đã đem vinh quang to lớn
cho đế chế La Mã bằng việc tái chiếm Constantinople sẽ không bao giờ được chôn
cất với cái tên Enrico Dandolo, thay vào đó sẽ là cái tên bằng tiếng Latin của
ông ta.

Henricus Dandolo.

Nghĩ đến đó, một hình ảnh đã
bị lãng quên từ lâu vụt đến với Langdon như điện giật. Mặc dù nhận ra mình điều
này khi đang quỳ trong một nhà nguyện nhưng anh biết rằng đó không phải là phép
màu. Đúng hơn, một manh mối thị giác đã làm lóe lên trong tâm trí anh một mối
liên hệ bất ngờ. Hình ảnh đột ngột nảy ra từ sâu thẳm trí nhớ của Langdon chính
là tên gọi Latin của Dandolo, được khắc trên một phiến đá hoa cương đã mòn, gắn
trên một nền gạch trang trí.

Henricus Dandolo.

Langdon thở một cách khó nhọc
khi nghĩ đến tấm bia mộ lẻ loi của vị tổng trấn. Mình đã từng đến đó. Đúng y
như bài thơ đã nói, Enrico Dandolo thực tế được chôn trong một bảo tàng mạ vàng
– một bảo quản của tri thức thánh thiêng – nhưng không phải là Thánh đường St.
Mark.

Khi chân lý đã xuất hiện,
Langdon chậm rãi đứng lên.

“Em không tài nào bắt được
tín hiệu”, Sienna nói, từ giếng lấy sáng trèo xuống và tiến lại phía anh.

“Em không cần làm thế nữa.”,
Langdon nói. “Bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng…” Anh hít một hơi thật
sâu. “Anh…đã nhầm lẫn.”

Sienna tái nhợt. “Đùng có nói
là chúng ta đến nhầm bảo tàng nhé!”

“Sienna”, Langdon thì thầm,
cảm thấy mệt rũ.” Chúng ta ở nhầm quốc gia rồi.”

Chương 76

Bên ngoài Quảng trường St.
Mark, người phụ nữ Gypsy bán những chiếc mặt nạ Venice đang dựa vào bức tường
ngoài của thánh đường để nghỉ ngơi. Như mọi khi, bà tìm đến chỗ ưu thích của
mình – hốc tường nhỏ giữa hai tấm lưới kim loại trên vỉa hè – một chỗ lý tưởng
đẻ đặt số hàng nặng trịch và ngắm mặt trời lặn.

Bà đã chứng kiến nhiều chuyện
trên Quảng trường St. Mark trong bấy nhiêu năm, nhưng cái sự kiện quái lạ khiến
bà chú ý lúc này không phải diễn ra trên quảng trường, mà ở bên dưới. Giật mình
vì một tiếng động lớn dưới chân, người phụ nữ ngó qua tấm lưới nhìn xuống một
cái giếng hẹp, có lẽ sâu tới ba mét. Ô cửa sổ dưới đáy mở toang và một chiếc
ghế gấp được đẩy lên từ đấy giếng, cào cào vào vỉa hè.

Trước vẻ ngạc nhiên của người
phụ nữ Gypsy, theo sau chiếc ghế là một cô gái xinh đẹp có mái tóc đuôi ngựa
vàng óng, rõ ràng được đun lên từ phía dưới và giờ đang leo qua cửa sổ chui vào
lỗ hổng nhỏ hẹp.

Cô gái tóc vàng lách người
đứng dậy và lập tức ngước nhìn lên, giật bắn mình khi thấy bà Gypsy đang đăm
đăm nhìn xuống qua tấm lưới. Cô gái tóc vàng đưa một ngón tay lên môi và cố mỉm
cười. Sau đó cô ta mở ghế và trèo lên, vươn tay về phía lưới sắt.

Cô thấp quá, bà Gypsy nghĩ
bụng. Mà cô làm cái gì vậy?

Cô gái tóc vàng tụt khỏi ghế
và nói với ai đó bên trong. Mặc dù không có nhiều chỗ để đứng trong lòng giếng
chật hẹp bên cạnh cái ghế, nhưng lúc này cô vẫn bước sang bên khi có người thứ
hai – một người đàn ông tóc đen cao lớn mặc bộ đồ bảnh bao – tự mình chui lên
khỏi tầng hầm thánh đường và lách vào đường ống chật chội.

Anh ta cũng ngước lên, nhìn
thẳng vào bà Gypsy qua tấm lưới sắt. Sau đó, anh ta đổi chỗ cho cô gái tóc vàng
và trèo lên chiếc ghế yếu ớt. Anh ta cao hơn, và khi vươn người, anh ta có thể
tháo được cái then an ninh bên dưới tấm lưới sắt. Anh ta đứng kiễng trên mấy đầu
ngón chân, đặt tay lên tấm lưới và đẩy lên trên. Tấm lưới nhấc lên một phân rồi
anh ta lại phải đặt nó xuống.

“Giúp chúng tôi một tay được
không?”, cô gái tóc vàng gọi với lên chỗ bà Gypsy.

Giúp các người một tay à? Bà
Gypsy tự hỏi, không hề có ý định can thiệp. Các người đang làm gì nào?

Cô gái tóc vàng móc ra một
chiếc ví đàn ông và rút tờ 100 euro, vẫy vẫy như một lời đề nghị. Tờ tiền còn
nhiều hơn bà Gypsy kiếm được với những chiếc mặt nạ trong cả ba ngày trời.
Không lạ gì chuyện mặc cả, bà bán mặt nạ lắc đầu và giơ ra hai ngón tay. Người
phụ nữ tóc vàng rút ra một tờ tiền nữa.

Không tin nổi vận may của
mình, bà Gypsy nhún vai đồng ý vẻ miễn cưỡng, cố gắng tỏ ra dửng dưng trong lúc
nhoài xuống và kéo những thanh sắt, nhìn vào mắt người đàn ông để họ có thể hợp
lực cho ăn khớp.

Khi người đàn ông đẩy thanh
sắt một lần nữa, bà Gypsy kéo mạnh chúng lên bằng đôi tay đã được rèn luyện
suốt nhiều năm mang vác hàng, và tấm lưới sắt bung lên nửa chừng. Đúng lúc bà
nghĩ họ đã làm được thì có tiếng loảng xoảng rất to bên dưới, và người đàn ông
biến mất, rơi tuột xuống giếng khi chiếc ghế gấp gẫy sập dưới chân anh ta.

Ngay lập tức tấm lưới sắt trở
nên nặng trĩu trong tay bà, và bà nghĩ mình sẽ phải bỏ nó xuống, nhưng lời hứa
200 euro như tiếp thêm sức mạnh, vậy là bà cố kéo tấm lưới lên và vứt vào bên
hông thánh đường, khiến nó vang lên một tiếng rất lớn.

Thở không ra hơi, bà Gypsy
ngó xuống giếng chỗ hai con người đang xoắn lấy nhau và cái ghế gãy gập. Khi
người đàn ông đứng dậy và phủi bụi trên người, bà Gypsy bèn cúi xuống giếng và
chìa tay ra để nhận tiền.

Người phụ nữ tóc đuôi ngựa
gật đầu biết ơn và giơ hai tờ giấy bạc lên quá đàu. Bà Gypsy cúi xuống nhưng
vẫn còn quá xa.

Đưa tiền cho người đàn ông.

Đột nhiên trong giếng có sự
náo loạn – những giọng nói giận dữ vang ầm ầm bên trong thánh đường. Người đàn
ông và người phụ nữ đều hoảng hốt, bật ngược lại từ cửa sổ.

Rồi mọi thứ trở nên hỗ loạn.

Người đàn ông tóc sậm màu cúi
khom xuống và ra lệnh cho cô gái đặt chân lên những ngón tay khum lại thành một
bàn đạp. Cô bước lên, và anh ta đẩy mạnh lên. Cô vọt lên thành giếng, răng cắn
chặt mất tờ tiền để giải phóng hai tay trong lúc vươn người cố bám lấy mép.
Người đàn ông đẩy lên, cao hơn… cao hơn nữa… nâng cô cho tới khi cô bám được
hai tay vào mép giếng.

Lấy hết sức, cô gái đun mình
lên hẳn quảng trường giống như một người phụ nữ leo khỏi bể bơi. Cô ta dúi tiền
vào tay bà Gyspy và lập tức xoay người, quỳ bên mép giếng, cúi xuống đón người
đàn ông.

Đã quá muộn.

Những cánh tay rắn rỏi trong
trang phục đen đang với vào giếng như những xúc tu quăng quật của một con quái
vật đói mồi, tóm lấy chân người đàn ông, kéo anh ta về phía cửa sổ.

“Chạy đi, Sienna!”, người đàn
ông vùng vẫy kêu to. “Chạy ngay đi!”.

Bà Gypsy nhìn thấy mắt họ
nhìn nhay đầy đau đớn tiếc nuối và mọi việc kết thúc.

Người đàn ông bị kéo tuột
xuống qua ô cửa sổ vào lại thánh đường.

Người phụ nữ tóc vàng trân
tối nhìn xuống, mắt cô ầng ậng nước. “Em xin lỗi, Robert”, cô ấy khẽ nõi. Thế
rồi, sau một lúc sững lại, cô ấy nói thêm. “Vì tất cả.”

Một khắc sau, cô bò dậy, mái
tóc đuôi ngựa vùng vẩy khi cô lao nhanh vào ngõ hẹp Merciaria dell’Orologio,
mất hút vào trung tâm Venice.

Báo cáo nội dung xấu