Hỏa ngục - Chương 036 + 037 + 038
Chương 36
Chỉ có thể nắm bắt được chân
lý qua cặp mắt chết chóc.
Sienna lặp lại những từ này
trong lúc tiếp tục xem xét từng phân một trong quang cảnh chiến trận dữ dội của
Vasari, hy vọng có thể thấy chi tiết gì đó nổi bật.
Cô nhìn thấy những đôi mắt
chết chóc ở khắp mọi nơi.
Bọn mình đang tìm kiếm cặp
mắt nào đây?
Cô tự hỏi liệu cặp mắt chết chóc
có ám chỉ tới những xác chết thối rữa rải rác khắp châu Âu do dịch hạch không.
Ít nhất điều đó cũng giải
thích cho cái mặt nạ dịch hạch…
Bất ngờ, một bài đồng dao trẻ
con nảy ra trong tâm trí Sienna: Cổ đeo chuỗi hồng hoa. Túi đầy cỏ với hoa. Hóa
thành đám tro tàn. Tất cả đều ra ma.
Cô thường hát bài đồng dao
này khi còn là một nữ sinh ở Anh cho tới khi nghe nói bài đồng dao xuất xứ từ
trận dịch hạch ở London năm 1665. Người ta cho rằng, chuỗi hồng hoa là nói đến
những cục hạch sưng tấy có quầng đỏ trên da phát triển thành chuỗi và là dấu
hiệu cho thấy một người đã bị nhiễm bệnh. Người bệnh thường mang theo trong túi
áo đầy các loại thảo dược hoặc hoa với hy vọng được bảo vệ trước mùi cơ thể
đang bị hủy hoại của chính họ cũng như mùi hôi thối của cả thành phố, nơi hàng
trăm nạn nhân dịch hạch bỏ mạng mỗi ngày, và xác họ được hỏa thiêu sau đó. Hóa
thành đám tro tàn (19). Tất cả đều ra ma.
(19) Nguyên tác là “Ashes, ashes”, vừa mang nghĩa là
“tro tàn” sau khi người bệnh bị hỏa thiêu, nhưng cũng đồng âm với “Hắt xì” là
dấu hiệu của hiện tượng chớm bệnh.
“Ơn chúa”, Langdon đột ngột
buột miệng, xoay người về phía bức tường đối diện.
Sienna tò mò. “Có gì không ổn à?”
“Đó là tên một tác phẩm nghệ thuật từng được trưng bày ở đây. Ơn chúa.”
Bối rối, Sienna nhìn Langdon vội vã băng ngang phòng về phía một cánh cửa
kính nhỏ và cố gắng mở ra. Cửa đã bị khóa. Anh áp mặt vào kính, khum hai bàn
tay quanh mắt và nhìn vào bên trong.
Dù Langdon đang cố tìm kiếm cái gì, Sienna cũng hy vọng anh tìm thấy thật
nhanh. Ông bảo vệ vừa xuất hiện lần nữa, lần này mang vẻ mặt nghi ngờ rất rõ
ràng khi nhìn thấy Langdon đi tới săm soi một cánh cửa khóa kỹ.
Sienna rối rít vẫy tay với ông bảo vệ, nhưng ông ta lạnh lùng nhìn cô một
lúc lâu và đi mất.
Lo Studiolo.
Nằm phía sau cánh cửa kính, ngay đối diện mấy từ cerca trova được giấu kỹ
trong Sảnh Năm trăm, là một gian nhỏ xíu không có cửa sổ. Được Vasari thiết kế
như một phòng làm việc bí mật cho Công tước Francesco I, gian Studiolo vuông
vức có trần uốn thành vòm tròn như hầm rượu, khiến cho người ở bên trong có cảm
giác như đang ở trong một hòm châu báu cỡ lớn.
Rất phù hợp là nội thất gian phòng cũng lấp lánh những món đồ đầy thẩm mỹ.
Hơn ba mươi bức tranh hiếm có trang hoàng cho những bức tường và trần nhà, được
treo sát nhau đến mức không còn không gian trống nào trên tường. Cú ngã của
Icarus… Phúng dụ đời người… Mẹ Thiên nhiên tặng Prometheus bảo ngọc…
Lúc nhìn qua lớp kính vào không gian rực rỡ phía sau, Langdon thì thào với
chính mình “Cặp mắt chết chóc”.
Lần đầu tiên Langdon ở bên trong Lo Studiolo là cách đây vài năm, trong một
chuyến tham quan riêng theo các lối đi bí mật của cung điện. Anh đã sững sờ khi
biết có vô số cánh cửa, cầu thang và lối đi bí mật trong cung điện, chẳng khác
gì tổ ong, kể cả một vài hạng mục được giấu kín phía sau những bức vẽ bên trong
Lo Studiolo.
Tuy nhiên, các lối đi bí mật không phải là thứ khiến Langdon quan tâm. Thay
vào đó, anh chú ý đến một tác phẩm nghệ thuật hiện đại rất táo bạo được trưng
bày ở đây – Ơn Chúa – một tác phẩm gây tranh cãi của Damien Hirst, từng gây
sóng gió khi xuất hiện bên trong Studiolo lừng danh của Vasari.
Một cái khuôn đầu lâu kích thước thật bằng platinum đặc, bề mặt phủ kín hơn
tám nghìn viên kim cương nạm sáng lấp lánh hiện ra. Hiệu ứng vô cùng ấn tượng.
Hai hốc mắt trống rỗng của cái sọ lấp loáng ánh sáng và đầy sức sống, tạo ra
một cặp biểu tượng đối lập nhau – sự sống và cái chết, vẻ đẹp và sự hãi hùng.
Mặc dù cái sọ kim cương của Hirst đã bị chuyển khỏi Lo Studiolo từ lâu nhưng ký
ức về nó đã làm Langdon nảy ra một ý tưởng.
Cặp mắt chết chóc, anh nghĩ bụng. Một cái đầu lâu là chuẩn xác, phải không
nhỉ?
Đầu lâu là một chủ đề thường xuyên xuất hiện trong Hỏa Ngục của Dante, nổi
tiếng nhất là hình phạt tàn khốc đối với Bá tước Ugolino ở tầng địa ngục thấp
nhất – ông ta bị kết án phải mãi mãi gặm đầu lâu của một vị tổng giám mục xấu
xa.
Phải chăng bọn mình đang tìm một cái đầu lâu?
Langdon biết rõ, gian Studiolo bí ẩn được xây dựng theo kiểu “tủ bách khoa
toàn thư” truyền thống. Gần như tất cả bức vẽ của gian phòng đều lắp bản lề bí
mật, có thể xoay thành những hộc tủ, nơi công tước cất giữ những món đồ lạ lùng
mà ông quan tâm – các mẫu khoáng vật hiếm hoi, những sợi lông vũ đẹp mắt, một
hóa thạch vỏ ốc anh vũ hoàn hảo, và thậm chí người ta còn cho rằng có cả xương
ống chân của một nhà sư được trang trí bằng bạc.
Rất tiếc, Langdon ngờ rằng tất cả món đồ trong các hộc tủ đều đã được dọn
đi từ lâu, và anh chưa từng nghe nói có bất kỳ hộp sọ nào được trưng bày ở đây,
trừ tác phẩm của Hirst.
Suy nghĩ của anh bị đứt quãng bởi tiếng cửa đóng mạnh ở đầu sảnh bên kia.
Những tiếng bước chân vội vã băng qua sảnh tiến lại rất nhanh.
“Thưa ông!”, một giọng nói giận dữ quát lên. “Sảnh này không mở cửa!”
Langdon quay lại nhìn thấy một nữ nhân viên đang tiến về phía mình. Cô ấy
nhỏ, với mái tóc nâu cắt ngắn. Cô ấy đang mang bầu rất lớn. Người phụ nữ hối hả
tiến lại phía họ, tay chỉ vào đồng hồ và lớn tiếng gì đó về việc khu vực này
chưa mở cửa. Lúc tiến lại gần hơn, cô bắt gặp ánh mắt Langdon và lập tức dừng
sững lại, sửng sốt đưa tay che miệng.
“Giáo sư Langdon!”, cô ấy kêu lên, vẻ bối rối. “Tôi xin lỗi! Tôi không biết
anh ở đây. Chào mừng anh trở lại!”
Langdon cứng đờ người.
Anh tin chắc mình chưa bao giờ gặp người phụ nữ này trước đó.
Chương 37
“Tôi suýt nữa không nhận ra anh, thưa giáo sư!”, người phụ nữ nói bằng thứ
tiếng Anh nằng nặng trong lúc tiến lại gần Langdon. “May nhờ trang phục của
anh.” Cô mỉm cười trìu mến và gật đầu tán thưởng bộ cánh Brioni của Langdon.
“Rất thời trang. Trông anh chẳng khác gì người Ý.”
Miệng Langdon khô khốc, nhưng anh cố nở một nụ cười nhã nhặn lúc người phụ
nữ đến bên anh. “Xin… chào chị!”, anh ấp úng. “Chị khỏe không?”
Cô ấy bật cười, tay ôm lấy bụng. “Kiệt sức mất rồi. Con bé Catalina đêm nào
cũng quẫy đạp.” Người phụ nữ nhìn quanh phòng, vẻ ngơ ngác. “Ngài Tiểu Mái vòm
không hề nói anh sẽ quay lại đây hôm nay. Tôi cứ ngỡ ông ấy đi cùng anh?”
Ngài Tiểu Mái vòm ư? Langdon hoàn toàn không hiểu cô đang nói đến ai.
Người phụ nữ rõ ràng nhận ra vẻ bối rối của anh và phì cười trấn an. “Không
sao, tất cả mọi người ở Florence đều gọi ông ấy bằng biệt danh đó. Ông ấy không
bận tâm đâu.” Cô nhìn xung quanh. “Ông ấy dẫn anh vào à?”
“Đúng vậy”, Sienna lên tiếng và bước lại từ bên kia sảnh, “nhưng ông ấy có
cuộc hẹn ăn sáng. Ông ấy nói các chị sẽ không phiền nếu chúng tôi ngắm nghía
quanh quẩn ở đây”. Sienna nhiệt tình chìa tay ra. “Tôi là Sienna. Em gái của
anh Robert.”
Người phụ nữ bắt tay Sienna có phần hơi quá trịnh trọng. “Tôi là Marta
Alvarez. Cô thật là may mắn vì có hẳn giáo sư Langdon làm hướng dẫn viên
riêng.”
“Vâng”, Sienna tán dương, cố giấu động tác đảo mắt. “Anh ấy rất thông minh.”
Không khí chợt im ắng và có
phần gượng gạo khi người phụ nữ ngắm nhìn Sienna. “Buồn cười nhỉ”, cô ấy nói,
“tôi chẳng thấy có nét nào giống nhau. Có lẽ trừ chiều cao của cô.”
Langdon cảm thấy như sắp có
vụ va chạm tàu hỏa đến nơi. Ngay lúc này hoặc hết cơ hội.
“Marta”, Langdon ngắt lời, hy
vọng mình đã nghe chính xác tên của người phụ nữ. “Tôi xin lỗi làm phiền chị
nhưng… tôi đoán có lẽ chị biết lý do vì sao tôi lại ở đây.”
“Nói thật là không hề”, cô ấy
trả lời, mắt hơi nheo lại. “Tôi không tài nào tưởng tượng được là anh đang làm
gì ở đây.”
Tim Langdon đập rộn lên, và
trong khoảnh khắc im lặng gượng gạo sau đó, anh nhận ra canh bạc của mình sắp
thua đến nơi. Đột nhiên Marta nhoẻn miệng rồi bật cười to.
“Thưa giáo sư, tôi đùa thôi!
Dĩ nhiên, tôi có thể đoán tại sao anh quay lại. Thành thật mà nói, tôi không
biết tại sao anh lại thấy việc đó thú vị, nhưng vì anh và ngài Tiểu Mái vòm đã
bỏ gần một tiếng trên đó đêm qua nên tôi đoán anh quay lại để cho em gái anh
xem phải không?”
“Phải …”, anh vội đáp. “Chính
xác đấy. Tôi rất muốn chỉ cho Sienna xem, nếu việc đó không… phiền?”
Marta ngước nhìn lên ban công
tầng hai và nhún vai: “Không sao. Tôi cũng lên đó bây giờ.”
Tim Langdon đập rộn lên khi anh
nhìn lên ban công tầng hai ở phía sau sảnh. Mình đã ở trên đó tối qua ư? Anh
chẳng nhớ gì cả. Cái ban công ấy, anh biết rõ, ngoài việc ở đúng độ cao với mấy
từ cerca trova, còn là lối vào bảo tàng của cung điện, nơi Langdon luôn tới
thăm mỗi khi anh ở đây.
Marta định dẫn họ đi qua sảnh
thì chợt dừng lại, như thể vừa nghĩ ra gì đó. “Này, giáo sư, chẳng lẽ chúng ta
không thể tìm được thứ gì đó đỡ kinh dị hơn cho cô em gái đáng yêu của anh xem
à?”
Langdon chẳng biết nói sao.
“Chúng ta sẽ xem thứ kinh dị
à?”, Sienna hỏi. “Cái gì thế? Anh ấy không hề nói với tôi.”
Marta mỉm cười duyên dáng và
liếc nhìn Langdon. “Giáo sư, anh có muốn tôi cho em gái anh biết về nó không,
hay anh muốn tự mình làm việc đó hơn?”
Langdon gần như vồ lấy cơ hội
đó. “Tất nhiên rồi, Marta, tại sao chị không kể cho cô ấy nghe chứ?”
Marta quay lại phía Sienna,
nói rất chậm rãi. “Tôi không biết anh trai cô đã kể với cô những gì, nhưng
chúng ta sẽ lên bảo tàng để xem một cái mặt nạ rất khác thường.”
Mắt Sienna hơi mở to. “Mặt nạ
gì cơ? Có phải cái mặt nạ dịch hạch xấu òm người ta vẫn đeo dịp Carnevale
không?”
“Đoán giỏi lắm”, Marta nói,
“nhưng không, không phải mặt nạ dịch hạch đâu. Là một loại mặt nạ khác hẳn.
Người ta gọi là mặt nạ người chết.”
Marta nghe rõ tiếng Langdon
há miệng sửng sốt. Cô lừ mắt nhìn anh, rõ ràng nghĩ rằng anh đang cố tình tỏ ra
kịch tính một cách thái quá để dọa cô em gái.
“Đừng có nghe anh trai cô”,
cô ấy nói. “Mặt nạ người chết là một phong tục rất phổ biến vào thế kỷ XVI. Về
cơ bản nó chỉ là cái khuôn thạch cao theo đúng gương mặt của ai đó, được đúc
một thời gian sau khi người đó qua đời.”
Mặt nạ người chết. Langdon
cảm thấy tia sáng đầu tiên kể từ lúc anh tỉnh lại ở Florence. Hỏa Ngục của
Dante… Nhìn qua cặp mắt chết chóc. Mặt nạ!
Sienna lên tiếng hỏi, “Người
ta dùng khuôn mặt ai để đúc chiếc mặt nạ?!”
Langdon đặt tay lên vai
Sienna và cố gắng trả lời một cách bình thản nhất. “Một thi sĩ nổi tiếng của Ý.
Tên ông ấy là Dante Alighieri.”
Chương 38
Mặt trời Địa Trung Hải chiếu
rực rỡ trên boong tàu The Mendacium trong lúc nó lắc lư theo những đợt sóng
trên biển Adriatic. Cảm thấy mệt mỏi, Thị trưởng uống cạn ly Scotch thứ hai và
thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ phòng làm việc.
Tin tức từ Florence không
được tốt.
Có lẽ một phần do lần đầu
tiên uống rượu sau một thời gian rất dài, nên ông ta cảm thấy mất phương hướng
và bất lực một cách lạ lùng, như thể con tàu này đã mất động cơ và đang trôi
nổi vô định theo thủy triều.
Cảm giác là một điều rất xa
lạ với Thị trưởng. Trong thế giới của ông ta, luôn tồn tại một thứ la bàn đáng
tin cậy – quy trình – và nó chưa bao giờ chỉ đường sai cả. Quy trình là thứ
giúp ông ta đưa ra những quyết định khó khăn mà không cần phải xem xét lại.
Cũng chính quy trình yêu cầu
phải từ chối Vayentha, và Thị trưởng thực hiện việc đó không chút do dự. Ta sẽ
xử lý cô ả ngay khi vụ khủng hoảng hiện tại chấm dứt.
Cũng chính quy trình đòi hỏi
Thị trưởng biết về các khách hàng của mình càng ít càng tốt. Cách đây rất lâu
ông ta đã quyết định rằng Consortium không có trách nhiệm đạo đức để phán xét
họ.
Cung cấp dịch vụ.
Tin tưởng khách hàng.
Không đặt câu hỏi.
Giống như lãnh đạo của hầu
hết các công ty khác, Thị trưởng chỉ cung cấp dịch vụ với giả định rằng các
dịch vụ ấy sẽ được thực hiện trong khuôn khổ luật pháp. Nói cho cùng, hãng
Volvo không có trách nhiệm bảo đảm rằng những bà mẹ nôn nóng (20) sẽ không
phóng nhanh qua khu vực trường học, cũng chẳng khác gì việc hãng Dell sẽ phải
chịu trách nhiệm nếu có ai đó sử dụng một máy tính của họ để tấn công tài khoản
ngân hàng.
(20) Nguyên văn: “soccer mom”, chỉ những phụ nữ trung
lưu sống ở ngoại ô Bắc Mỹ, dành phần lớn thời gian chở con cái tới các sự kiện
thể thao hoặc hoạt động khác. Cụm từ này dần mang nghĩa tiêu cực vì những phụ
nữ này thường bị phê phán về việc ép con cái tham giá quá nhiều hoạt động ngoại
khóa thay vì để cho chúng được sống đúng tuổi thơ.
Còn lúc này, trước tất cả mọi
chuyện đang diễn ra, Thị trưởng thầm rủa cái đầu mối liên hệ đáng tin cậy đã
giới thiệu vị khách hàng này cho Consortium.
“Ông ấy sẽ không đòi hỏi
nhiều về hậu mãi và chi tiền rất hào phóng”, đầu mối liên hệ quả quyết với ông
ta. “Ông ấy rất giỏi, là một siêu sao trong lĩnh vực của mình, và vô cùng giàu
có. Ông ấy chỉ cần biến mất trong một hoặc hai năm thôi. Ông ấy muốn mua khoảng
thời gian yên tĩnh để thực hiện một dự án quan trọng.”
Thị trưởng đã đồng ý mà không
cần suy nghĩ nhiều. Bố trí chỗ lưu trú dài hạn luôn là dịch vụ dễ kiếm tiền, và
Thị trưởng tin tưởng vào khả năng của đầu mối liên hệ.
Đúng như mong đợi, công việc
đem lại bộn tiền.
Cho tới tuần trước.
Giờ đây, trước tình trạng hỗn
loạn mà người đàn ông này gây ra, Thị trưởng thấy mình đi vòng quanh chai
Scotch và đếm từng ngày mong cho trách nhiệm của mình với vị khách này nhanh
kết thúc.
Điện thoại trên bàn réo vang,
Thị trưởng nhận ra đó là Knowlton, một trong những điều phối viên hàng đầu của
mình, đang gọi từ tầng dưới.
“Ừ”, ông ta đáp.
“Thưa ngài”, Knowlton bắt đầu
nói, giọng đầy lo lắng. “Tôi không muốn làm phiền ngài chuyện này, nhưng có lẽ
ngài đã biết, chúng ta có nhiệm vụ đăng tải một đoạn video lên cho truyền thông
vào ngày mai.”
“Phải”, Thị trưởng trả lời.
“Đã chuẩn bị xong chưa?”
“Đã xong, nhưng tôi nghĩ có
lẽ ngài cầm xem trước khi đưa lên.”
Thị trưởng sững lại, không
hiểu lời đề nghị. “Đoạn video có nhắc đến tên chúng ta hay làm ảnh hưởng thế
nào đó đến chúng ta không?”
“Không, thưa ngài, nhưng nội
dung khá phiền phức. Ông khách xuất hiện trên màn hình và nói…”
“Thôi đi”, Thị trưởng ra
lệnh, sửng sốt vì một điều phối viên cao cấp lại dám đề xuất việc phá vỡ quy
trình ngang nhiên như vậy. “Nội dung là thứ vô hình. Cho dù vấn đề gì thì đoạn
video của ông ta cũng phải được công bố, dù qua hay không qua chúng ta. Ông
khách đó có thể dễ dàng công bố đoạn video này bằng hình thức điện tử, nhưng
ông ấy thuê chúng ta. Ông ấy trả tiền chúng ta. Ông ấy tin tưởng chúng ta.”
“Vâng, thưa ngài!”
“Anh không được trả tiền để
làm một nhà phê bình phim”, Thị trưởng cảnh cáo. “Anh được trả tiền để giữ lời
hứa. Hãy thực hiện công việc của mình.”
Trên cầu Ponte Vecchio,
Vayentha vẫn đợi, đôi mắt sắc lẻm của ả quét qua hàng trăm gương mặt trên cầu.
Ả rất cảnh giác và cảm thấy chắc chắn rằng Langdon chưa đi qua mặt mình, nhưng
chiếc máy bay không người lái đã im tiếng, rõ ràng nhiệm vụ truy tìm của nó
không còn cần thiết nữa.
Chắc Brüder đã tóm được anh
ta.
Đầy miễn cưỡng, ả bắt đầu nghĩ
tới viễn cảnh u ám về một phiên điều trần ở Consortium. Hay còn tệ hơn nữa.
Vayentha lại nghĩ tới hai đặc
vụ đã từng bị từ chối… chẳng bao giờ còn nghe nói đến họ nữa. Chắc họ chỉ
chuyển sang công việc khác, ả tự trấn an mình. Thế nhưng lúc này, ả đang tự hỏi
liệu ả có nên phóng xe vào vùng đồi núi Tuscany, biến mất và sử dụng những kỹ
năng của mình để bắt đầu một cuộc sống mới hay không.
Nhưng ta có thể trốn tránh họ
được bao lâu?
Rất nhiều mục tiêu đã tận mắt
chứng kiến khi Consortium đã để bạn vào tầm ngắm thì chuyện giữ bí mật trở
thành điều ảo tưởng. Vấn đề chỉ là thời gian mà thôi.
Lẽ nào sự nghiệp của ta lại
kết thúc như thế này? Ả tự hỏi, vẫn không tài nào chấp nhận được rằng công việc
suốt mười hai năm ròng rã của ả ở Consortium lại chấm hết vì một loạt những sự
cố không may. Suốt cả năm trời ả đã thận trọng giám sát những nhu cầu của vị
khách hàng mắt xanh. Ông ấy nhảy lầu tự sát đâu phải lỗi của ta… và dường như
ta đang rơi theo ông ấy.
Cơ hội chuộc tội duy nhất của
ả là qua mặt được Brũder… nhưng ngay từ đầu ả đã biết đây là một việc ít có khả
năng thành công.
Đêm qua ta đã có cơ hội,
nhưng ta lại thất bại.
Lúc miễn cưỡng quay lại chiếc
xe máy của mình, Vayentha đột nhiên nhận ra một âm thanh phía xa… tiếng rít
chói lói quen thuộc.
Ngỡ ngàng, ả ngước nhìn lên.
Trước vẻ ngạc nhiên của ả, chiếc trực thăng giám sát không người lái vừa cất
cánh trở lại, lần này gần phía đầu kia của Cung điện Pitti. Vayentha nhìn theo
trong lúc chiếc máy bay nhỏ xíu bắt đầu bay thành vòng tròn phía trên cung
điện.
Chiếc máy bay trở lại hoạt
động chỉ có thể đồng nghĩa với một việc.
Họ vẫn chưa tóm được Langdon!
Anh ta ở chỗ quái nào nhỉ?
Tiếng rít chói tai trên đầu
lại kéo Tiến sĩ Elizabeth Sinskey ra khỏi cơn mê. Chiếc máy bay lại bay lên à?
Nhưng mình nghĩ…
Bà đổi tư thế trên băng ghế
sau của chiếc xe thùng, nơi anh chàng đặc vụ trẻ vẫn ngồi bên cạnh. Bà lại nhắm
mắt, cố chống lại cơn đau và buồn nôn. Nhưng chủ yếu là cố chống lại nỗi sợ
hãi.
Thời gian đang cạn dần.
Mặc dù kẻ thù của bà đã nhảy
lầu tự sát, bà vẫn thấy bóng của hắn trong những giấc mơ, thuyết giảng cho bà
trong bóng tối của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
Rất cần người có hành động
táo bạo, hắn ta tuyên bố, đôi mắt xanh lè lóe lên. Nếu không phải chúng ta, thì
ai? Nếu không phải lúc này, thì bao giờ?
Elizabeth sẽ ngăn chặn hắn
ngay khi có cơ hội. Bà sẽ không bao giờ quên lúc thoát vội khỏi cuộc gặp gỡ đó
và lao vào ghế sau chiếc limousine, rồi băng qua Manhattan về phía Sân bay quốc
tế JFK. Sốt ruột muốn biết ngay gã điên này là kẻ nào, bà rút điện thoại di động
và nhìn kỹ tấm hình vừa chụp được.
Khi nhìn tấm hình, bà thốt
lên kinh ngạc. Tiến sĩ Elizabeth Sinskey biết chính xác người đàn ông này lài
ai. Tin mừng là rất dễ lần theo dấu vết hắn. Nhưng rủi thay hắn lại là một
thiên tài trong lĩnh vực của mình – hắn lựa chọn trở thành một con người rất
nguy hiểm.
Chẳng có gì sáng tạo… có sức
phá hủy… hơn một bộ óc xuất chúng với một mục tiêu.
Lúc đến sân bay ba mươi phút
sau đó, bà gọi cho đội của mình và đưa người đàn ông này vào danh sách theo dõi
khủng bố sinh học của tất cả cơ quan chức năng trên thế giới – CIA, CDC, ECDC,
và tất cả tổ chức tương tự trên toàn cầu.
Đó là những gì mình có thể
làm cho tới khi trở lại Geneva, bà nghĩ.
Kiệt sức, bà mang hành lý tới
quầy làm thủ tục và trao cho cô nhân viên hộ chiếu cùng vé của mình.
“Ồ, Tiến sĩ Sinskey”, cô nhân
viên mỉm cười nói. “Một quý ông rất lịch thiệp vừa gửi một tin nhắn cho bà.”
“Sao cơ?”, Elizabeth không hề
biết ai đó lại nắm được thông tin chuyến bay của bà.
“Ông ấy rất cao?”, cô nhân
viên nói. “Với đôi mắt màu xanh lục?”
Elizabeth buông rơi hành lý. Ông ta ở đây ư? Bằng cách
nào?! Bà nhìn quanh, săm soi những gương mặt phía sau mình.
“Ông ấy đã đi rồi”, cô nhân viên nói, “nhưng ông ấy muốn chúng tôi trao cho
bà thứ này”. Cô ấy đưa cho Elizabeth một tờ giấy gấp lại.
Elizabeth run run mở tờ giấy và đọc lời nhắn viết bằng tay.
Đó là một câu trích nổi tiếng rút ra từ tác phẩm của Dante Alighieri.
“Những nơi tăm tối nhất của địa ngục
dành riêng cho những kẻ
giữ thái độ trung dung
trong những thời kỳ khủng hoảng đạo đức.”