Về quê - Chương 03

Chương 3: Lịch sử phòng trọ

Kết thúc đợt thực tập hai tháng, tôi ngồi trước laptop tỉ
mẩn làm báo cáo. Báo cáo thực tập không có gì quá khó, chỉ là nêu những đặc điểm
của nhà xuất bản, những việc tôi đã làm khi thực tập, từ đó rút ra những bài học
cho bản thân. Tôi hoàn thành nó trong một buổi tối. Sáng hôm sau, tôi mang sang
trường nộp cho lớp phó học tập.

Nộp báo cáo xong nghĩa là chương trình học của chúng tôi ở
trường đại học đã kết thúc. Chúng tôi hoặc là lao vào ôn thi tốt nghiệp, hoặc
là làm khóa luận tốt nghiệp, bên cạnh đó cũng phải ôn thi môn điều kiện.
Năm nay, môn điều kiện là môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, tôi thích thi
Triết hơn. Thời gian từ giờ đến khi kết thúc tất cả là một tháng.

Cái nóng tháng năm là một nỗi kinh hoàng, đặc biệt là khi
tôi trở về phòng trọ. Phòng trọ của tôi nằm ở tầng bốn. Trước kia, nó là sân
thượng, rồi chủ nhà xây thêm một phòng nữa để cho thuê, vì thế có một khoảng
sân rộng trước căn phòng. Phòng được lợp mái tôn, dù đã đóng trần thạch cao cũng
không giúp làm giảm nhiệt độ trong phòng chút nào. Xung quanh lại không có nhà
khác che nên cái nắng rọi thẳng vào mấy bức tường, khiến cho nhiệt độ trong
phòng luôn cao hơn bên ngoài một vài độ C. Buổi tối, dù ngoài sân gió mát đến
mấy thì trong phòng cũng hầm hập như cái lò. Những ngày nóng đỉnh điểm, đến hai
giờ đêm tôi vẫn chưa ngủ được vì quá nóng. Trước đây, tôi đã không thích mùa hè
vì cái nóng làm tôi khó chịu, đến khi sống ở phòng trọ này hơn hai năm, tôi
càng ghét mùa hè hơn.

Phòng tôi có năm người. Nguyên do từ đâu năm người
chúng tôi lại ở cùng nhau là cả một câu chuyện dài, bắt đầu từ xóm
trọ trước kia của cả năm.

Nhà trọ ấy khá là đặc biệt. Từ trường tôi, qua
hiệu sách Nguyễn Văn Cừ, rẽ vào cái ngõ cạnh đó, đi chừng hơn chục
mét là đến nhà trọ của tôi. Bên dưới, ngay ngoài đường là một quán
nước lụp xụp, lụp xụp từ cái mái che, cái cột chống đến bàn ghế
cho khách ngồi uống nước. Quán của ông Cát và bà Yết còn bán cả
cháo, bánh mì trứng và mì tôm vào buổi sáng. Đi qua quán nước nhỏ
là phòng khách. Nếu đứng ở gần bộ bàn ghế nhìn lại phía cửa ra
vào, phía trên sẽ là phòng của ông Cát.

Qua phòng khách, rẽ bên phải là cầu thang số một.
Cầu thang này cũng như phòng khách, ban ngày không được bật điện nên
rất tối. Những khi đi học về, nhất là năm tôi phải học buổi sáng,
từ bên ngoài bước vào chân cầu thang, không thể nhìn thấy gì cả bởi
mắt chưa quen với bóng tối, phải bám vào tường mà leo từng bậc. Cầu
thang nhỏ, chỉ đủ cho từng người một đi, hai người gặp nhau thì phải
nép mình vào sát tường hoặc lan can cầu thang để tránh.

Tầng hai có bốn phòng, tầng ba có hai phòng cộng
với một phòng rất lạ. Phòng này như một căn phòng bí mật, cửa vào
nhỏ, chiều cao chỉ tầm hơn một mét, mỗi lần vào phải cúi người
thật thấp, nhưng bên trong khá rộng so với những phòng khác. Tầng bốn
có ba phòng với một phòng của con gái ông Cát. Các phòng đều chỉ
rộng chừng bảy, tám mét vuông, và không có phòng nào có đủ bốn bức
tường. Thường sẽ có một hoặc hai có khi là ba bức vách ngăn bằng
cót hoặc tôn ở mỗi phòng, nên ngồi ở phòng này có thể nghe rõ mọi
tiếng động của phòng bên cạnh. Chúng tôi phải mua giấy về dán lên
những bức vách đó để cải thiện thẩm mĩ nhưng cũng không đỡ hơn là
mấy.

Cửa của các phòng đều được làm từ những tấm gỗ
cũ kĩ, bị mối mọt gặm nhấm nham nhở, có cái xộc xệch như sắp rơi
ra đến nơi. Ổ điện, dây điện cũng đã được dùng từ lâu nên có phần
lỏng lẻo, mạng nhện bám vào đen xì hết cả. Vì không có chỗ nào để
chứa, chúng tôi thường phải buộc dây ngang tường để treo quần áo.
Phòng đã chật, nhìn đám quần áo lùng thùng trên tường lại càng
thấy bức bối, bừa bộn hơn.

Lúc mới lên học, tôi và Huyền ở tầng trên cùng,
tầng bốn, tầng duy nhất nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Trước cửa
phòng tôi có một cái cầu thang nữa, vô vùng ọp ẹp, để ông Cát lên
cho gà ăn vào mỗi sáng. Tôi với cái Huyền ngày nào cũng bị đánh
thức bởi tiếng huýt sáo và tiếng gọi gà của ông. Hai đứa tôi chỉ
rúc rích cười với nhau, công nhận ông Cát tận dụng triệt để ngôi
nhà. Một thời gian sau, chúng tôi chuyển xuống tầng hai cho tiện lấy
nước và mọi sinh hoạt khác.

Đi qua cầu thang số một là đến phòng của Trang và
Duyên. Phòng này cũng được ngăn với lối đi bằng những tấm nhôm, nhưng
là phòng rộng nhất. Cạnh phòng này có một cầu thang nữa, gọi là
cầu thang số hai, tôi không đánh số cho cái cầu thang lên chỗ nuôi gà.
Có thể hình dung là từ phòng khách đi thẳng vào sẽ đến cầu thang
này, nó chiếm một nửa lối đi, lối đi nằm giữa phòng cái Trang và
cái cầu thang số hai. Cầu thang số hai dẫn lên phòng chị Nga. Phòng
chị Nga nằm ngay trên phòng cái Trang, chỉ cần chị mở cửa ra là nhìn
xuống được một nửa phòng bên dưới. Nếu bỏ hết những ngoại cảnh xung
quanh, phòng chị Nga giống như một cái nhà sàn.

Theo lối đi ở giữa ấy sẽ đến cầu thang số ba,
nằm bên phải, sát phía sau phòng cái Trang. Cầu thang này dẫn lên ba
phòng trọ và phòng ngủ của bà Yết. Các phòng cũng có diện tích
nhỏ nhỏ xinh xinh, chỉ đủ kê một cái giường và chừa lại một lối đi,
có phòng rộng hơn một chút thì để thêm được cái tủ nho nhỏ. Có thể
nói kiến trúc nhà ông Cát sau khi được ông cơi nới và tận dụng không
khác gì một cái chuồng chim. Tôi vẫn nghĩ nếu có gió to bão lớn nó
có thể bị thổi tung, từng bức vách sẽ ngổn ngang dưới đường.

Qua cầu thang số ba là một bể nước xây dưới lòng
đất và sân để giặt giũ, rửa rau. Đây gần giống một cái giếng trời
vì nhìn thẳng lên bầu trời không bị che khuất. Cạnh đó là nhà bếp
của gia đình ông Cát, rồi đến hai phòng tắm và một nhà vệ sinh. Một
phòng tắm chỉ đủ để cái chậu và người đứng không biết xoay xở ra
sao, một phòng tắm thì rộng hơn nhưng then cửa bị hỏng. Nhà vệ sinh
chỉ có cái bồn cầu cũ kĩ và rộng đủ cho một người bước vào ngồi
xuống. Mỗi lần bước vào đó là tôi rợn cả người. Cửa nhà vệ sinh
là một tấm nhựa, bên trên được viết chi chít chữ, toàn là những
hướng dẫn sử dụng do ông Cát tự sáng tác.

Như vậy, cả xóm trọ có gần hai mươi phòng, mỗi
phòng có một đến hai người ở, từng ấy con người chung nhau một bể
nước, hai phòng tắm và một nhà vệ sinh. Đôi khi nhớ lại, tôi không
hiểu sao mình có thể sống chừng ấy thời gian trong điều kiện sinh hoạt
chật chội, đông đúc như thế. Đi vo gạo, rửa rau cũng phải đợi, đi tắm
cũng phải đợi, đi vệ sinh cũng phải đợi. Nhiều hôm tôi tung tăng bê
chậu, khăn, quần áo xuống tắm thì cả hai phòng tắm đã đóng cửa,
ngồi đợi thì không có chỗ ngồi, lại lủi thủi đi lên tầng bốn.

Nhà ông Cát có nuôi một con mèo vừa già vừa béo,
một con mèo với bộ lông trắng tinh, chỉ có đôi mắt màu đen. Con mèo
già khú ấy nằm ở bất cứ đâu nó thích, từ chân cầu thang, giữa cầu
thang đến trên giường của chúng tôi. Có hôm cái Duyên lật cái chăn ra
thấy con mèo nằm cuộn tròn ở đó mà giật mình. Thật là tội lỗi,
không ít lần tôi đã đá con mèo không thương tiếc vì nó nằm giữa cầu
thang tối om mà tôi thì không nhìn thấy gì cả. Nhiều lần tôi suýt
giẫm lên người nó, may mà nó chạy kịp còn tôi thì bị một phen hú
vía. Con mèo già chỉ có nằm với ngủ với đi chơi, tôi chẳng thấy nó
bắt chuột bao giờ.

Có đêm, mất điện, trời mưa, tôi đang nằm thì thấy
có con gì đó cắn cắn dưới chân, tôi gạt gạt hai chân vào nhau thì nó
chạy lên tay, trong tích tắc tôi nhận ra đó là một con chuột, theo
phản xạ, tôi vung tay thật mạnh, con chuột bay sang cái Huyền nằm bên
cạnh tôi rồi văng xuống đất, kêu “chít chít”. Cái Huyền giật mình
hét lên, còn tôi cũng khiếp vía nằm mãi mới ngủ tiếp được.

Phòng tôi, phòng Trang và chị Nga thỉnh thoảng lại
góp gạo thổi cơm chung. Những dịp đó, đa số chúng tôi đều ăn nem rán.
Nem chủ yếu là miến với giá, cà rốt, cùng lắm chỉ có một lạng
thịt xay nhưng ăn vẫn ngon, thêm một rổ rau xà lách với diếp cá cùng
bát nước chấm chua ngọt của cái Trang hoặc Huyền là đủ cho chúng tôi
lai rai, vừa ăn vừa nói chuyện trên trời dưới đất.

Một vài ngày “chiến tranh” lại nổ ra một lần.
Một bên là cái Huyền, một bên là Trang hoặc Duyên hoặc cả hai. Cái
Huyền còi đã còi đến mức tên có thêm cái đuôi nhưng lại hay gây sự
để đánh nhau với hai đứa kia, mà một đứa đã gấp đôi nó rồi. Chiêu
thức bọn nó hay dùng nhất là lấy thịt đè người rồi cù cho cười
nắc nẻ, giãy giụa cũng không thoát. Sau mỗi cuộc chiến, chăn gối,
giường chiếu xộc xệch hết cả, những thứ xung quanh cũng không còn ở
nguyên vị trí. Trong mỗi cuộc chiến, tôi là người xông pha trận mạc,
ghi lại những hình ảnh nguy hiểm nhất, không ít lần trâu bò đánh nhau
mà ruồi muỗi như tôi suýt chết.

Hôm sinh nhật chị Nga, chị đi chơi về muộn, mười
giờ tối chúng tôi còn kéo nhau lên phòng chị để liên hoan. Đang rán
xúc xích thì nghe tiếng động bên dưới. Thì ra là mấy ông cạnh phòng
tôi đi chơi giờ mới về, ông Cát vừa mở cửa vừa làu bàu chửi mấy ông
ấy. Bọn tôi ngồi cười sung sướng, vì mấy ông này ăn ở không tốt. Lát
sau nữa, chị Đông Hà về, nhưng ông Cát vui vẻ mở cửa, không có một
câu mắng mỏ nào. Ông Cát ghét con trai, quý con gái hơn, mà tính ông
cũng thất thường nữa, không biết lối nào mà lần. Có một hôm, anh
Chiến ở cùng tầng với tôi xuống giặt quần áo muộn, xong vào phòng
Trang ngồi chơi. Trang lại về quê nên chỉ có Duyên ở phòng. Ông Cát đi
qua, thấy anh Chiến ngồi trên giường còn Duyên thì ngồi ở bàn học
bèn quát tháo: “Anh Chiến, anh đừng có mà lợi dụng vẻ đẹp trai của
anh để quyến rũ con gái nhà lành. Đi về phòng!”

Anh Chiến ngớ ra, ấp úng thanh minh nhưng ông Cát
cứ hùng hùng hổ hổ đuổi anh về. Hôm sau, bọn tôi nghe cái Duyên kể
mà cười lăn lộn trên giường, gặp anh Chiến đứa nào cũng nói: “Anh
Chiến, anh đừng có mà lợi dụng vẻ đẹp trai của anh nhá.” Anh Chiến
không biết phải làm gì, cười cũng không được mà khóc cũng chẳng
xong.

Đến khoảng mười rưỡi, ông Cát tắt điện định đi ngủ
nhưng thấy phòng chị Nga vẫn sáng nên đứng bên dưới hỏi vọng lên:
“Mấy đứa kia không về phòng ngủ à?” Cũng đến giờ giới nghiêm rồi
thật. Chị Nga phải nhỏ nhẹ xin ông cho tổ chức sinh nhật, hứa là
không làm ồn. Ông lẩm bẩm mấy câu rồi về phòng. Chúng tôi vừa ăn vừa
nói chuyện thì thầm, cười cũng không dám cười to, cứ ôm bụng, bịt
miệng cố nín tiếng nên người đứa nào cũng rung đùng đùng, cười mà
nước mắt chảy tèm nhem hết cả. Liên hoan xong cũng gần mười hai giờ,
bọn tôi rón rén đi về phòng, rồi mỗi đứa ôm một quyển sách vì hôm
sau phải đi thi.

Khi ba phòng chúng tôi quyết định chuyển đi, vì sợ
ông Cát mắng nên đứa nọ đùn đẩy đứa kia ra nói với ông. Cuối cùng,
cái Trang với cái Huyền ra nộp tiền phòng, tiện thể xin phép ông
luôn. Tôi, chị Nga với cái Duyên ngồi trong phòng nó mà cứ phấp phỏng
lo. May sao ông Cát không mắng mỏ gì, chỉ bảo kể ra phải báo sớm cho
ông biết, hôm sau lúc chúng tôi chuyển đồ ông còn tươi cười hớn hở hơn
cả bọn tôi. Hóa ra là thừa dịp chúng tôi chuyển đi, ông tăng giá tiền
phòng lên năm mươi nghìn mỗi phòng.

Phòng mới của chúng tôi rộng chừng mười bảy mét
vuông, là phòng tách biệt hẳn với những phòng khác vì mình nó nằm
một tầng. Xóm trọ mới chỉ có bốn phòng, kể cả phòng này. Ba phòng
ở tầng ba, bên dưới là nhà chủ. Bốn phòng dùng chung một nhà vệ
sinh với phòng tắm, khá rộng và sạch sẽ. Từ phòng tôi đi xuống, hết
cầu thang là đến luôn phòng tắm, nên chỉ cần đứng ở trên ngó xuống xem
cửa đóng hay mở là biết có ai ở trong đó hay không.

Từ hai người chuyển thành năm người một phòng,
chuyện ăn uống sinh hoạt đương nhiên cũng thay đổi nhiều. Chúng tôi góp
tiền ăn vào đầu tháng, dùng đến hết thì góp thêm từng ít cho đến
hết tháng rồi sang tháng lại góp từ đầu. Thỉnh thoảng, vào cuối
tuần, chúng tôi đi chợ Dịch Vọng, cách nhà trọ gần hai mươi phút đi
bộ, mua rau cho khoảng ba, bốn ngày. Mỗi lần đi như vậy phải xách
nhiều đồ nên ít nhất phải có hai người đi. Chúng tôi chỉ mua những
rau củ có thể để lâu như khoai tây, đỗ, bắp cải, cà chua, cà rốt, dưa
chuột… Chợ ở đó rẻ hơn chợ ngay dưới nhà trọ tôi rất nhiều, có thứ
rẻ hơn một nửa, có thứ chỉ rẻ bằng một phần ba, một phần tư, thế
nên dù có xa và phải khệ nệ xách đến mỏi tay, một tháng chúng tôi
vẫn đi ít nhất một lần, đặc biệt là những khi chúng tôi hết tiền ăn
sớm hơn dự định.

Mùa đông, nhìn đống chăn gối mà tôi ngán ngẩm vô cùng.
Vào phòng lúc nào cũng thấy chăn, có gấp gọn vào cũng thấy quá nhiều, vậy nhưng
không đủ ấm. Tôi và chị Nga ngủ dưới đất nên càng lạnh. Mùa hè, đống chăn là một
yếu tố làm tăng thêm cái nóng. Phòng thì nhỏ, năm người có biết bao nhiêu đồ đạc,
chúng tôi đã nhét hết cỡ cũng không thể nhét hết đống chăn vào gầm giường.
Thành ra, vẫn có một hai cái để trên giường với năm cái gối. Đã nóng càng thêm
nóng. Nhiều khi nóng quá, tôi không cần gối hay chiếu, cứ nằm luôn ra nền nhà
mà ngủ.

Chị Nga hơn tôi ba tuổi. Quê chị ở Thanh Hóa. Chị học
một năm ở Hưng Yên rồi mới thi lại vào trường tôi, tất nhiên là khác khoa tôi học.
Chị Nga giỏi “chém gió” nhất phòng, đôi khi nghe chị nói mà tôi không biết là
chị đang nói thật hay nói đùa. Người yêu của chị kinh doanh quán cà phê. Khi
nói chuyện với chúng tôi, chị nói rất bình thường, còn khi nói chuyện điện thoại
với người yêu, chị điệu không thể tả được. Tôi nghe mà sởn cả da gà. Mùa hè
nóng bức như thế này, không mấy khi chị ở phòng. Chị đi tránh nóng, thỉnh thoảng
mới về lấy đồ, mang theo rất nhiều đồ ăn từ nhà người yêu về cho chúng tôi.

Có lần chị mang về một con lợn sữa quay. Năm người chúng
tôi để con lợn giữa phòng, đánh chén no nê. Nói ra thì hơi xấu hổ, nhưng không
còn cách nào khác, chúng tôi dùng tay là chính, để chiến đấu với con lợn. Tôi
ngủ cùng chị nên chị hay tâm sự với tôi hơn. Rất nhiều chuyện trong cuộc sống của
chị, cuộc sống gia đình chị ở Thanh Hóa, cuộc sống của gia đình người yêu chị.
Ra trường không lâu thì chị làm đám cưới, mặc dù mới đi làm chừng một hai
tháng chị cũng bỏ để lấy chồng rồi sinh con.

Khi chúng tôi vào năm thứ ba thì chị Nga đã tốt
nghiệp. Phòng tôi có thêm thành viên mới. Em Trang kém chúng tôi hai tuổi,
học Đại học Giao thông vận tải. Nó là bạn gái của em trai tôi, cùng quê
với tôi. Nó xích mích với bạn cùng phòng, lại vừa lúc chị Nga chuyển đi nên
tôi bảo nó đến ở cùng. Ban đầu chúng tôi không hợp nhau lắm. Rồi dần dần mọi
chuyện cũng ổn. Về sau, Trang hiểu mọi người hơn, cuộc sống ở phòng tôi cũng
không còn căng thẳng với nó nữa. Phòng tôi có hai Trang nên gọi là Trang
“lớn” với Trang “bé”. Tôi thì gọi Trang “lớn” là Trang Nở nên không
phân biệt với Trang “bé” làm gì.

Em Trang là một người có cá tính mạnh mẽ, luôn
có chính kiến rõ ràng trong mọi chuyện, biết bảo vệ quan điểm của
mình và sẵn sàng tranh luận với bất cứ ai. Nhưng nó cũng hay lo lắng
những chuyện không đâu, có những sở thích riêng như chụp ảnh cưới
chẳng hạn. Nó đam mê nhiếp ảnh, trong khi vẫn luôn cố gắng hết mình
cho việc học. Ban đầu, với cương vị một người chị, tôi nhìn nhận nó
ở vị trí là bạn gái của em trai mình nên có phần hơi khắt khe. Sau
đó, tôi phải tự nhắc bản thân thay đổi cách suy nghĩ, coi nó như một
đứa em trong phòng, cũng yêu quý nó như mọi người.

Huyền học cùng tôi từ hồi cấp ba. Huyền học Đại học
Thương mại. Đến năm thứ tư này, nó học thêm một bằng kế toán bên cạnh chuyên
ngành chính – Tiếng Anh thương mại. Huyền còn đi dạy thêm hai buổi trong
tuần bên cạnh việc học hai bằng một lúc nên nó đi suốt ngày. Nó là đứa
đi nhiều nhất trong phòng. Tôi đã ít đi, cái Duyên còn đi ít hơn tôi. Thỉnh thoảng
tôi đi đây đi đó chơi với bạn bè, còn cái Duyên chỉ đi học rồi về phòng. Huyền
yêu một anh ở cùng quê nhưng học ở Hải Phòng. Trong phòng tôi, tình yêu của
Huyền là lãng mạn nhất, lãng mạn kiểu tuổi teen. Tình yêu của chị Nga cũng lãng
mạn, nhưng lãng mạn kiểu khác. Nếu tôi có yêu thì tình yêu của tôi phải xa lơ
xa lắc mới đạt đến cái mức gọi là lãng mạn. Đôi khi tôi nghĩ là mình cũng thích
sự lãng mạn, nhưng tưởng tượng đến cảnh tôi là nhân vật chính trong một tình huống
lãng mạn là tôi thấy sợ, chắc chắn tôi sẽ bỏ chạy khỏi đó.

Trang và Duyên học cùng khoa với chị Nga, cùng khóa với
tôi, mặc dù Duyên hơn tôi một tuổi. Cả hai đứa nó đều đã mất bố nên có chút đồng
cảm với nhau.

Trang ở Hải Dương, yêu một cậu bằng tuổi, cùng quê. Cậu
này học hết cấp ba, thi trượt đại học rồi đi làm công nhân ở một nhà máy điện ở
đó. Hai người mới làm đám cưới tháng trước. Cũng may là chúng tôi sắp ra trường,
nên việc lấy chồng không ảnh hưởng đến việc học của Trang.

Vì người yêu ở quê nên tuần nào Trang cũng về nhà. Nếu
là tôi thì có khi hai tháng tôi mới về, cứ nghĩ đến việc đi ô tô rồi chen xe
buýt như nó là tôi phát ốm. Trang già dặn hơn chúng tôi rất nhiều. Kể cả khi nó
học trên này, nó vẫn gọi điện “chỉ đạo” mọi việc ở nhà. Lắm lúc nó nói chuyện với
mẹ như nói với một đứa trẻ con. Thỉnh thoảng cái Duyên nhắc nhở, nó lại gắt
lên, nói như là nó đúng. Đám cưới nó cũng vậy. Nó là cô dâu nhưng lo hết mọi việc,
từ bàn ghế, nước nôi đến đồ ăn, nấu nướng. Bọn tôi bảo nó không phải lo, đã có
người khác làm rồi, nhưng nó không yên tâm, việc gì cũng phải tận mắt chứng kiến,
sắp xếp mới được. Thật chẳng bù cho tôi chút nào, cái gì cũng không biết. Nhìn
nó quán xuyến việc gia đình mà tôi tự thấy bản thân mình còn kém cỏi lắm, chẳng
biết lúc nào mới đủ bản lĩnh mà lấy chồng.

Ở Duyên hội tụ tất cả những đặc điểm của một cô gái quê
thời trước, từ ngoại hình đến tư tưởng. Điều kiện gia đình nó thiếu thốn hơn
chúng tôi rất nhiều. Một mình mẹ nó làm lụng nuôi hai chị em nó ăn học. Em trai
Duyên học hết cấp hai thì nghỉ ở nhà, làm giúp mẹ để mẹ đỡ vất vả. Có năm, bão
về, nhà nó bị bay hết mái. Nó nghe điện thoại của mẹ mà khóc nức nở. Hoàn cảnh
gia đình như thế, nó chắt chiu, tằn tiện từng đồng. Phòng tôi luôn giữ ở con số
năm thành viên cũng là để giảm bớt tiền thuê phòng cho nó. Việc ăn uống cũng hạn
chế đi nhiều. Nó không đi đâu ngoài nhà trọ và trường học cũng đúng thôi, bởi
nó không có tiền.

Vậy nhưng, thỉnh thoảng chúng tôi rủ nó đi, trả cả tiền
xe buýt, nó chỉ việc đi thôi, nó vẫn không chịu đi. Tôi vẫn bảo nó, chỉ có
quãng thời gian sinh viên này mới có cơ hội đi đâu mình muốn, ra trường rồi sẽ
khó mà có cơ hội đi như thế. Nó chỉ im lặng. Chúng tôi dùng đủ mọi
cách để thuyết phục nó, từ việc nêu ra những cái hay đến việc mắng
nó nhưng đều không có tác dụng. Cuối cùng, nó vẫn ở nhà và những
tấm ảnh chụp lúc đi chơi luôn không có nó.

Duyên cũng có người yêu cùng quê. Thật ra, Huyền,
Trang hay Duyên đều có cơ hội gặp gỡ những người đàn ông có điều
kiện tốt hơn người bên họ lúc bấy giờ, nhưng tự mỗi người đã không cho
bản thân các cơ hội lựa chọn. Mỗi đứa yêu và quyết định gắn bó với
tình yêu đó đến cùng, không hối tiếc. Chuyện tình của phòng tôi dễ
có thể viết thành tiểu thuyết ấy chứ, tên là “Chuyện bốn nàng ở
trọ” chẳng hạn. Nếu tôi có khả năng viết truyện tình cảm tôi nhất
định sẽ viết lại câu chuyện này. À mà, trước đó tôi phải yêu một ai
đó đã.

Sống trong một phòng mà bốn người có người yêu,
chỉ mình mình không có, nghe có vẻ hơi đáng thương nhưng tôi hoàn toàn
không có cảm giác ấy. Tình yêu không phải lúc nào mình muốn là nó
đến với mình ngay, cũng có khi mình không muốn thì nó lại đến,
khiến mình muốn thoát ra cũng không được. Ai cũng có người dành cho
riêng mình, chỉ là mình chưa gặp thôi. Tôi chưa muốn yêu và chưa muốn
có người yêu. Suy nghĩ của tôi không biết có khác người không nữa. Có
người yêu giống như khoác thêm một nỗi lo vào người, thời gian bị mất
đi một nửa, cũng có thể là hơn thế. Lo cho cuộc sống của một người
nữa, với những tâm tư, tình cảm của người ta, lo cho tình cảm của
mình với người ta liệu có đi đến một cái đích nào không. Nỗi lo ấy
tôi chưa cáng đáng được, nên tôi thực sự không muốn đón nhận nó lúc
này.

Cuộc sống hiện tại khiến tôi vừa lòng. Tôi có
thể làm gì mình muốn, thức khuya, đọc truyện hoặc xem phim suốt đêm,
thích học lúc nào thì học, sẽ không phải bận tâm đến những cuộc điện
thoại lúc đang xem phim, những tin nhắn giục đi ngủ sớm, giữ gìn sức
khỏe… Tôi làm chủ cuộc sống của mình và không muốn bị nhắc nhở như
nhắc một đứa trẻ con, dù cho nó chỉ đơn thuần xuất phát từ sự quan
tâm.

Có lần Trang giới thiệu bạn nó cho tôi. Chắc là
vì thấy tôi không có ai theo đuổi nên nó mới nghĩ ra trò mai mối này.
Nó cho anh này số điện thoại của tôi mà không hỏi trước. Mọi người
trong phòng cũng ủng hộ và bảo tôi cho anh ta cơ hội. Vì không muốn
nghe càm ràm nên tôi cũng kệ. Tôi vẫn nhắn tin, nghe điện thoại của
anh ta, may là thỉnh thoảng anh ta mới liên lạc với tôi. Ngay hôm đầu
anh ta nhắn tin, tôi hỏi anh ta đã từng yêu ai chưa, bây giờ còn yêu không…
Nói chung tôi chỉ hỏi chuyện tình cảm của anh ta, hỏi thẳng thắn,
chẳng vòng vo làm gì. Chắc anh ta cũng bị tôi làm cho ngạc nhiên, tôi
chỉ đơn giản nghĩ rằng, anh làm quen chẳng phải để tiến tới một mối
quan hệ không phải bạn bè sao?

Một thời gian dài anh ta không liên lạc, khiến tôi
thoải mái hơn rất nhiều. Tôi cũng thấy anh ta không có hứng thú gì
với tôi. Có tối, tôi ngồi trên bàn học, Trang ngồi dưới đất, mở
laptop để online, nó gọi cái Duyên xuống xem ảnh, nghe loáng thoáng có
nhắc đến anh ta, rồi cái Trang ngồi mắng anh ta dù có mình nó nghe.
Tôi biết có chuyện gì dù Trang không nói với tôi, nhưng một lần nữa
tôi thở phào, mình không phải cố gắng nói chuyện với anh ta lần nữa.
Từ đó, Trang không nhắc đến cũng không giới thiệu ai cho tôi nữa.

Những tháng cuối cùng của thời sinh viên, phòng tôi dần
tan tác, mỗi đứa một nơi. Trang lấy chồng, thực tập ở quê rồi cũng ở quê ôn thi
tốt nghiệp. Duyên đang phân vân sẽ ở lại hay về quê, giống như tôi. Huyền thì
quyết định sẽ ở lại Hà Nội nên đã tìm một chỗ ở mới, ổn định để
chú tâm học hành. Phòng chỉ còn tôi, Duyên và em Trang, ba đứa không thể
cáng đáng tiền phòng được nữa. Em Trang rất lo lắng, không biết ở đâu nếu
chúng tôi đi hết như vậy. Đến giữa tháng là phải đóng tiền phòng của tháng mới,
nên chúng tôi phải thu xếp trước ngày mười lăm.

Báo cáo nội dung xấu