Cuộc đời của Lê-nin - Chương 05 - 06 - 07 - 08

LÀNG CÔ-CU-SKI-NÔ

Một ngày đi tàu thủy, một ngày ở Ca-dan, đến chiều tối
ngày thứ ba, họ tới Cô-cu-ski-nô. Suốt dọc đường Vô-lô-đi-a kể cho Ô-li-a và
Mi-chi-a nghe về cuộc sống ở Cô-cu-ski-nô. Ô-li-a và Mi-chi-a lắng nghe, dường
như chưa bao giờ thấy Cô-cu-ski-nô cả. Vô-lô-đi-a tả rất hay. Chuyện bơi thuyền
trên sông U-xnhi-a. Cá măng có răng to và nhọn thường hay quanh quẩn ở những chỗ
nước xoáy. Cá chép nhanh nhẹn thường bơi tung tăng khắp nơi. Cá vược rất tham đớp
mồi.

- Mi-chi-a! Cá cắn câu rồi, giật đi, Mi-chi-a, con cá
vược béo quá!

Mi-chi-a suýt nữa thì nhảy khỏi chiếc xe ngựa bốn
bánh. Người đánh xe vừa lấy dây cương quất ngựa vừa ầm ừ ra vẻ tán thưởng:

- Kể nữa đi, nhà kể chuyện tí hon!

Nhà kể chuyện tí hon, hởn hở vì được khen, tiếp tục kể.
Chuyện những rừng nấm ở Cô-cu-ski-nô. Những quãng rừng bị đốn dâu chín đỏ rực.
Những bụi phúc bồn tử ở khe cạn gần đây. Những bãi cắt cỏ. Ban đêm, sau lúc
hoàng hôn, bọn trẻ trong làng thường phi ngựa ra các bãi rừng thưa chăn cho đến
sáng.

Ở Cô-cu-ski-nô có ngôi nhà của ông ngoại để lại cho mẹ
và các em gái của mẹ sau khi ông mất. Mùa hè, bà mẹ cùng với các con tới làng
Cô-cu-ski-nô. Và những em gái cũng đem các con đến. Cả họ tụ tập rất đông vui!

Đây kia, làng Cô-cu-ski-nô đã hiện ra, một làng nhỏ có
những mái nhà tranh bên bờ dộc của con sông U-xnhi-a. Còn kia, ở xa hơn một
chút, trong khu vườn, hiện ra một ngôi nhà gỗ có nhiều cột và tầng lầu nhỏ.

Chào Cô-cu-ski-nô! Vô-lô-đi-a là người đầu tiên nhảy
xuống xe ngựa, chạy tung tăng khắp những nơi ưa thích, nhìn ngắm khu vườn, chào
hỏi những bụi hoa tử đinh hương, những đám cỏ, những khóm hoa. Ô-li-a chạy theo
anh.

- Trông kìa, Ô-li-a, khu
vườn trỏ nên đẹp tuyệt trần!

- Trông kìa, anh
Vô-lô-đi-a, chiếc ghế dài của chúng ra ở dưới hàng cây bồ đề thấp lè tè, như cắm
sâu xuống đất ấy.

- Còn kia là chỗ dốc đi
xuống sông. Chúng ta đi xuống chứ?

Hai anh em liền đi xuống, vì đã quen biết con sông
U-xnhi-a này. Đôi bờ sông mọc đầy cây trăn và cây thùy dương. Những bông súng
vàng ló ra từ mặt nước. Biết đâu Đuy-mô-vốt-sca, nhân vật trong truyện kể của
An-đéc-xen chả đã từng sống ở một trong những bông hoa vàng đó. Chiếc thuyền cũ
được cột chặt vào cái cọc nhỏ, chúi mũi vào bờ. Đi bơi thuyền kể cũng thích. Mà
chạy vào rừng chơi cũng hay.

- Ô-li-a, chúng ta vào
rừng đi!

- Ngay bây giờ à? Đi một
mình ư? Chiều tối rồi anh Vô-lô-đi-a ạ!

- Chiều tối thì đã sao?
Đừng lo, vì em đi cùng với anh cơ mà.

Ô-li-a chạy lon ton bên cạnh, tuy cô cảm thấy hơi sợ, nhất
là ở khe cạn. Khe cạn khá sâu. Ánh mặt trời lúc xế chiều không chiếu được tới
đây, nên rất ẩm ướt và tối tăm.

Hai anh em bước ra khỏi khe cạn. Cánh đồng cỏ đã cắt tỉa
như trải ra trước mặt, xếp đầy những bó cỏ khô. Còn ở kiền ngay đó là rừng. Mới
một mùa đông mà Vô-lô-đi-a và Ô-li-a đã cảm thấy xa lạ đối với rừng, những cây
bạch dương sum xuê, những cây thông bù xù, những bụi hồ đào rậm rạp không thể lọt
qua được. Vô-lô-đi-a và Ô-li-a thấy hình như rừng trở nên rậm hơn. Mặt trời đã
lặn. trong lòng Vô-lô-đi-a bắt đầu thấy lo lo. Nhưng không thể rút lui. Cậu vẫn
tiến lên phía trước Ô-li-a đi theo sau. Bóng tối của khu rừng đã từ từ kéo đến.
Cây cối vây quanh. Không thấy bầu trời, không thấy cánh đồng cỏ với những bó cỏ
khô nữa. Ở dưới chân cành cây kêu sột soạt.

- Bỗng nhiên bọn cướp xông vào chúng ta thì sao? - Ô-li-a
hỏi.

Vô-lô-đi-a biết ở khu rừng Cô-cu-ski-nô không có kẻ cướp.
Nhưng bất giác cậu nhìn tứ phía vẻ lo sợ, tưởng như sau mỗi cái cây đều có người
nào đó ẩn nấp.

- Vô-lô-đi-a, anh có sợ
bọn cướp không? - Ô-li-a hỏi thầm.

- Không sợ. Và em cũng
đừng sợ. Ở đây không có bọn cướp đâu.

“U-up! - có tiếng động phát ra từ trong rừng. Mạnh và ngắt quãng. - Up!”

Gió bay qua ở phía trên, trong đám lá cây có tiếng động
rì rào. Ô-li-a vội bám lấy anh.

- Cái gì thế?

- Chắc là con cú.
Đúng, hẳn là con cú. Em đã nghe nói về giống cú chưa? Đó là loài chim thông
minh nhất.

- Vô-lô-đi-a, ta về
nhà thôi.

- Đi.

Cậu dắt Ô-li-a, vừa gạt những bụi cây, vừa thận trọng dò
đường trong cảnh nhá nhem tối. Rừng đầy những cảnh củi khô. Hai anh em vấp ngã.
Vô-lô-đi-a cảm thấy bàn tay cô em gái run run trong
bàn tay cậu. Bỗng nhiên cậu có cảm giác như hai anh em bị lạc. Trống ngực đập
thình thình. “Tại sao mình lại dẫn Ô-li-a đi làm gì kia chứ?”

- Sáng mai chúng ta sẽ bơi thuyền, Ô-li-a ạ
-Vô-lô-đi-a nói để lấy thêm can đảm, - anh sẽ chỉ cho em xem một chỗ thật đẹp.
Anh còn nhớ một bãi rừng thưa rất nhiều cây dâu, anh em mình chỉ cần mười phút
là lấy được đầy làn…

Cậu nói để xua tan nỗi sợ và làm cho Ô-li-a yên tâm. Cậu
nói cho đến khi cây cối quang hẳn ra, trời sáng hơn, trước mặt lại hiện ra cánh
đồng cỏ đã cắt và khe cạn. Bên kia khe cạn là làng Cô-cu-ski-nô.

- Ngôi nhà của chúng ta kia kìa! - Ô-li-a kêu lên. - Anh
Vô-llo-đi-a, em hầu như không sợ.

Vô-lô-đi-a bây giờ cũng làm ra vẻ không sợ chút nào.

Cậu rất yêu mến Ô-li-a. Hôm nay, Ô-li-a mới biết cậu
yêu quý cô em gái thân yêu của mình tha thiết như thế nào.

Hai anh em vui vẻ đi về nhà. Ở phía sau vang lên bài
hát. Đó là những cô gái nông dân đi làm đồng về cũng cất cao giọng:

Vườn cây xanh xanh của ta ơi,

Xanh, xanh ngắt nữa đi.

Những bông hoa đỏ thẫm của ta ơi,

Nở, nở rộ nữa đi.

CẬU HỌC SINH TRUNG HỌC

Vào một ngày tháng tám năm 1879 Vô-lô-đi-a đã đến trường
trung học để thi vào lớp một. Tòa nhà hai tầng bằng đá nằm ở trung tâm thành phố
gần sông Von-ga. Vô-lô-đi-a sẽ học ở đây tám năm.

Những trước tiên phải đi thi đã. Các thầy giáo ngồi
nghiêm nghị sau chiếc bàn giám khảo. Còn học sinh được gọi tên theo thứ tự.
Vô-lô-đi-a mạnh bạo bước lên bảng. Các thầy giáo hỏi, Vô-lô-đi-a trả lời lưu
loát. Các thầy ra bài toán. Cậu giải rất nhanh.

- Cậu bé có tài này là
con ai thế! - một thầy giáo hỏi người bên cạnh.

- Con trai ông I-li-a
Ni-cô-lai-ê-vích U-li-a-nốp, giám đốc các trường học bình dân.

Hồi đó ông bố của Vô-lô-đi-a đã làm giám đốc. Không những
các thầy giáo ở Xim-biếc, mà ở toàn tỉnh Xim-biếc đều biết tiếng và kính trọng
ông.

- Người con trai có tài của ông I-li-a Ni-cô-lai-ê-vích
được chuẩn bị rất tốt, - các thầy giáo của trường trung học tỏ vẻ tán thưởng.

Và tất cả các môn Vô-lô-đi-a đều được điểm năm.

- Cậu học sinh trung học Vô-lô-đi-a! Cậu học sinh
trung học Vô-lô-đi-a của chúng ta! - mọi người ở nhà reo lên đón cậu.

Anh chị và các em tíu tít chạy đến chúc mừng. Bà mẹ mặc
thử cho Vô-lô-đi-a bộ đồng phục học sinh trung học có hàng khuy lấp lánh. Ngày
mai cậu sẽ vào lớp một. Bà mẹ nhìn ra cửa sổ. Bây giờ bà đã có hai cậu học sinh
trung học, Xa-sa, Vô-lô-đi-a và một cô học sinh trung học A-nhi-u-ta. Thời gian
trôi đi, các con đều lớn lên.

Buổi tối, trong phòng ăn của gia đình U-li-a-nốp thắp
lên ngọn đèn treo có chụp màu trắng. Bọn trẻ ngồi quây quần chuẩn bị bài vở
ngày hôm sau. Mi-chi-a năm tuổi không có bài vở gì cả. Cậu lúi húi vẽ chiếc tàu
thủy có ống khói và những lớp sóng cao của sông Von-ga. Vô-lô-đi-a nhanh chóng
làm xong mọi việc, vì ngày đầu tiên đối với cậu học trò lớp một bài vở cũng
chưa phải nhiều lắm. Cậu vót nhọn các bút chì. Cậu thích có nhiều bút chì và đầu
bút chì bao giờ cũng vót thật nhọn. Bút chì trông phải đẹp mắt. Các cuốn vở
không một vết mực, những cuốn sách giáo khoa đều có bìa bọc. Cậu xếp tất cả vào
túi, chuẩn bị xong xuôi mọi thứ cho ngày mai. Bây giờ biết làm gì? Với vẻ láu lỉnh,
cậu bắt đầu làm cái gì đó bằng giấy. Vậu làm con châu chấu rồi chạy đến chỗ bà
bảo mẫu xin một sợi chỉ buộc vào. Cạch! - con châu chấu bỗng nhảy đến chỗ
A-nhi-u-ta, sượt qua mũi xuống cuốn sách giáo khoa.

- Vô-lô-đi-a, đừng có quấy rầy. Em lại đùa rồi đấy!

Vô-lô-đi-a kéo sợi chỉ, con châu chấu biến mất. Giây
lát sau lại có tiếng cạch - con châu chấu nhảy lên cuốn vở của Xa-sa.

- Vô-lô-đi-a, bỏ cái trò ấy đi!

Con châu chấu vẫn không biến mất. Nó nhảy nhảy và
không chịu dừng lại.

Phía sau bàn có tiếng cười khúc khích, mãi cho đến khi
có ai đó bắt được con châu chấu, dứt sợi chỉ và ném đi.

- Khẽ chứ, - A-nhi-u-ta bảo Vô-lô-đi-a.

Vô-lô-đi-a không chịu yên. Cậu hăng lên. Hình như cậu
còn muốn đùa nữa thì phải?

- Mi-chi-a, Mi-chi-a!

Mi-chi-a khẽ kêu rít lên, linh cảm thấy có cái gì buồn cười,
nhưng cũng có thể đáng sợ. Vô-lô-đi-a đặt hai ngón tay lên thái dương, làm điệu
bộ dọa dẫm:

- Con dê có sừng, con
dê hay thúc đây này, nó húc ai bây giờ?

- Đừng húc tôi, đừng
húc tôi!

Hai cái sừng tiến lại gần Mi-chi-a, đi từ từ, rồi đến thẳng
chỗ cậu bé. Mi-chi-a vừa kêu thét lên vừa cười, lăn nhào từ trên ghế xuống gầm
bàn. Ông bố xuất hiện ở ngưỡng cửa:

- Vô-lô-đi-a đi lên chỗ ba.

Vô-lô-đi-a bước vào phòng làm việc của bố, vẫn chưa nguôi
những trò tinh nghịch. Ở đây có tủ sách, ở khoảng tường giữa hai cửa sổ có kê một
chiếc bàn giấy lớn, còn bức tường khác có đặt một chiếc bàn con hình bầu dục và
một đi-văng để tiếp khách.

- Ngồi xuống đây, - ông bố nói, - đợi ba một lát.

Và ông lại miệt mài làm việc. Từ nhỏ Vô-lô-đi-a đã biết
kính trọng căn phòng làm việc của bố. Ông làm việc rất nhiều. Ông đi khắp tỉnh,
đến các trường học ở nông thôn cách xa hàng trăm dặm cả vào những ngày đông giá
rét lẫn những ngày thu ảm đạm. Có lẽ không một trường tiểu học nào ở tỉnh
Xim-biếc mà ông bố của Vô-lô-đi-a lại không đi tới để giúp đỡ các giáo viên. Về
nhà ông cần làm báo cáo, dựng kế hoạch, viết bài và những bản tin sư phạm. Ông
làm việc từ sáng đến khuya.

- Vô-lô-đi-a, - một lát sau ông bố gọi.

Vô-lô-đi-a vui vẻ đi lại gần. Những trò tinh nghịch đã bay
khỏi đầu cậu.

- Công việc ngày hôm nay ba đã làm xong, - ông bố vừa nói
vừa xếp gọn giấy tờ vào cặp giấy. - Làm xong việc rồi thì tha hồ chơi. Nhưng
không được quấy rầy người khác, - ông khẽ đe Vô-lô-đi-a với giọng ôn hòa. - Thế
nào, mọi việc ở trường ra sao, cậu học sinh trung học?

Vô-lô-đi-a kể lại mọi việc. Chẳng có gì đặc biệt cả.

Từ phòng lớn vọng đến tiếng nhạc khe khẽ.

Hai bố con lặng lẽ bước vào. Trong cảnh tranh tối tranh
sáng, những ngọn nến trên đàn dương cầm đã được thắp sáng. Bà mẹ đang chơi đàn.
Bà chơi một điệu gì đó trong sáng như một ngày nắng hè. Vô-lô-đi-a cùng với bố
ngồi ở một góc, lắng nghe điệu nhạc hồi lâu.

HÃY LÀ NGƯỜI BẠN

Một hồi chuông vang lên báo giờ vào học. Học sinh lớp hai
ồn ào đi về chỗ. Đang là mùa xuân. Các cửa sổ đều mở. Bỗng một con mèo từ ngoài
đường nhảy tót lên bệ cửa sổ.

- Người mới đến lớp ta kìa! - một học sinh nào đó vừa cười
vừa kêu lên.

Thầy giáo bước vào lớp. Cậu bé ngồi cạnh cửa sổ không kịp
nghĩ ngợi gì cả, liền túm lấy con mèo, nhét vội vào bàn và đậy nắp lại.

- Chúng ta bắt đầu học, - thầy giáo vừa nói vừa đi lên bục
giảng và sửa lại cặp kính mũi.

“Meo”, - con mèo bỗng kêu.

- Cái gì thế? - thầy giáo cau mày vẻ nghiêm khắc.

Trong lớp vang lên tiếng ho lẫn tiếng xì xào, sách vở
của ai đó rơi xuống loạt soạt. Học sinh cố dùng mọi cách để làm át tiếng mèo
kêu trong hộp bàn. Nhưng con mèo càng kêu dữ: “Meo, meo, meo.”

Cậu bé giấu mèo hoảng hốt, sợ thầy giáo trừng phạt, liền
thả mèo ra. Con mèo ngang nhiên đi giữa dãy bàn, tiến thẳng về phía bục giảng của
thầy giáo, như không có chuyện gì xảy ra. Học sinh trong lớp đều lặng người đi.

Thầy giảo đỏ mặt, kính cặp mũi rơi ra, treo lơ lửng ở
đầu sợi dây.

- Sao mà tệ thế này? Ai
đem đến thế?

- Chúng con không đem đến.
Nó tự nhảy qua cửa sổ vào ạ.

- Ai vừa giấu. Nhận ngay
đi. Ai vừa giấu con mèo? Nói tên ngay.

Không một tiếng đáp lại. Không ai nhìn về phía cửa sổ,
nơi cậu bé đang ngội dựng tóc gáy vì tiếng quát.

- Định làm loạn à! - thầy giáo nói. - Tôi sẽ báo lên ông
giám thị.

Giờ học đã trôi qua trong bầu không khí trầm lặng. Hồi
chuông hết giờ vang lên, thầy giáo ra khỏi lớp. Vô-lô-đi-a bước ra trước lớp:

- Chúng ra sẽ im lặng
nhé!

- Đúng đấy, U-li-a-nốp
ạ! Không được tiết lộ! Nhất quyết nhé!

Từ dãy bàn cuối một học sinh cao kều lẳng lặng đứng dậy.
Hắn ra ngoài. “Hắn đi đâu thế?” - Vô-lô-đi-a ngạc nhiên, nhưng không có thì giờ
suy nghĩ. Tất cả đều bàn tán về câu chuyện vừa rồi. Không ai để ý tới việc Cao
Kều đi đâu.

- Các cậu ạ, -
Vô-lô-đi-a nói, - thống nhất, im lặng nhé.

- Thống nhất! - cả lớp
ủng hộ.

Trong lớp vừa có cái gì lo sợ, vừa có cái gì thân ái, tất
cả đều phấn khởi hẳn lên. Bỗng nhiên Cao Kều trở về, im lặng ngồi vào bàn của
mình.

Cuối giờ giải lao tên giám thị đến, hắn ưỡn ngực trong bộ
chế phục màu xanh:

- Về chỗ!

Ngay tức khắc tất cả học sinh lớp hai đi vào bàn của
mình. Chuyện gì sẽ xảy ra?

Tên giám thị đưa cặp mắt lạnh lùng đảo khắp các học sinh
và… dừng lại ở cậu bé đã giấu con mèo.

- Bước ra khỏi lớp! Hạnh kiểm một. Đi vào phòng giam cá
nhân.

Cậu bé sửng sốt cúi đầu đi vào phòng giam. Tên giám thị bỏ
mặc cả lớp. Các học sinh đều lấy làm ngạc nhiên. Làm sao tên giám thị có thể biết
được nhỉ? Có ai đó đã hớt lẻo? Ai?

Vô-lô-đi-a liếc nhìn Cao Kều.

Hai tai hắn đỏ lên, cặp mắt đảo quanh có vẻ sợ hãi…

Lớp học bắt đầu lủng củng. Mỗi trò tinh nghịch, thậm chí nhỏ
nhất, tên giám thị đều biết. Ngày nào cũng có học sinh hoặc bị tống vào phòng
giam, hoặc bị nhịn cơm trưa. Học sinh bắt đầu nghi kị nhau, sợ kết bạn với
nhau. Tất cả đều xoay quanh một ý nghĩ: “Kẻ nào, kẻ nào hay hớt lẻo với
tên giám thị?”

Một hôm trong giờ nghỉ giải lao Vô-lô-đi-a nhìn thấy: Cao
Kều nhảy tót từ phòng làm việc của tên giám thị ra rồi lẩn vào đám học trò.
“Chính hắn”, - Vô-lô-đi-a hiểu.

- Hắn hay hớt lẻo, - Vô-lô-đi-a không còn do dự nói với
các bạn.

Nhiều người cũng đã dự đoán như vậy.

- Mình sẽ nện cho nó một
trận! - Đi-ma An-đrê-ép, bạn của Vô-lô-đi-a, tức giận siết chặt nắm đấm. - Các
cậu ơi, chúng ta sẽ rình nó ở ngoài đường, cho nó một bài học.

- Tốt hơn hết sẽ cho
nó một bài học bằng cách khác, - Vô-lô-đi-a nói. - Chúng ra sẽ tuyên bố tẩy
chay.

- Tẩy chay nghĩa là thế
nào?

- Là đừng nói chuyện,
đừng trả lời các câu hỏi, không thèm để ý đến hắn, coi như không có hắn vậy.

Vừa lúc đó Cao Kều bước vào. Như mọi bận, cặp mắt hắn lấm
la lấm lét. Hắn thoáng thấy tất cả đều im lặng khi hắn đến.

- Giờ học này là giờ gì nhỉ? - Cao Kều khẽ hỏi.

Không ai trả lời cả. Một bạn chạy lên bảng viết rõ to:
“Không nói chuyện với những tên hớt lẻo” - rồi lấy khăn lau xóa ngay.

Cao Kều co mình lại, rụt đầu vào vai, đi về bàn mình.

Vô-lô-đi-a khinh bỉ hắn. Khi Cao Kều đi qua,
Vô-lô-đi-a liền ngoảnh mặt nhìn chỗ khác. Và tất cả đều làm như vậy. Cao Kều trở
nên cô độc, hoàn toàn cô độc. Không ai thèm nói với hắn một lời. Không ai thèm
nhìn hắn, để ý đến hắn.

Hết ngày này đến ngày khác, hết tuần này đến tuần khác
cứ như thế. Người tố cáo không còn nữa. Những vẫn như trước đây, tất cả không
thèm để ý đến hắn.

Một lần sau khi tan học, Vô-lô-đi-a chạy vào lớp bỏ trống
để lấy cuốn sách bỏ quên. Cao Kều ngồi ở bàn cuối và đang khóc. Tim Vô-lô-đi-a
bỗng se lại, cậu lại gần:

- Cậu đã hối hận chưa? Cậu sẽ không làm như thế nữa chứ?

Cao Kều khẽ ngẩng bộ mặt run rẩy, còn đầm đìa nước mắt.
Đã có người nói với hắn, hắn không tin vào tai mình!

- Không bao giờ, không
bao giờ! - hắn nói ấp úng. - Mình sợ. Mình sợ ông giám thị đuổi mình khỏi trường
trung học vì mình học kém. Mình không thể sống thiếu bạn bè như thế này được!

- Cậu hãy là người bạn,
thì cậu sẽ có những người bạn, - Vô-lô-đi-a đáp. - Thôi được, chúng mình tin cậu.
Mình sẽ bảo các bạn rằng có thể tin cậu.

Và cuộc tẩy chay Cao Kều ở lớp hai chấm dứt. Không ai
nhớ lại chuyện quá khứ nữa. Cao Kều đã được một bài học suốt đời…

Và tất cả học sinh lớp hai cũng được một bài học.

LO ÂU

Xa-sa không thích cái lối hình thức chủ nghĩa và kỷ luật
cưỡng bức của trường trung học. Nhưng anh học rất giỏi, tốt nghiệp với huy
chương vàng. Vô-lô-đi-a cũng không thích những quy chế của trường trung học và
cũng học rất giỏi, là học sinh xuất sắc từ lớp đầu đến lớp cuối.

Khi Vô-lô-đi-a còn học ở các lớp dưới, ông bố đã áy
náy không biết Vô-lô-đi-a sau này có quen lao động không? Cậu đã tỏ ra rất có
khả năng, dễ dàng nắm được cái mới. Sau này ông bố tin rằng Vô-lô-đi-a biết làm
việc một cách kiên trì. Thật ra, cậu đã học được ai đó: trong nhà luôn luôn có
sự kính trọng đặc biệt đối với lao động.

Xa-sa đã tốt nghiệp trung học và vào trường đại học Tổng
hợp Pê-téc-bua. Trước khi đi Pê-téc-bua, hai anh em tới khu Vê-nhét - đó là tên
gọi cái bờ dốc cao ở Xim-biếc đổ ra sông Von-ga. Từ hồi nhỏ hai anh em đã yêu
khi Vê-nhét. Phía trên là cả một bầu trời bao la. Từ nơi đây có thể nhìn ra những
miền xa xăm vô tận.

- Anh thích cái gì nhất
trong con người ta? - Vô-lô-đi-a hỏi.

- Lao động. Kiến thức.
Tính trung thực, - Xa-sa đáp. Rồi suy nghĩ một lát, anh nói thêm: - Theo anh,
ba của chúng ra chính là con người như vậy.

Những lời nói của Xa-sa về ông bố đã lập tức sâu vào
tâm khảm Vô-lô-đi-a. Vô-lô-đi-a có tính tự chủ và dứt khoát, nhưng cậu đã bắt đầu
lo âu: bố đi công tác xuống các trường học nông thôn đã quá thời hạn trở về từ
lâu, mà vẫn chưa thấy về.

Vô-lô-đi-a học trong căn phòng nhỏ của mình ở gác lửng.
Căn phòng ấy luôn luôn ngăn nắp, trật tự không chê vào đâu được. Không một mẩu
giấy vương xuống sàn, chiếc bàn giấy nhỏ không bày bừa những vật linh tinh
khác. Cạnh đó là căn phòng của Xa-sa cũng nhỏ như vậy. Căn phòng trống trải. Đã
sang năm thứ ba Xa-sa học ở trường Đại học Tổng hợp Pê-téc-bua. Và A-nhi-u-ta
cũng đang học ở trường cao đẳng nữ ở Pê-téc-bua. Vô-lô-đi-a buồn nhớ A-nhi-u-ta và Xa-sa, nhất là nhớ
Xa-sa. Khi Xa-sa sống ở nhà, hai anh em thường hay trao đổi về những cuốn sách
đã đọc, về những chuyện xảy ra trong cuộc sống, nói chuyện với nhau hàng giờ liền.
Họ nói đủ thứ chuyện rất lý thú.

- Hồi tưởng như vậy là đủ rồi, - Vô-lô-đi-a tự chấm dứt,
- bắt tay vào công việc thôi!

Vô-lô-đi-a đã học bài xong. Vẫn như hồi còn nhỏ, cậu thường
chuẩn bị rất chu đáo túi sách cho ngày mai. Suốt cả buổi tối Vô-lô-đi-a đọc
sách. Cậu có một kế hoạch đọc rất nhiều! Trong số những cuốn sách về lịch sử, về
sự tổ chức xã hội và cuộc sống của nhân dân. Vô-lô-đi-a đọc Tuốc-ghê-nhép,
Pu-skin và cả Lép Tôn-xtôi nữa.

Các thầy giáo của trường trung học không hề biết rằng cậu
còn đọc những tác phẩm của Đô-brô-li-u-bốp, Pi-xa-rép, Bê-lin-xki, Ghéc-xen. Những
cuốn sách này nói về những điều Vô-lô-đi-a chưa từng nghe thấy trong các giờ học
ở trường trung học: sách vạch ra cho ta thấy rõ sự bất công trong xã hội.

… Vô-lô-đi-a rời khỏi những trang sách, liếc nhìn đồng hồ.
Chà, mình mải đọc quá! Cần phải xuống thăm mẹ. Cậu cất sách vào bạn và chạy xuống
phòng ăn ở phía dưới.

Bà mẹ không ở đó một mình. Người bạn và người đồng sự của
bố là I-van I-a-cô-vlê-vích I-a-cô-vlép ghé đến chơi khoảng một giờ với tình
nghĩa xóm giềng. Ông là người Tsu-vát, làm thanh tra các trường Tsu-vát, là một
người có học thức, hăng hái bảo vệ dân tộc nhỏ bé của mình bị chính quyền Nga
hoàng ngược đãi. I-a-cô-vlép vốn bình tĩnh, đầy phẩm chất tốt đẹp, đã chân tình
nói với bà mẹ:

- I-li-a Ni-cô-lai-ê-vích của chúng ra rất tốt, rất cao cả
ở chỗ trong công tác của mình ông quan tâm không phải tới việc làm vừa lòng cấp
trên, mà tới lợi ích của nhân dân. I-li-a Ni-cô-lai-ê-vích đã làm nhiều việc tốt
cho chúng tôi, những người Tsu-vát và cả những người Moóc-đvin. Ông đã mở biết
bao các trường học cho người Tsu-vát, nhưng ông đã khẩn khoản nài xin, cố hết sức
để đạt được.

Bà mẹ nói:

- Không hiểu sao nhà
tôi đi lâu vậy. Tôi rất lo cho nhà tôi!

- Bác Ma-ri-a A-lếch-xan-đốp-na,
đừng vội sốt ruột. I-li-a Ni-lai-cô-ê-vích là một người rất say mê công việc,
chắc là bận việc ở trường nào đó. Và lại đường sá đâu có gần.

Từ trong phòng lớn vang lên tiếng nhạc khe khẽ. Ô-li-a
chơi bản nhạc của Tsai-cốp-xki. Mọi người đều im lặng lắng nghe.

Nhưng có tiếng gì đó? Tiếng lục lạc. Tiếng lục lạc vang
lên phía dưới cửa sổ và dừng lại ngay cổng. I-li-a Ni-cô-lai-ê-vích bước vào,
ông mặc áo tu-lúp(1) choàng ra ngoài áo măng tô đồng phục, những giọt băng đọng
lại ở râu cằm, toàn thân lạnh buốt.

(1)Áo lông vạt dài - N.D.

- Mạnh khỏe chứ, lạy
Chúa, mạnh khỏe chứ! - bà mẹ thở phào nhẹ nhõm.

Mọi người giúp ông cởi áo. Đem áo mặc trong nhà và giày tới.
Bày thức ăn ra bàn. Mời ông ngồi ăn. Ông cảm động, thấy ấm lòng, vuốt bộ râ ra
vẻ lúng túng:

- Chà, sau những chuyến đi đường đầy bão tuyết và giá lạnh,
về tới nhà thật là ấm cúng!

Khi những tiếng thốt lên đầu tiên đã chấm dứt và cặp má ửng
hồng vì giá lạnh của I-li-a Ni-cô-lai-ê-vích đã nhạt đi, Vô-lô-đi-a cảm thấy
ông bố rất mệt và buồn. I-van I-a-cô-vlép cũng nhận thấy ông bạn mình không
vui.

- I-li-a Ni-cô-lai-ê-vích, có chuyện gì không hay ư?

Nếp nhăn cay đắng đã hiện ra trên vầng trán hói của
I-li-a Ni-cô-lai-ê-vích.

- Hãy hình dung một
làng nhỏ thuộc vùng thảo nguyên cách Xim-biếc khoảng một trăm rưỡi dặm, cách đường
quốc lộ khoảng ba chúc dặm, nơi thâm sơn cùng cốc. Trường học đặt ở giữa khác
nào một túp lều hoang đơn độc. Gió thổi thông thốc tứ phía. Cạnh trường có một
gian buồng nhỏ của cô giáo, chẳng có sách báo gì cả. Củi cũng không có nốt. Có
thể như thế được không? Nghĩa là không dự trữ củi cho trường học đốt trong mùa
đông! Mà tất cả, chỉ vì cô giáo không chịu làm vừa lòng, không chịu cúi đầu trước
cường hào, trước tên trưởng thôn. Cô giáo bị ức hiếp, bị hành hạ. Thế mà chẳng
có ai bênh vực cả…

- Ba ơi, chính ba đã
bênh vực đấy! - Vô-lô-đi-a thốt lên.

- Bênh vực, nhưng rồi
bỏ đi. Còn cô giáo của chúng ta lại ở đó một mình chống chọi với tên cường hào.
Tên cường hào nắm trong tay cả làng. Nông dân chẳng có quyền gì cả. Ruộng đất
thì ít. Tất cả đất đều nằm trong tay bọn cường hào và địa chủ. Những người
nghèo từ nửa mùa đông đã phải ngồi nhà không có bánh mì ăn.

I-li-a Ni-cô-lai-ê-vích đi dạo trong phòng, cởi cúc áo ra ;
ông cảm thấy ngột ngạt ; trong cặp mắt ông có cái gì buồn rầu.

- Ông ơi, - Ma-ri-a
A-lếch-xan-đrốp-na nói vẻ lo lắng, - Ông mệt rồi đấy, ông cần phải nghỉ ngơi.

- Chà, Ma-sen-ca, bây
giờ đâu phải lúc nghỉ ngơi? Các trường học ở khắp tỉnh đang chờ đợi tôi. Các
trường học của chúng ta còn phải sống cực lắm.

- Ông ơi, tôi thấy lo
cho ông.

- Không sao cả,
Me-sen-ca, tôi vẫn còn vững chắc như cây sồi ấy. - ông I-li-a Ni-cô-lai-ê-vích
nói đùa. - Thế mà xung quanh có những cây sồi non đang lớn lên.

Ông bố ôm lấy Vô-lô-đi-a. Vô-lô-đi-a vươn dài người ra.
Cũng như ông bố, cậu có gò má hơi cao và vầng trán rộng. Sự âu yếm của người
cha đã làm cậu cảm động. Nhưng tính cậu vốn rụt rè.

Và để đáp lại, cậu chỉ lẳng lặng mỉm cười.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3