Hồ Quý Ly - Chương 12 - Phần 6

5

Trong các ngọn núi
cao của Đại Việt, núi Tản Viên và núi Yên Tử được coi là những núi thiêng.
Riêng núi Yên Tử được coi là đất tổ Phật giáo của Đại Việt. Núi cao trên ba
ngàn thước (thước ta = 1.069 mét) ngọn núi chót vót cao nhất vùng Đông Bắc, sừng
sững nằm nhìn ra vịnh Bái Tử Long, quanh năm mây phủ nên cũng gọi là Núi Mây Trắng
(Bạch Vân Sơn).

Người Việt tin rằng,
ở những ngọn núi thiêng, khí âm trong lòng đất nhờ chóp núi cao, nên đổ dồn về
tụ hợp tại đó, và khí dương trên trời thấy khí âm tụ hội, cũng nương theo những
đám mây trắng bay tới, để giao hòa. Sự thái hòa nhờ đó mà được xác lập tốt
lành. Cũng vì lý do đó, đạo Phật đạo Lão đều tìm cách xây chùa, quán trên các
ngọn núi. Thậm chí ở Trung Hoa đạo Phật đạo Lão xảy ra chiến tranh để tranh chiếm
núi thiêng. Ở Đại Việt, đạo Lão không phải quốc giáo nên may mắn không xảy ra
chuyện đó. Và ở Đại Việt, cũng vì lý do đó, nên các ngôi chùa nổi tiếng phần lớn
đều được dựng ở các danh sơn, ví dụ chùa Thầy ở lộ Quốc Oai, chùa Phật Tích ở Lộ
Bắc Giang, chùa Quỳnh Lâm và chùa Yên Tử ở vùng Đông Bắc...

Theo Sử ký của Tư
Mã Thiên, đoạn viết về Nhạc Nghị có nói khi nước Tần thâu tóm toàn bộ Trung
Nguyên, có Hà Thượng Trượng Nhân là một người rất giỏi đạo Hoàng Lão, là bậc
chân nhân của một thời. Thời nhà Tần các bậc chân nhân rất giỏi việc luyện đan,
làm thuốc. Hà Thượng Trượng Nhân có học trò giỏi là An Kỳ Sinh. Sang thời nhà
Hán, lúc đó nước ta còn bị nội thuộc nước Tầu, An Kỳ Sinh sang Nam Việt đến núi
Mây Trắng, thấy núi nhiều linh khí đã lên đỉnh núi dựng am cỏ, ở lại luyện đan,
chữa bệnh cho dân, từ đó núi có tên Yên Tử Sơn. Đến thời nội thuộc nhà Đường,
Tông Quang Đình viết bài ký “Động thiên phúc đại” có nói “Núi Yên Tử là một trong bảy mươi hai phúc địa của
nước Việt.”

Nhưng, danh dự to lớn
nhất đến với núi Yên Tử, phải kể từ khi vua Trần Nhân Tông của Đại Việt sau hai
lần đánh tan giặc Nguyên, đã rời bỏ ngôi báu, mặc áo nâu sồng. đi chân đất lên
núi thiêng tu Phật và thành lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đạo Phật nhà Trần
phát triển rực rỡ, góp phần tạo dựng nên văn hóa hài hòa Đại Việt. Hơn một chục
ngôi chùa được dựng ngay trên đất Yên Tử. Núi thiêng đã tỏa khí lành từ bi lên
khắp đất nước. Yên Tử đã trở thành tổ đình Phật giáo là một danh sơn bậc nhất
nước ta...

***

Sau khi Phạm Sinh
quay trở về Thăng Long tìm cha, sư Vô Trụ cũng quay trở về núi thiêng Yên Tử. Vị
du tăng đã lang thang cả một đời, đi đến đâu cũng tìm hết cách xoa dịu nỗi đau
khổ của người dân khốn cùng. Ông thấy mình đã già rồi, đã thấm mệt, tuổi già
không cho phép ông tiếp tục để du phương khuyến thiện, hành phật sự. Ông quay lại
suối rừng để làm việc cuối cùng, niệm phật, suy ngẫm tìm về với cái chân tâm vắng
lặng của mình.

Về cuối đời thiền
sư Huệ Quang đệ tam tổ Trúc Lâm đã gần tám mươi, già lắm rồi, ông tu tại chùa
Hun, Côn Sơn. Lúc đó Vô Trụ là một chú sa di chừng mười tuổi, suốt ngày đêm hầu
hạ tổ. Lúc nào chú cũng khoanh tay trước ngực rất lễ phép, chẳng lúc nào sao
nhãng công việc. Hòa thượng già rất thương chú, thường gọi đùa là “Chú bé
khoanh tay.” Hỏi đến chữ nghĩa kinh kệ, chú trả lời rất thông. Thiền sư Huệ
Quang ngạc nhiên:

- Ai dạy con học vậy?

- Thưa tổ, các sư
huynh dạy mặt chữ.

- Thời giờ đâu con
học?

- Thưa tổ, ban
trưa, ban tối, lúc tổ mệt ngủ thiếp đi, con lấy que viết chữ lên đất. Viết mãi
nên lu lu như in.

- Con thử đọc một
bài kệ nào cho ông nghe.

Chú bé lập tức đọc
vanh vách:

Tâm vương không tướng cũng không hình

Mặt tựa ly châu vẫn chẳng minh

Muốn biết đâu là “khuôn mặt thực”

Ha ha! Giữa trưa là nửa đêm.

- Bài đó của ai?

- Của ngài Tuệ
Trung thượng sĩ.

- Con hiểu thế nào?

- Dạ, con không hiểu,
nhưng con biết “Tâm” là điều quan trọng nhất của đức Phật.

- Ai dạy con bài kệ?

- Bẩm sư tổ, không
ai dạy... Con suốt ngày đứng hầu tổ. Con nghe tổ nói chuyện với khách, và con
nhập tâm.

Tổ Huyền Quang lấy
làm lạ. Từ đó, tổ dạy cho chú bé học hành cẩn thận. Được một năm, sư Huyền
Quang ốm nặng. Chú tiểu đêm ngày liền kề bên thầy. Có bận, nửa đêm sư tỉnh dậy,
chợt nghe thấy bên giường có tiếng khóc sụt sùi. Nhìn ra mới biết tiếng khóc của
chú tiểu. Sư nắm lấy tay chú bé bảo:

- Con nín đi! Người
tu hành đừng để cho tình cảm sai khiến.

- Thưa tổ, con biết,
nhưng tự nhiên nước mắt cứ chảy ra.

- Dạo trước, ta đã
giảng cho con bài “Sinh tử nhàn nhi dĩ.” (Sống chết, nhàn mà thôi) của ngài Tuệ
Trung, con không nhớ sao?

- Dạ, con còn nhớ.

- Con nghe đây. Sau
khi ta ra đi, con hãy đến học đạo với thiền sư Lãm Sơn. Ông ta là một ẩn tăng,
ít nói, nhưng là bậc đắc đạo trong rừng thiền...

Chú sa di mấy tháng
sau, tìm đến núi Lãm Sơn lộ Bắc Giang. Thiền sư Lãm Sơn theo thuyết “vô ngôn
chi giáo.” Hôm chú bé đến, sư bảo:

- Tổ Huyền Quang là
thầy ta. Ta nghe tổ nói ngươi đứng hầu mà thuộc lòng bài Tâm Vương, vậy đã có
chút duyên với Phật rồi đó. Nhưng ta sẽ không giảng giải gì hết. Tự nhà ngươi
phải tìm ra cái “bản lai diện mục” của mình. Sách đấy, kinh đấy, lục đấy, ngươi
hãy tự đọc. Đạo Phật có hàng ngàn cuốn sách, nhưng mỗi người ngộ đạo có khi chỉ
nhờ vào một câu. Hãy suy ngẫm đêm ngày, cho đến lúc nào hết suy ngẫm và bừng
sáng. Những lời của chư tổ thật ngược ngạo, bí hiểm, nhưng thực ra chẳng có gì
bí hiểm. Chẳng qua chư tổ dùng lời khó khăn để chọn lựa người. Con đường đi đến
chân giác thành Phật vốn xa lắc và đầy gian nguy, nên chi không thể thiếu chí
khí và không được hèn nhát. Phải nhảy qua núi cao, thõng tay đi trên vực thẳm mới
đến được bờ giác...

Từ đó, chú bé chăm
chỉ làm việc, đọc kinh và suy ngẫm. Chỉ có những giờ thiền định, chú mới được
ngồi lặng lẽ bên thầy. Thiền sư Lãm Sơn chẳng nói gì, nhưng chú cảm thấy ánh mắt
hiền từ ấm áp của thầy như luôn luôn ở bên chú, hộ niệm cho chú.

Chú sa di cứ tự vật
lộn một mình như vậy trong thời gian dài, cho đến khi thành niên, được thụ giới
cụ túc (chính thức trở thành sư). Một bận, thấy đang đọc kinh, thiền sư Lãm Sơn
hỏi:

- Này Vô Trụ, nhà
ngươi đang đọc gì vậy?

- Bẩm hòa thượng,
con đang đọc Phật Pháp.

- Đức Phật tổ há chẳng
nói, bốn mươi chín năm ta thuyết pháp song chẳng hề nói một lời nào cả...

Vô Trụ sửng người,
chưa biết trả lời ra sao. Hòa thượng liền nói.

- Nhà ngươi đang
mê. Thôi! Bỏ sách đấy. Hãy đến Yên Tử gặp thiền sư Vô Trước, ở đấy ít bữa, may
ra đầu óc ngươi có sáng ra chút nào.

Vô Trụ vâng lời thầy,
khăn gói lặn lội mấy ngày đến chùa Vân Yên trên núi thiêng. Người thủ tọa bảo
thiền sư Vô Trước ở am cỏ, trên đỉnh núi. Vô Trụ phải leo những bậc đá cheo
leo, nửa buổi mới tới đỉnh mây mù, tới am cỏ. Trời mù gió. Mây trắng khắp chốn,
như sữa trôi ngang núi. Rừng cỏ lau trắng xóa cong mình nhận cơn gió lạnh từ
ngoài biển đông thốc vào. Sư Vô Trước đang tĩnh tọa trong lều cỏ hẹp. Vô Trụ
không dám làm kinh động hòa thượng, người thầy tu trẻ quỳ trước cửa lều chờ cho
đến lúc xong buổi ngồi thiền. Vô Trụ đã quỳ lâu lắm. Sương mù đỉnh núi làm quần
áo ướt đẫm. kéo cái lạnh vào đến xương tủy, song người thầy chùa vẫn kiên trì
quỳ đợi. Gần sẩm tối, thiền sư Vô Trước mới bừng mở mắt, và hỏi.

- Nhà ngươi từ đâu
đến?

- Bẩm hòa thượng,
thầy con là Lãm Sơn sai con đến.

- À! Nhà ngươi đến
làm gì?

- Con đi tìm Phật
Pháp.

- Có đói khát lắm
không?

- Bạch hòa thượng.
Con vô cùng đói khát.

- Nhà có giàu có lắm
không?... Có nhiều châu báu lắm không?

- Bạch hòa thượng...
- Vô Trụ ngỡ ngàng như còn suy nghĩ. Thiền sư liền hất tay.

- Về đi về đi! Nhà
ngươi mê rồi. Nhà đầy châu báu còn đi tận đâu đâu... Về đi?! Về đi!

Sư Vô Trụ chợt bừng
tỉnh. Người thầy tu trẻ ngay đêm hôm đó xuống núi, quay trở về Lãm Sơn. Thấy học
trò bái lạy, hòa thượng Lãm Sơn hỏi:

- Ngươi bái lạy ta
cái gì?

- Con biết ơn thầy
vì thầy không giảng giải cho con.

- Ngươi đã ngộ được
cái gì?

- Thưa thầy, con đã
trở về nhà.

Hòa thượng Lãm Sơn
gật đầu.

Ít lâu sau, Vô Trụ
cuốn giẻ tẩm dầu lạc vào một ngón tay đốt cho cháy thành than mà vẫn ngồi thiền
điềm nhiên. Sư nguyện tu theo hạnh đầu đà, môi ngày chỉ ăn một bữa, và di du
tăng khắp miền đất nước. Sư gặp gỡ các vị thiền đức để học hỏi thêm về đạo. Sư
muốn giúp đỡ nhiều cho mọi người, nên đã học thêm cả võ đạo, y đạo. Gặp năm mất
mùa đói khát, giặc cướp nổi lên như ong, dịch bệnh truyền lan, người chết như
ngả rạ, sư đi hành cước đến một ngôi chùa làng ở lộ Quốc Oai, đã dừng chân,
ngày đêm xả thân chữa bệnh cứu đói cho dân làng, chữa khỏi bệnh cho nhiều người.
Xong việc, ông định ra đi, dân làng chạy theo đồng thanh xin ông ở lại. Ông bèn
dừng chân ở ngôi chùa quê nhỏ bé, hẻo lánh, cạnh cái đầm lớn tên gọi đầm Thiên
Nhiên. Chính tại ngôi chùa làng nhỏ bé bên bờ đầm ấy, sư cụ đã ra tay cứu giúp
chú bé vô thừa nhận Phạm Sư Ôn. Nhưng kỳ lạ thay? Chú bé lại không đi theo con
đường mà hòa thượng vạch ra. Thiên Nhiên tăng đã đi theo con đường nổi loạn. Sư
Vô Trụ lúc đó chợt hiểu thế giới này họp bởi triệu ức những cơ duyên, có những
duyên hợp để làm công việc hủy bỏ, lại có những duyên hợp khác để làm việc xây
dựng; dù ta có ý muốn làm thay đổi cũng chẳng được.

Tuy nghĩ thế, nhưng
khi gặp mẹ con Phạm Sinh hòa thượng lại ra tay cứu giúp cái thế hệ tiếp theo của
những con người vô thừa nhận. Rồi Phạm Sinh lại cưỡng lại những thiện ý của sư
cụ. Sư thở dài nghĩ: “Con đường của các bồ tát dạy ta là thế, dù có phải làm đi
làm lại nhiều lần.”

Thời gian thiền sư
hành cước đến Thăng Long, ông đã kết thân với Sử Văn Hoa và cụ lang Phạm. Ở
kinh đô sư mới hiểu đất nước đang biến chuyển với tốc độ thiên lý. Nhất là, gần
gũi cụ lang Phạm, ông biết được nhiều chuyện cung. Ông bảo cụ lang:

- Cư sĩ ạ. Chúng ta
sinh ra vào thời mạt pháp. Mà lúc này, có lẽ đang vào thời hắc ám. Về thôi! Ta
về với núi rừng thôi.

- Chúng ta đã già rồi.
Và có lẽ tôi cũng muốn về núi để viết một cuốn sách thuốc.

Thế là hai ông già
dắt díu nhau trở về núi thiêng Yên Tử.

***

Hai người leo lên
chùa Vân Yên, được biết thiền sư Vô Trước đã thị tịch. Vô Trụ ra tháp thắp
hương rồi quay về nhà tổ. Sư huynh Quốc Nhất thay thế thiền sư Vô Trước bảo Vô
Trụ:

Sư đệ đã già rồi,
chắc đã mỏi gót vân du, có muốn trở về làm bạn với suối rừng để dưỡng chân
không? Bẩm sư huynh, cho phép đệ được về nơi càng thanh vắng càng tốt. Cư sĩ Phạm
là danh y ở kinh sư cũng cùng một chí với đệ.

Thiền sư Quốc Nhất
gật đầu, cho họ ra ở nơi am cỏ vùng Thác Bạc.

Cứ nhìn quang cảnh
núi Yên Tử, người ta thấy ngay được sự lên xuống của Phật giáo Đại Việt. Thời
vua Trần Nhân Tông đệ nhất tổ Trúc Lâm, đây là núi tổ Phật giáo. Vua bụt tu
hành ở đó nên toàn thể phật tử và nhân dân đều hướng về đó. Đệ nhất tổ tu hạnh
đầu đà, không ưa xa hoa, nên chùa chiền trên núi hoàn toàn mộc mạc, nhiều chùa
chỉ là am cỏ. Đến thời vua Trần Anh Tông cùng với đệ nhị tổ Pháp Loa, Phật giáo
lúc đó cực thịnh. Điều khác trước, là các chùa chiền trên núi Yên Tử đều được
xây cất nguy nga đẹp đẽ, nhất là khu vực lưng chừng núi, quanh chùa Vân Yên. Mới
đến trước chùa, ta đã gặp ngay ngọn tháp bằng đá, nơi để xá lị của đức Nhân
Tông, cao ngất trời, chừng vài chục trượng. Sau tháp có ao nhỏ thả sen, và vườn
hoa. Leo lên sân chùa, ta trông thấy tòa Vân Yên Tự lợp ngói lưu ly màu xanh,
tám mái. Đối xứng hai bên tả hữu là lầu chuông, lầu khánh nguy nga. Vua Trần
Anh Tông muốn phát huy công đức của vua bụt Nhân Tông cha mình, nên đã phát tiền
công khố tu bổ cho chùa chiền Yên Tử rất nhiều. Các chùa nơi khác có nguồn kinh
tế do ruộng chùa cung cấp. Núi Yên Tử không có ruộng nước nên nguồn cung cấp
kinh tế do nhà nước cấp. Hàng trăm sư tăng của hơn một chục ngôi chùa đều ăn gạo
nhà nước, ăn muối nhà nước. Thậm chí, có cả một kho muối dự trữ trên núi, nơi
trữ muối gọi là am diêm...

Tiếp đó, đến đời
vua Trần Minh Tông. Vua không chú ý mấy tới đạo Phật. Thiền phái Trúc Lâm dần dần
sa sút. Nhà nước cắt dần cung cấp. Sư tăng trên núi phải rau cháo tự túc. Lẽ dĩ
nhiên sư tăng cũng giảm bớt, phải chuyển về các ngôi chùa làng ở khắp nơi, để
có cái sống mà tu hành. Nhà nước bỏ rơi thì nhân dân cưu mang đạo Phật...

Từ thời Trần Dụ
Tông trở đi, đạo Phật rơi vào chỗ suy sụp. Rồi giặc cướp nổi lên, Chế Bồng Nga
đánh phá, rồi Hồ Quý Ly ra sắc lệnh bắt sư tăng đi tu để trốn lính phải hoàn tục.
Đạo Nho bắt đầu lên ngôi, đạo Phật như chỉ còn thoi thóp.

Chùa chiền Yên Tử
lúc này, qua thời gian gần trăm năm, kể từ khi Trần Nhân Tông thị tịch, đã bắt
đầu đổ nát. Và vì chùa to đẹp quá, lại xây dựng trên núi cao nên không tài nào
có khả năng trùng tu lại được. Lầu chuông gác trống đã trông thấy cả trời; chùa
cả Vân Yên vì to rộng quá nên càng nhiều chỗ dột nát; sư tăng cố co kéo, đảo
mái, nhưng ngói dần dần vỡ, thiếu hụt, dù có cố dàn mỏng ra cũng không kín mái.
Tường vôi lở lói. Sư tăng còn ít, lại phải lo xuống chân núi trồng sắn trồng
khoai; chỉ còn sư cụ và chú tiểu thường trực tại chùa trông nom làm cho sạch sẽ
gọn gàng, nhưng cũng không ngăn nổi cỏ mọc xanh kẽ gạch và rêu bò lan vách tường.

Thiền sư Quốc Nhất
cho chú tiểu dẫn hai ông già ra vùng Am Dược. Hồi các tổ Trúc Lâm còn sống,
vùng Am Dược nhộn nhịp người đi về. Vùng Yên Tử nhiều cây thuốc quý, Trúc Lâm đại
sĩ tụ hợp một số nhà sư giỏi nghề thuốc về đây, hái lá, đào rễ cây. bào chế nhiều
loại thuốc để phát không cho dân nghèo. Nhưng bây giờ, Am Dược từ lâu không có
người ở. Chú tiểu dẫn đầu đi về hướng đông. Lối mòn xưa đã bị cây đại, cây leo
xóa hết dấu vết, chú phải dùng dao quắm phát quang, mở lối dẫn vào một khu rừng
già nguyên sơ. Rừng đại ngàn với những cây cao thẳng vút xòe tán rộng, cây nọ
ôm bóng cây kia, tỏa âm u, ngăn không cho, dù một vệt nắng, lọt rơi xuống đất.
Qua đoạn rừng già, họ gặp khu rừng trúc vàng. Trúc nhỏ và cao đều tăm tắp. Những
cây măng dầu xuân đã kịp chui qua màu lá xanh để chĩa thẳng lên trời, rồi cong
cong như hàng ngàn chiếc cần câu vàng đu đưa khi gió thổi. Họ giẫm chân trên thảm
cây khô lá mục, nhắm mắt lại chợt thấy mùi ngai ngái, thoang thoảng của thứ lá
ngải rừng, cũng có khi của lá tùng mục, mà biết đâu đấy có thể của một loài hoa
rừng nào đó mà ta chẳng biết.

Qua khỏi ngọn thác
nhỏ trắng xóa đổ xuống một vũng ao núi, trong suốt nhìn thấu đáy, là một khoảng
đất rộng bằng phẳng. Một chiếc am nhỏ, tường xây đá, nằm dưới một cụm dăm cây
xích tùng trồng đã trăm năm kể từ thời vua bụt đi tu, nay đã vừa người ôm. Đó
là am Hoa. Vườn hoa bỏ hoang từ vài chục năm rồi nhưng vẫn còn dấu vết. Những bụi
bạch trà đại, đóa mọc ngang đầu người, hoa to như những chiếc chén tống trắng
muốt. Những bụi mẫu đơn đỏ, vàng, trắng. xếp hàng trước cửa am. Những bụi hoa
chống cự bao năm với cỏ hoang, nên trở thành hoa dại dầy sức sống, chúng um tùm
xanh tốt, gặp tiết xuân, nở hoa tưng bừng. Hai ông già đi thăm cả am Dược gần
đó, với vườn thuốc bỏ hoang, nhưng thật thú vị, bởi vì cây thuốc càng hoang sơ
càng quý, chúng phải chống cự mãnh liệt với khắc nghiệt thiên nhiên nên dược
tính của chúng càng mạnh. Họ cắt cỏ tranh, chặt tre rừng lợp lại hai chiếc am
Hoa vào am Dược. Họ quét dọn bàn thờ Phật, dựng lại những pho tượng đã tróc sơn,
bạc màu vì mưa nắng. Họ lại trồng sắn trồng khoai, trồng thuốc và cả trồng hoa.
Họ lại tụng kinh, viết sách. Một sư, một cư sĩ một chú tiểu thay nhau xuống các
làng chân núi thăm bệnh cứu người.

Cho đến mùa xuân
năm nay, sư Vô Trụ đột nhiên cảm thấy bồn chồn lạ lùng. Ông thầm nghĩ: “Ta đã
già quá rồi mấy tháng nay chân ta không xuống núi nổi nữa. Cả ông bạn họ Phạm của
ta cũng vậy. Thời tiết đã đến rồi sao? Tất cả mọi chuyện xuống núi lúc này đều
nhờ vào chú tiểu Vô Tâm...”

Đêm hôm qua, khắp
người đau nhức, sư Vô Trụ cả đêm không ngủ. Quá nửa đêm, gió nổi đùng đùng. Cơn
gió lạnh cuối mùa sao mà dữ dằn. Những cây xích tùng reo lên vu vu. Rồi mưa đổ
xuống. Cơn mưa đầu mùa sao lắm nước vậy. Một lúc sau nghe tiếng con suối đổ xuống
thác rầm rầm. Giun dế trong rừng, lũ nhái ngoài suối, những con ếch con cóc
trong các hốc đá đều cất vang đủ giọng cao thấp đón mưa. Rồi cả tiếng con nai mừng
cỏ mọc, tiếng con hổ gọi giao duyên, một con chim đêm to vỗ cánh phành phạch,
tiếp theo là lũ khỉ nháo nhác vừa kêu vừa chạy... Sao lại vậy? Rừng đêm nay sao
nhiều tiếng động? Cảm giác như tiếng động mỗi lúc mỗi nhiều hơn, mỗi to thêm.
Trước là một tiếng của một con hổ. Sau, hình như có tiếng cả chục con. Tiếng à
uôm từ mỏm đá này truyền sang mỏm khác. Có con hổ trước còn ở xa, sau tiến lại
gần am. Có lẽ nó đứng ngay ở gốc cây xích tùng to nhất, gần nhất mà kêu. Tiếng
kêu ngân vang rung cả mái là. Có lẽ nó vươn cổ lên trong mưa mà kêu bằng một sắc
điệu trầm trầm thê thiết. Tiếng kêu hình như tức giận lại hình như khiếp hãi,
không hiểu con vật khổng lồ hung dữ đó muốn báo hiệu một cái gì cho rừng sâu.
Chỉ biết rằng khi con vật ấy cất lên, thì muôn vật khác đều bặt lặng. Rừng núi
Yên Tử lúc đó chỉ còn tiếng mưa rơi, suối réo ầm ào, và tiếng con hổ oang
oang... uôm uôm... thảm thiết. Rống lên một lúc, con vật đột nhiên ngừng kêu.
Núi rừng chợt rơi tõm vào sự lặng ngắt. Chỉ còn tiếng rào rào của mưa và tiếng ầm
ầm của con suối. Cả đến gió lúc này cũng yên. Trong cái nền âm thanh đều đều của
nước ấy, chợt nghe thấy một tiếng động lạ soạt soạt. Nghe kĩ mới đoán ra đó là
tiếng con hổ mài móng vuốt trên thân cây xích tùng.

Sư Vô Trụ ngồi đọc
kinh thâu đêm cho đến sáng. Cư sĩ họ Phạm cũng ngồi thiền sau lưng người đồng đạo.
Hôm sau, trời tạnh. Vào lúc quá ngọ, khi hai người đang ngồi uống trà, sư tiểu
xuống núi trở về dẫn theo hai người một trai một gái. Họ quỳ xuống vái lạy sư
Vô Trụ:

- Học trò thật đắc
tội. Bao năm nay mới về thăm thầy.

Hòa thượng nhìn
chàng trai một lát, nhận ra ngay:

- Phạm Sinh! Con đấy ư? Ta chờ con đã bao lâu nay. Thảo nào, dạo này ta thấy sốt
ruột. Đêm qua rừng động, ta chợt nhớ tới con, và cầu xin đức Phật hộ trì cho
con. Thì nay, con về thật rồi. Về thật rồi. - Sự sung sướng hiệu rõ trên nét mặt
ông già mặc dầu ông là người tu hành. Ông chỉ tay vào cô gái đang quỳ bên cạnh.
- Còn vị này là ai? À, ta hiểu rồi. Có phải là vợ con đó không?

Được biết Thị Hạnh
là con gái Sử Văn Hoa, hai ông già ngậm ngùi cho số phận người bạn già tài hoa
viết sử ở Thăng Long.

Tối hôm đó, hai thầy
trò ngồi dưới hoa trò chuyện. Phạm Sinh nói:

- Thưa thầy, con thật
mê muội. Trước kia lòng con lúc nào cũng nung nấu một chí căm thù. Thậm chí ngột
ngạt vì nó, có lúc muốn hủy bỏ cả thân mình vì nó... May mà gặp duyên...

- Ta rất mừng vì
con đã về núi, đã rũ thị phi...

- Thưa thầy, con đã
gặp được ông ta...

- Ông ta?

- Vâng, ông quan
thái sư đó, là người đại chí. Đúng vừa có chí lớn lại vừa đại trí, cũng là con
người lạnh lùng như băng. Con căm ghét ông ta đến cùng cực. Nhưng gặp mặt ông
ta, con lại bị hấp dẫn vô cùng. Cứ tưởng đó là loài yêu quái ngậm máu phun người
chẳng tanh, nhưng không phải. Ông ta thông minh, có thể nói sâu sắc đến tinh tế,
nhưng đầy tham vọng. Nói thế nào cho đúng đây... phải, tham vọng đến độ ngạo mạn.
Vì thế cho nên, đầy rẫy những kẻ thù. Và kẻ thù của ông cuồng vọng cũng không
phải nhỏ, ý chí cũng không phải vừa. Hai ý chí cuồng nộ gặp nhau... ắt là có
máu. Họ chẳng từ một thủ đoạn nào... Nói thế nào nhỉ? Vừa tàn bạo đến cùng cực...
nhưng lại vĩ đại vô cùng. Vừa đáng căm giận, lại vừa đáng thương đáng kính...
Và bao trùm lên tất cả là một nỗi cô đơn đến kinh hoàng. Thưa thầy, con nói
năng thật lộn xộn. Ai cô đơn? Ông ta? Hay kẻ thù của ông ta? Hay chính là con?

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3