Hồ Quý Ly - Chương 04 - Phần 1

Chương 4: Cái chết của ông vua già

1

Âm mưu như lũ mèo
hoang, trong đêm den, đi giày nhung, nhẹ nhàng len lén đến gặp nhau. Lúc ông
vua già Nghệ Tông đang hấp hối này chính là lúc âm mưu lồng lộn nhất.

Nguyễn Cẩn cứ tưởng
Trần Khát Chân và Trần Nguyên Hàng không gặp mặt nhau trong giờ phút này; nhưng
chính lúc Cẩn đang bẩm trình riêng với thái sư Quý Ly trong mật thất, thì Trần
Nguyên Hàng đã giả trang, đến gặp Khát Chân. Nhà Nguyên Hàng ở gần Văn Miếu,
sát Đại Hồ là khu hồ lớn chạy dài suốt từ cửa nam hoàng thành đến vùng Trại
Mai. Nguyên Hàng áo tơi nón lá cùng người gia tướng rậm râu, xuống thuyền nhỏ,
bơi trong sương mù đi xuống vùng nam Thăng Long.

Chập tối, khi
Nguyên Hàng được triệu vào cung gặp thượng hoàng Nghệ Tông, ông vua già nắm lấy
tay quan Thái bảo, rớt nước mắt:

- Giờ của ta đã đến
rồi. Ta muốn cùng khanh đến thái miếu lần cuối cùng để bái lạy tổ tông.

Đám lính hầu đã sắp
sẵn kiệu, đỡ đức thượng hoàng dậy, rước sang nhà thái miếu. Ông vua già gượng
ngồi xuống chiếu hoa rồi cúi rạp mình sát đất trước bàn thờ. Ông đập đầu xuống
đất, khóc rưng rức:

- Con là kẻ mắc tội
lớn với tổ tiên. Con đã lầm dùng người, tạo điều kiện cho kẻ ngoại thích lộng
hành. Giờ đây con sáp hết tuổi trời, sắp trở về với tổ tông, hối lại thì đã muộn.
Cơ nghiệp nhà Trần lúc này, như ngọn đèn trước gió. Mong các bậc tiên vương hãy
phù hộ cho con cháu, để trung hưng lại công nghiệp hiển hách của cha ông.

Trần Nguyên Hàng quỳ
sát sau lưng Nghệ Tông, nghe tiếng khóc của ông vua già như đứt từng khúc ruột.
Ông vua già nắm lấy tay Hàng:

- Lúc này, trẫm biết
cậy vào ai? Nguyên Đán đã chết. Duệ Tông đã chết. Trần Sư Hiền thì già lão. Còn
phủ quân tướng công Trần Nguyên Uyên chỉ biết đêm ngày vùi đầu vào rượu chè hát
xướng trên hồ Tây. Trong tôn thất, khanh là người bình tĩnh nhất, trí lực nhất,
ta chỉ còn biết tin cậy vào khanh. Con ta. Thuận Tông còn trẻ dại, lại nhu nhược.
Kẻ quyền thần thì mưu lược, vây cánh lại hầu khắp triều đình...

- Xin thượng hoàng
cứ yên tâm, thần dù gan nát óc lầy cũng cương quyết bảo vệ cơ nghiệp nhà Trần.

- Khanh nói đúng. Bảo
vệ cơ nghiệp tổ tiên. Đó là điều cốt yếu mà trẫm mong muốn...

- Khanh có hiểu ý của
trẫm không? Trẫm không phải chỉ muốn bảo vệ mạng sống cho con trẫm. Điều cốt tử
chính là cơ nghiệp nhà Trần... Hiện nay, chỉ có hai người trẫm tuyệt đối tin cậy:
đó là khanh và thượng tướng Trần Khát Chân.

Đoạn nói chuyện
riêng ở trên. Nguyễn Cẩn không biết. Con người đầy tai mắt ấy cũng không biết
cuộc mật đàm giữa Nguyên Hàng và Khát Chân trong đêm ấy, khi Nguyên Hàng trở về
phủ và đi thuyền lẻn đến Trại Mai.

Gian bí thất, ở nhà
hậu đường, trông ra cái sân sau nhỏ, ở đây Khát Chân chỉ để những chậu hoa quý
nhất của mình. Thượng tướng thân chính ra đón khách quý, dẫn vào nơi mật đàm.
Sau khi chủ khách yên vị, ông nói:

- Xin quan Thái bảo
yên lòng, chung quanh đó có nhiều gia tướng tin cậy canh phòng cẩn mật. Nơi bí
thất chỉ có riêng tôi và người bõ già Lão Mai được ra vào.

Ông bõ già mang trà
vào rồi lui ra ngay, khép kín cửa cẩn thận sau lưng. Gian phòng lúc này chỉ côn
ba người: Khát Chân, Nguyên Hàng và tráng sĩ râu đen. Thượng tướng chăm chăm
nhìn vào mặt con người rậm râu. Gã mặt vuông chữ điền, mắt tròn to, râu quai
nón, mặc bộ đồ nông dân mầu nâu bằng loại vải thô. Quần áo cắt rộng nhưng vẫn
không giấu nổi được những bắp thịt gỗ lim hằn dưới làn vải. Thái bảo Nguyên
Hàng hiểu ý, ông giới thiệu:

- Gia tướng của tôi
tên Tổ Thu, họ Phạm, học trò của danh sư võ nghệ Sư Tề nổi tiếng đất Thăng Long
thân sinh của đô tướng Nguyễn Đa Phương, và cũng là thầy dạy võ nghệ, binh pháp
cho Quý Ly.

Thượng tướng như lạc
về quá khứ:

- Cụ Sư Tề và Nguyễn
Đa Phương đã giúp Quý Ly rất nhiều. Nhất là hồi loạn Dương Nhật Lễ. Quý Ly và
Đa Phương kết nghĩa huynh đệ. Nhưng một khi thấy Đa Phương khác ý, Quý Ly liền
giết ngay. Hiếm thấy có một con người nào lòng dạ ghê gớm như ông ta. Cụ Sư Tề
được tin con bị giết đã bỏ trốn tuyệt tích khỏi Thăng Long. Cụ hiện nay mai
danh ẩn tích ở đâu cũng chẳng hay. - Thượng tướng đưa mắt như có ý hỏi tráng sĩ
rậm râu. Phạm Tổ Thu liền nói:

- Thầy chúng tôi
như hạc nội mây ngàn, nay đây mai đó. Đến như lũ học trò chúng tôi cũng không
biết nơi ở của thầy. Chỉ khi nào có việc cần, thầy tôi mới thư cho biết.

- Học trò của cụ ý
tứ ra sao?

- Bẩm đại nhân,
chúng tôi, lũ học trò lớp sau của thầy, vẫn luôn nhớ tới cái chết oan khuất của
sư huynh Đa Phương. Chúng tôi vẫn một dạ, nguyện trả mối gia thù cho sư phụ.

- Tráng sĩ chỉ có một
mình?

- Dạ, học trò của cụ
Sư Tề khá đông. Riêng lớp chúng tôi có hai người cùng họ Phạm cả. Tôi là Phạm Tổ
Thu, em tôi là Phạm Ngưu Tất. Trước khi về Thăng Long, anh em tôi đã cắt máu ăn
thề trước sư phụ, nguyện xả thân vì đại nghĩa. Nguyện sẽ chu diệt tên gian thần
đại nghịch, đại bất nhân bất nghĩa, để cứu nguy xã tắc.

Thượng tướng gật đầu
hài lòng, con mắt của Thái bảo cũng ánh lên những tia vui. Nguyên Hàng cười,
thì thầm vào tai thượng tướng:

- Anh em họ đều là
những nghĩa sĩ trung dũng. Tôi đang có ý muốn đề cử Ngưu Tất về đây hầu hạ thượng
tướng. Họ sẽ là những người liên lạc thay mặt chúng ta.

Khát Chân tỏ vẻ vui
mừng và muốn bắt đầu nói chuyện riêng. Ông vỗ tay ra hiệu ba cái, ông lão bộc đẩy
cửa bước vào, dẫn tráng sĩ rậm râu ra ngoài.

Lúc này, chỉ còn
hai vị chiến tướng bảo hoàng ngồi trước ngọn bạch lạp.

Nguyên Hàng:

- Tình thế khẩn cấp
lắm rồi. Đức thượng hoàng đang hấp hối. Giỏi lắm chỉ vài ngày nữa là cùng. Cần
nhanh đảng phò vua cứu nước. Kẻ tiểu nhân đã lập được băng đảng sâu, dày. Chỗ
nào cũng có tay chân của Quý Ly. Chẳng lẽ người quân tử không tập hợp được băng
đảng hay sao? Đó là việc sống còn.

- Người trung hiếu
với nhà Trần không phải ít. Quý Ly đã giết bao người. Vì vậy, người quân tử phải
im hơi lặng tiếng, nén lòng chờ thời...

Nguyên Hàng:

- Điều đáng tiếc là
người trung hiếu chỉ biết giữ tiết tháo của kẻ sĩ, thà chết vì đại nghĩa. chỉ
biết câu “sát thân thành nhân.” Kẻ tiết tháo đáng quý. Nhưng đáng quý hơn vẫn
là thành công. Vì vậy, lúc này chúng ta cần những người nằm gai nếm mật, ngoài
mặt như kẻ tầm thường nhưng bụng chứa đầy cơ mưu sâu xa.

- Tôi hiểu ý quan
Thái bảo.

Đức Nghệ Hoàng sắp
ra đi. Tối nay, người khóc ở thái miếu, và đặt hết hi vọng cứu nguy cơ nghiệp
nhà Trần vào hai chúng ta. Kẻ phản nghịch là loài cáo, thì chúng ta phải như
loài rắn độc.

- Tôi có thể biết
lòng dạ của những người trung thần căm ghét Quý Ly đến tận xương tuỷ. Có thể kể:
trụ quốc Trần Nhật Đôn, thượng thư Lương Nguyên Bưu, các vương hầu Nguyên Uyên,
Nguyên Dận và hành khiển Hà Đức Lân...

- Chúng ta cũng cần
những người chức vụ nhỏ bé hơn, nhưng biết luồn sâu luồn xa, trá hàng nằm ngay
trong hang ổ của địch.

- Mỹ nhân kế ư? Dụng
gián ư?

- Riêng hai chúng
ta phải thật mềm dẻo nằm im không lộ diện, chờ đợi...

- Từ nay tôi với
thượng tướng sẽ ít gặp nhau, trừ phi cấp bách. Mọi việc sẽ qua anh em Tổ Thu,
Ngưu Tất.

Chợt nhớ tới một điều
quan trọng còn quên, Khát Chân giật mình:

- Thái bảo có biết
Bùi Bá Kỳ không nhỉ?

- Kỳ nào?

- Một tì tướng của
tôi, đã tham dự trận đánh Chế Bồng Nga trên sông Hoàng Giang. Một người họ ngoại
nhà Trần, rất trung tín, rất đáng tin cậy.

- Thế sao?

- Kỳ đã móc nối được
với nhà Minh, đã đích thân sang phương Bắc.

Câu chuyện chợt sững
lại. Nguyên Hàng trầm ngâm rất lâu rồi thì thầm:

- Thượng tướng nhớ
chuyện Trần Nguyên Diệu chứ? Chính tay ông đã chặt đầu Nguyên Diệu. Diệu đầu
hàng Chế Bồng Nga...

- Không hẳn là đầu
hàng. Diệu căm giận Quý Ly, cầu viện họ Chế, định nhờ tay Chế để giết Quý Ly.

- Tôi hiểu ý Thái bảo
rồi!

- Phải tự tay chúng
ta thôi...

- Thái bảo đúng.

- Phải ngăn ngay Bá
Kỳ đừng dính líu với nhà Minh. À có lẽ thế này thì hơn. Phải cắt đứt quan hệ với
Bá Kỳ.

- Kìa! Thái bảo làm
sao thế?

- Tôi thấy chóng mặt...
Như thể buồn nôn.

- Có lẽ gió...

- Không sao. Xong rồi!
ổn rồi!

Câu chuyện giữa hai
người lại tiếp tục thầm thầm thì thì, có lúc ngập ngừng, có lúc sôi nổi, cho đến
khi gà gáy lần hai.

Âm mưu trong bóng
đêm, như cái nhọt bọc càng lúc càng tấy, nhưng chẳng ai nhìn thấy cả. Cho đến
khi đôi mèo hoang lang thang trong đêm đen trở về, chúng ướt đẫm sương đêm đứng
trên cây mai già trước tư dinh của quan thượng tướng, và cất tiếng gào thê thảm
như tiếng trẻ con bị bóp cổ và dìm xuống nước, đến lúc đó, hai cây trụ cột của
nhà Trần mới đứng dậy, chia tay.

Quan Thái bảo, khăn
trùm đầu, cùng tráng sĩ rậm râu xuống thuyền bơi trong hồ sen đầy sương mù, thầm
lén như kẻ ăn sương, đêm tàn bắt đầu trở về hang ổ.

2

Ông vua già Nghệ
Tông sắp băng hà. Đã xong những cuộc tiếp xúc đầy thù hận, ngoài miệng thơn thớt,
mà trong lòng chỉ muốn chém giết. Đã xong những âm mưu cuối cùng, mà hậu quả của
chúng là những đợt sóng ngầm tương lai; những điều ai có thể đoán biết được kiểm
soát được, khi thân xác đã bị vùi kín dưới ba thước đất. Đã xong nốt những màn
kịch trần gian, những phút huy hoàng. những ngày lo âu, những giọt lệ những tiếng
cười, để rồi đến phút lâm chung mới thấy mình là một diễn viên tồi, để rồi đến
lúc sắp nhắm mắt ngoái đầu lại mới thấy đời mình chỉ xứng... một tiếng thở dài.

Ông vua già nằm
trên chiếc giường vàng, trải đệm màu hoàng yến, gối đầu trên chiếc gối vàng. đắp
chiếc chán cũng màu vàng... Người ta muốn thay quần áo, mặc cho ông bộ đại triều
phục có thêu đôi rồng vàng trước ngực, bộ quần áo có lần có lót mà thợ may thêu
phải mất mấy tháng ròng mới xong, bộ quần áo mỗi năm ông chỉ xỏ tay vài lần vào
những ngày đại lễ. Ông vua già xua tay:

- Trẫm không muốn mặc
đâu.

Viên thái giám cung
kính:

- Tâu bệ hạ, đó là
thể lệ của các tiên vương.

Song, Nghệ Tông vẫn
lắc đầu quầy quậy:

- Khanh biết không,
nó nặng lắm. Hôm hội thề, trẫm đã cảm thấy như bị mang cùm... bây giờ thân hình
ta... chỉ còn xương. Đến cái chăn vàng lúc này ta cũng thấy nặng.

- Thưa... - Viên
thượng thư bộ lễ còn muốn giảng giải thêm, nhưng ông vua già đã nhắm mắt lại,
xua tay, ra hiệu đuổi đám cậu thần lui ra. Ông thều thào nói với viên thái
giám:

- Các khanh hãy
thương ta... một lần cuối... Ta không muốn mặc đại triều phục. Hãy mặc cho ta
chiếc áo lụa vàng, chiếc khăn lụa vàng, chiếc thắt lưng lụa vàng. Ta muốn ra đi
được nhẹ nhàng... mát mẻ.

Cô thị tì vào tâu:

- Đức vua Thuận
Tông xin được vào.

Thái thượng hoàng
thều thào:

- Gọi quan gia đến đây ngay.

Ông vua con quỳ bên cạnh đầu giường cha, nước mắt
ròng ròng. Ông vua già hỏi:

- Sáng nay con ở đâu? Ta cứ chờ con mãi.

- Bẩm phụ hoàng,
con ở ngoài đạo quán.

- Đạo quán ư?

- Vâng, con cầu
nguyện cho cha. Con cầu xin cho cha được khỏi bệnh, được trường sinh bất lão.

Nói xong, ông vua
trẻ lại khóc. Ông vua già thở dài, thầm nghĩ: “Trường sinh bất lão ư?” Đôi môi
khô héo của ông không khỏi nhếch một nụ cười chua chát. Ông đưa mắt nhìn bộ mặt
khôi ngô tuấn tú của Thuận Tông, sao nó giống ông đến thế...

Khi đứa con út ra đời,
rồi lớn lên, cả hoàng tộc đều vui mừng vì ông đã sinh được quý tử. Hoàng tử
Ngung giống cha một cách lạ lùng, từ khuôn mặt khôi ngô đến cái vóc dáng gầy guộc,
thâm trầm, từ nết chăm chỉ đọc sách đến đức độ nhân từ hiếm có, sự nhân từ mà
người đời vẫn hằng ca tụng ở các đấng minh quân. Nhân từ ư? Thương dân ư? Những
đức hạnh tốt đẹp đó hỏi trên đời này có ông vua nào hơn được cha con ông? Thế
mà tại sao, tại sao nước Đại Việt này vẫn đói khát, loạn lạc; tại sao cơ đồ của
tổ tiên ông vẫn ngả nghiêng. Nghiệp báo chăng? Không? Tổ tiên ông đã chẳng từng
lập bao chiến công hiển hách, có thể nói chưa từng thấy trong lịch sử, nhà Trần
đã ba lần đánh tan giặc Nguyên hung bạo. Thời trẻ, ông đã từng tận mắt được thấy
cảnh thời thịnh trị, thóc lúa đầy bồ, dân gian hòa lạc âu ca. Mà cả ông nữa, ba
mươi năm chấp chính ông đã hết lòng làm những việc tu nhân tích đức, lợi cho
trăm họ. Ông lỗi lầm gì đâu? Ông có tạo nghiệp ác đâu? Cả một chuôi năm tháng
dài dặc, cố phấn đấu để trở thành một ông vua sáng lại hiện ra trước mặt...

Ông nhớ đến hồi dẹp
loạn tên vua phường chèo Dương Nhật Lễ. Thực bụng ông không bao giờ có ý muốn
làm vua. Chí của ông là một khu rừng vắng, được làm bạn với chim rừng vượn núi,
được tiêu dao với suối với hoa, được sớm tối bầu bạn ngâm thơ với tùng với hạc...
Khi trốn lên Tam Giang, ông đã cố chối từ khi mọi người làm kiệu tay tôn ông
lên làm vua, nhưng không được.

Đến như Trần Nguyên
Đán, một người cùng chí với ông, chỉ thích tiêu dao cùng suối rừng, cũng bảo:
Ông phải làm vua thôi. Tình thế lúc này bắt buộc. Tôi xin hết sức phò tá. Mọi
người đồng lòng nên ông phải lên ngôi. Nhưng khi ở ngôi, cái nợ suối rừng ấy
ông cũng chẳng lúc nào nguôi. Ông sai lập cung Bảo Hòa ở núi Phật Tích huyện
Tiên Du là nơi có phong cảnh đẹp lại gần kinh đô, thường lên ở đó để đọc sách
làm thơ, rồi triệu các bậc lão thần khoa bảng đến, hỏi những việc cũ xưa, chép
lại thành bộ sách “Bảo hòa dư bút” gồm tám quyển truyền cho đời sau.

Chỉ có những việc
như vậy mới làm lòng ông khoan khoái. Chính vì thế, ở ngôi được ba năm, ông đã
nhường ngôi cho em trai, tức vua Duệ Tông. Nhưng cái chí nhàn du của ông trời
không cho hưởng. Bốn năm sau, Duệ Tông bị mắc mưu Chế Bồng Nga, tử trận ở thành
Đồ Bàn, gánh nặng non sông lại đè lên đôi vai ông. Giá như là người có hùng
tâm, Nghệ Tông phải tự tay cầm cương lại đất nước. Đằng này, một lần nữa, ông lại
thích chữ nhàn. Và, vốn là người có lòng nhân, chẳng tham quyền, nên Nghệ Tông
không cho con trai mình kế vị, mà lại truyền ngôi cho Trần Đế Nghiễn, cháu của
ông, con cả của Duệ Tông.

Việc truyền ngôi
cho cháu của ông, được người đời rất ca tụng. Thậm chí vua Minh, khi thấy Duệ
Tông chết, định nhân cơ hội đục nước béo cò, muốn đem quân sang cướp nước ta,
nay thấy Nghệ Tông truyền ngôi cho cháu, bèn nói rằng:

“Em chết vì việc nước,
mà anh lập con của em lên ngôi. Việc người làm như thế, đủ biết nước An Nam mệnh
trời hãy còn...”

Việc dấy binh, nhà
Minh bèn bỏ đi. Chỉ có một người đàn bà phản đối việc truyền ngôi này. Người đó
là Lê Thị, vợ Duệ Tông, mẹ Đế Nghiễn. Bà cắt tóc đi tu, can ngăn Nghệ Tông:

- Tâu Thượng hoàng,
con trai tôi đức mỏng, khó kham nổi trách nhiệm lớn. Ở ngôi cao chỉ hại cơ nghiệp
tổ tiên, và nguy cho bản thân nó.

Nghệ Tông không
nghe, cứ bắt Đế Nghiễn tức Trần Phế Đế lên ngôi.

Lời tiên đoán của
bà Lê Thị, mười hai năm sau được chứng nghiệm. Nghệ Tông cho cháu làm vua,
nhưng lại vô cùng tín nhiệm Lê Quý Ly. Nghệ Hoàng ngả theo những chính sách cải
cách của quan thái sư, gây nên hai phe bảo thủ và cách tân đối nghịch nhau kịch
hệt ở triều đình. Cuối cùng phe bảo thủ nổi loạn định giết Quý Ly. Và Nghệ Tông
đã nghe theo lời Quý Ly diệt phe bảo thủ.

Trần Phế Đế, người
cháu cũng bị giết. Lần này Nghệ Hoàng phải cho con trai út là Trần Ngung, tức
Trần Thuận Tông lên ngôi vua.

Như vậy, tóm lại,
năm nay ông bảy mươi tư tuổi, đã ở ngôi tột đỉnh ba mươi năm tròn. Ngẫm nghĩ về
toàn bộ đời mình, ông lại thở dài não ruột. Bởi vì, nói cho đúng, tiếng rằng
cho em, cho con cháu làm vua, nhưng thực quyền tất cả vẫn trong tay ông. Chính
vì vậy nên khi Phế Đế trái ý, ông đã truất ngôi rồi giết luôn. Vậy, trách nhiệm
về sự đổ vỡ của nhà Trần hiện nay, ông phải gánh chịu tất cả.

Và, chỉ đến lúc cuối
đời này, lúc sắp nhắm mắt xuôi tay, ông mới nhận được ra một điều hệ trọng ghê
gớm: chính bản thân ông là người đỡ đầu ra cả hai phe phái cách tân và bảo thủ
hiện nay trong triều đình. Chính ông là bà đỡ cho những cải cách của Quý Ly, đã
giúp Quý Ly tiêu diệt những đối thủ, ngay cả khi đối thủ ấy là con cháu ông. Lại
cũng vẫn chính ông là người muốn kéo dài đến vô hạn cơ nghiệp của nhà Trần, tổ
tiên ông, mặc dầu ông biết điều đó không thực tế, mặc dầu ông biết các tôn thất,
các cựu thần nhà Trần ở mọi nơi hiện đang thối ruỗng.

Vậy ông đang tự chống
lại bản thân. Ông có miếng thịt thối, muốn cắt đi, nhưng vì nó là cơ thể ông
nên không đành lòng.

Mâu thuẫn đến thế,
tự giằng xé đến thế. Vậy mà ông lại muốn ra đi một cách nhẹ nhàng sao? Ông muốn
mặc đồ lụa vàng, lụa dù nhẹ nhưng cất sao nổi gánh nặng trong lòng ông. Trong
tâm tưởng, chợt nghe một tiếng ai đó thét lên:

“Ngươi đã làm đổ vỡ
cơ nghiệp nhà Trần.”

“Không. Chẳng phải
tại tôi. Đó là vận nước?”

“Tội lỗi do ngươi
quá nhân từ.”

“Sách chẳng nói chữ
nhân là cái đức đầu tiên của ông vua sáng đó sao?”

Nghệ Tông, đầu nhức
như búa bổ, nước mắt chảy ròng ròng, tự quyết liệt đấu tranh với mình. Ông nhìn
vào mặt Thuận Tông lúc này cũng đầm đìa giọt lệ. Ông bàng hoàng vì như chợt thấy
hình bóng của mình trong một tấm gương. Con ta đấy dòng giống của ta đấy? Bóng
hình của ta đấy, sự đẹp đẽ của ta đấy? Sự yếu mềm của ta đấy. Cả tương lai của
ta cũng là đấy! Ôi! Con của ta ơi. Cha con ta cùng một nòi đa cảm. Giá như
chúng ta sinh vào một thời thái bình thịnh trị. Loại người như cha con ta, sinh
ra vào thời bão tố, chỉ làm mồi cho lũ người cương mãnh.

Ông vua già lại thở
dài, thở dài mãi. Bàn tay bắt đầu lạnh của ông nắm chặt bàn tay Thuận Tông, như
một lần cuối cố bám víu vào cuộc đời. Cuối cùng tiếng nức nở của ông cũng dứt.
Những giọt nước mắt của ông cũng cạn kiệt, và đôi mắt trở nên ráo hoảnh của ông
cứ trừng trừng nhìn vào cõi xa xăm như muốn tìm ra những giải đáp cho những câu
hỏi mà cả đời ông không tìm ra.

Viên thái giám già
đứng bên cạnh theo dõi từng cử chỉ cuối cùng của Nghệ Hoàng. Ông vua già dồn dập
thở hắt ra. Khi ông hít thở, viên thái giám đặt chiếc gương con ở trước mũi cho
đến lúc chẳng thấy hơi mờ. Quan thái y vào chẩn mạch lần cuối. Thái sư Quý Ly hỏi:

- Thế nào?

- Bẩm, ngài đã đi hẳn
rồi ạ.

Thái sư phất tay ra hiệu.

Chuông khánh ngoài điện Đại Minh nổi lên. Trăm quan,
từ sáng sớm, đã mũ áo tề chỉnh tề tựu ở sân đại diện, nghe chuông khánh vang
lên, lập tức ôm lấy mặt, quỳ xuống, đầu rạp đất. Tất cả miệng ô hô than khóc.

Sau ngày Nghệ Hoàng băng hà. Ông vua con Trần Thuận
Tông họp triều thần, bàn việc tang lễ. Thái sư Lê Quý Ly đọc di chiếu của thượng
hoàng:

- Ta thường nghe
các loài sinh vật loài nào cũng đều chết cả. Chết là số mệnh của trời đất.
Thiên lý là như vậy mà người đời ai ai cũng thích sống, sợ chết. Do vậy, làm ma
cho to đến nỗi tiêu tan cả cơ nghiệp, để tang quá trọng đến nỗi tổn hại tâm
tính; ý ta không cho thế là phải. Ta vốn ít đức, chẳng làm được gì nhiều nhặn
cho yên dân, đến khi chết lại bắt dân phải mặc sô gai, sớm chiều thương khóc,
giảm bớt vui chơi ăn uống; chuyện đó để nặng thêm lỗi cho ta, rồi thiên hạ sẽ
nói ta là người thế nào.

Ta trộm nghĩ lúc
trung hưng cơ nghiệp tổ tiên, đứng đầu các vương hầu, tuy còn giữ được công
nghiệp của các tiên đế, nhưng bên trong thì muôn dân vẫn còn đói rét khổ sở,
bên ngoài thì ngoại hang vẫn lăm le đe dọa; vì vậy đến lúc ra đi lòng ta vẫn
đau đáu khôn nguôi. Nay, ta được chết theo tổ tiên đã là may mắn lắm rồi, vậy
cũng chẳng nên thương khóc làm gì. Để tang, thì hết ba tháng nên bỏ tang phục,
tang lễ, thì cốt nhất phải kiệm ước chẳng cần linh đình. Chỉ mong sao phần mộ
được ở bên cạnh các tiên đế, như thế cũng thỏa nguyện lắm rồi.

Than ôi! bóng tà
đã xế, số mệnh khôn dừng, mấy lời từ biệt cuối cùng, để rồi thiên thu xa cách.

Quần thần nên
kính cẩn nghe lời ta dặn.

Trần Thuận Tông ở ngôi Vua, nhưng còn trẻ, nên không
biết thế nào là phải. Ông vua con chỉ còn biết đầm đìa nước mắt. Thuận Tông đưa
mắt nhìn quan thái sư ông bố vợ, nhưng Hồ Quý Ly chỉ đứng im lặng chờ xem ý tứ
mọi người. Thượng tướng Trần Khát Chân cất tiếng đầu tiên:

- Sống và chết là hai việc lớn, không thể nào xem
thường được. Tuy di chiếu của đức thượng hoàng như vậy nhưng chúng ta không thể
nhất nhất làm theo đúng lời dặn. Trong đạo trị nước, Lễ là điều quan trọng nhất.
Tôi là tướng võ, chưa dám nói được thông kinh sử, nhưng cũng mạo muội cầu xin đức
vua và các quan đại thần phải vô cùng cẩn trọng trong việc tang lễ.

Thái bảo Trần Nguyên Hàng trầm tĩnh trình bày vấn đề
một cách cặn kẽ hơn:

- Tâu bệ hạ, xét trong sử sách thấy có ghi hai lần
các bậc quân vương có di chiếu lúc lâm chung, dặn người còn sống phải giảm bớt
nghi thức lễ tang. Thứ nhất là Hán Văn đế, vua phương bắc, di chiếu cho bá quan
và nhân dân chỉ để tang mình trong ba ngày mà thôi. Cũng chỉ vì Hán Văn đế theo
đạo Hoàng Lão, thích khiêm nhường, làm mọi việc đều lùi xuống một bậc. Hán Cảnh
đế là con, nghĩ là hiếu khi theo đúng lời cha dặn lúc đã mê sảng; nên ông không
hiểu rằng chế độ rút ngắn tang lễ là điều không nên dạy cho dân. Thứ hai là vua
Lý Nhân Tông nước Đại Việt ta. Ông cũng bắt chước người xưa, vì Lý Nhân Tông vốn
sùng đạo Phật. Còn chúng ta, những bậc đại thần ăn lộc vua, chúng ta không thể
thấy rõ điều dở mà cúi đầu làm ngơ, không tỏ bày hơn thiệt. Thần trộm nghĩ, cúi
xin bệ hạ cứ làm theo đúng nghi lễ tổ tiên. Vả chăng, tình thế bây giờ, nếu
không giữ đúng kỷ cương, e sẽ làm gương xấu cho thiên hạ dễ bề bắt chước.

Lúc này quan thái sư Quý Ly mới gật đầu. Ông tỏ vẻ
ưng ý những lời nói của Thái bảo Nguyên Hàng. Ông hiểu rõ tình thế lúc này, dân
chúng chắc chắn rất chăm chú theo dõi nhất cử nhất động của triều đình, nhất là
các việc làm của cá nhân ông. Vậy nên thứ lễ nghi có tính chất khoa trương bây
giờ là cần thiết, vì nó làm yên lòng dân. Một sư kiện cung đình như đám tang
Nghệ Tông rất dễ trở thành một ngòi nổ kích động. Cần phải cho tất cả đều im ắng
thuận hòa. Quan thái sư vội vòng tay tâu với Thuận Tông:

- Tâu bệ hạ, thần đã bàn với quan hành khiển Phạm Cự
Luận, ông vốn thông kinh bác cổ. Hành khiển bảo thần: “Việc lễ cốt ở cung kính
nghiêm trang. Chúng ta chẳng nên bày vẽ kiêu xa, nhưng quyết không được đạm bạc
sơ sài.” Ông Luận đã tham bác các sách bàn về việc lễ làm một tờ sớ. Xin quan
hành khiển tâu trình với bệ hạ, sau đó các vị đại thần sẽ bổ khuyết.

Phạm Cự Luận hắng giọng rồi sang sảng đọc:

Đạo hiếu là gốc lớn trong việc trị thiên hạ. Nay xin
tham chước lễ cổ, đề ra thể lệ về việc lễ tang.

- Các hoàng thân, trai gái họ nhà vua để tang theo
gia lễ.

- Các quan văn võ được dự ban chầu để tang ba năm;
khi vào chầu, áo, mũ đai đều dùng mầu đen. Võng dùng đòn gỗ sơn đen, ngựa chỉ
dùng yên mộc.

- Quan văn võ từ lục phẩm trở lên để tang trong một
năm. Khi để tang ăn mặc dùng đồ đen.

- Người có chức tập ấm, nho sinh, con cái nhà quan hạng
miễn sưu dịch, học sinh trường Quốc Tử Giám để tang năm tháng.

- Xã dân vùng Yên Sinh và phủ Thiên Trường nhân dân
kinh thành Thăng Long để tang một tháng.*

*Nhà Trần có hai quê: quê gốc, xã Yên Sinh Đông Triều; quê
thứ hai, hương Tức Mực, phủ Thiên Trường.

- Các trang phục lòe loẹt, châu báu vàng bạc của các
hạng tang đều bị cấm cho đến lúc hết tang.

- Việc cưới hỏi giá thú đối với nhân dân bị cấm
trong vòng một tháng.

- Việc hát xướng bị cấm trong vòng một tháng.

- Việc xây lăng mộ để cho thầy địa lý chọn đất xong
từ lúc thượng hoàng còn sống nay chỉ nêu lên để biết.

Đình thần phấn khởi ra mặt. Ai cũng mừng hành khiển
Cự Luận đã tham chước cặn kẽ. Vả lại Cự Luận đã tham chước vậy, tức Quý Ly đã đồng
ý. Tóm lại, mọi người khỏi phải bàn bạc lôi thôi. Ở một thời biến động, việc
ngôn xuất là tối quan trọng. Người ta thiên về sự kín tiếng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3