Hồ Quý Ly - Chương 03 - Phần 1
Chương 3: Ông vua già
1
Nghệ Tông hoàng đế
tên húy là Trần Phủ, con thứ ba của vua Trần Minh Tông; mẹ đẻ là Lê Thị, cô của
Lê Quý Ly. Ông lên ngôi lúc nhà Trần suy thoái; đứng trên danh nghĩa, Trần Thuận
Tông, con trai ông là ông vua áp chót triều Trần; nhưng đứng trên thực tế,
chính Trần Nghệ Tông mới là ông vua cuối cùng, bởi vì ông làm vua chỉ có ba năm
nhưng lại làm Thái thượng hoàng hai mươi bảy năm. Trong hai mươi bảy năm ấy, dưới
tay Thái thượng hoàng có ba ông vua: Trần Duệ Tông em trai ông, Trần Phế Đế
cháu ông, con trai Duệ Tông và cuối cùng là Trần Thuận Tông con trai của chính
ông. Như vậy, thực quyền suốt tám mươi năm ròng cuối triều Trần cho đến khi họ
Hồ lên ngôi đều nằm trong tay ông.
Nghệ Tông lên ngôi
vua trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt.
Thời kỳ đó vào những
năm Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất (tức là 1367 - 1370 theo dương lịch),
em trai ông là Trần Dụ Tông làm vua, nhưng ăn chơi xa xỉ hoang dâm vô độ đến nỗi
Chu Văn An phải dâng thất trảm sớ rồi theo ấn từ quan. Nhật Lễ cháu ông lên
ngôi. Nhật Lễ là con Cung Túc Vương Trần Dục. Trên danh nghĩa, họ Trần, nhưng
thực chất Nhật Lễ họ Dương. Mẹ Nhật Lễ là Dương Thị, một cô đào chèo vừa xinh đẹp
vừa hát hay, Dương Thị có biệt hiệu Tây Vương Mẫu bởi vì nàng sắm vai Vương Mẫu
trong vở chèo hấp dẫn, nàng có chồng họ Dương cũng là một kép hát tài hoa. Cung
Túc Vương đi xem hát, bị nàng Tây Vương Mẫu hút hồn, bèn lấy nàng làm vợ, lúc
đó cô đào chèo đã có mang cùng chàng kép hát họ Dương. Khi Nhật Lễ ra đời,
trong hoàng tộc đã có lời xì xào, nhưng Cung Túc Vương, vì quá yêu nàng Tây
Vương Mẫu, vả lại ngày tháng mang thai mập mờ, nên công nhận Nhật Lễ là con.
Kể ra nếu Nhật Lễ
đàng hoàng chấp nhận họ Trần và có tài năng trị nước, chắc cũng chẳng có gì xảy
ra. Nhưng nàng Dương Thị lắm tham vọng, người đàn bà ấy tưởng rằng việc làm vua
cũng dễ dàng suôn sẻ như trên sân khấu. Làm vua ư? Chẳng qua là việc hưởng thụ
và có quyền tối thượng trong tay. Vì vậy, Dương Thị đã khuyên con trai đổi triều
đại nhà Trần sang nhà Dương, và thẳng tay đàn áp tôn thất họ Trần.
Có lẽ trong lịch sử
các vua chúa nước Nam, đó là đoạn bi hài nhất. Dân gian gọi cuộc tiếm ngôi quá
đơn giản ấy là loạn phường chèo. Kẻ sĩ âu lo cho số phận non sông thì bảo: Vận
nước đã suy nên đẻ ra nhiều chuyên quái gở. Nhật Lễ lên ngôi đã bắt chước ông
vua tiền nhiệm Trần Dụ Tông, cũng hoang dâm vô độ, cũng cờ bạc rượu chè. Thiếu
úy Trần Ngô Lang là tay cờ bạc nổi tiếng Thăng Long, đã có lúc cùng vua Trần Dụ
Tông chơi những canh bạc, mà mỗi lần đặt cửa bằng một gia tài của người giàu
có. Nhật Lễ, lúc chưa lên ngôi, cũng đi lại sòng bạc của Trần Ngô Lang, nên khi
lên ngôi đã dùng Trần Ngô Lang làm người thân tín.
Trong thời kỳ đầy
biến động ấy, Trần Nghệ Tông giữ chức vụ hữu tướng quốc, rồi thái sư, tức vị
quan văn đầu triều. Điều trớ trêu, đứng về phương diện thế thứ gia tộc, ông đồng
thời là chú của Nhật Lễ, vừa là bố vợ Nhật Lễ. Con gái của ông làm hoàng hậu.
Lúc đó, trong triều
có hai vị quan đứng đầu: tả tướng quốc Nguyên Trác và hữu tướng quốc là ông.
Nguyên Trác nghe tin Nhật Lễ định đổi họ Trần thành họ Dương, liền âm mưu cùng
những người tôn thất, lẻn vào cung, định giết Nhật Lễ. Việc bại lộ, Nhật Lễ bắt
những kẻ âm mưu vào tội chết. Trần Phủ tức Nghệ Tông hỏi Lê Quý Ly là người thủ
túc thân tín:
- Tình hình hỗn loạn
thế này, ta nên đối phó ra sao?
Quý Ly rất bình
tĩnh thưa:
- Hiện nay, quân
lính ở Thăng Long đều ở trong tay Nhật Lễ. Tuy đại vương vừa làm thái sư vừa là
quốc trượng, nhưng Nhật Lễ vẫn cho người dò xét. Tuy nhiên Nhật Lễ vẫn chưa ra
tay vì đại vương có tiếng nhân từ, là quan văn không thích dụng võ. Nhưng cứ nằm
ở Thăng Long, nằm giữa đám quan quân ngả theo Nhật Lễ, khác gì cá nằm trên thớt.
Chi bằng, hãy thoát khỏi vòng vây, tìm nơi hẻo lánh tạm ẩn trú. Việc lớn ta
tính sau.
- Ta nên đi đâu?
- Theo kẻ học trò
này, ta nên đến Trấn Tam Giang. Từ kinh đô tới đó, đi ngựa mất một ngày đường.
Nếu Nhật Lễ biết truy đuổi, thì sau lưng là cả một vùng rừng núi bao la Đà
Giang, nếu cần ta cũng có đường vào Trấn Thanh Hoa hoặc đến Châu Hồng, Hải
Đông.
Đang đêm, Trần Phủ,
Quý Ly và một số người tâm phúc lẫn lút trốn đến vùng cửa ngõ sông Đà. Quý Ly bàn
với Trần Phủ viết thư cho các quan lại và các vương hầu khắp nơi. Được tin Cung
định vương Trần Phủ đang ở Tam Giang, các vương hầu vội vã kéo nhau đến. Lúc
đó, Trần Phủ ngoài bốn mươi tuổi, Quý Ly mới ngoài ba mươi tuổi. Phủ bảo Quý
Ly:
- Ta không dè chỉ một
bức thư của ta mà người người lại kéo nhau đến đông như thế, nhanh như thế.
Quý Ly biết người
anh họ ngoại của mình còn do dự. Từ thủa nhỏ, hai người vẫn gặp nhau luôn, và mến
nhau vì tài văn chương; nhưng Quý Ly hiểu Phủ vốn nhu thuận, chuộng văn nhiều
hơn chuộng võ, mềm nhiều hơn cứng. Hồi Trần Phủ mới được chín tuổi, theo hầu
vua cha Trần Minh Tông. Vua cha sai làm thơ vịnh cái chiếu trúc. Trần Phủ ứng
khẩu đọc ngay:
Có nàng giỏi giang
Trong rỗng ngoài cứng
Bắt làm đầy tớ
E chạm nhân tình.
Minh Tông lấy làm lạ,
lặng im, và không cho sử quan ghi lại chuyện này. Bài thơ ấy không lọt ra triều
đình, nhưng sau này bà Hoàng phi, mẹ Phủ, đem chuyện nói ra cho anh ruột là Lê
Quốc Kỳ, lúc đó làm kinh lược sứ nghe. Kỳ bảo: “Con người này nhân hậu. Tất cả
khẩu khí, và tương lai đều hiện rõ trong bài thơ...” Quốc Kỳ liền ngầm cho con
trai là Quý Ly thường xuyên đi lại với Trần Phủ. Quý Ly thông minh, học đâu biết
đấy, văn võ song toàn, nên được Phủ yêu quý lắm. Khi Trần Phủ làm hữu tướng quốc,
dùng Quý Ly làm người thân tín, chuyên thảo văn thư cơ mật, dần dần, từ vai trò
một anh thơ lại, Quý Ly trở thành cánh tay phải mưu lược của Trần Phủ.
Lúc này, Quý Ly nói
với Phủ:
- Thời cơ chỉ đến
có một lần mà thôi. Bỏ lỡ sẽ hối tiếc thậm chí sẽ gây họa cho cả nước, cho cả bản
thân. Chỉ một lá thư triệu tập, bao nhiêu người đã đổ xô đến, chứng tỏ lòng người
đã ngả theo đại vương. Dù muốn hay không, bây giờ đã có hai triều đình, một ở
Thăng Long, một ở Tam Giang. Dù muốn hay không, bây giờ trong mắt Nhật Lễ, đại
vương đã là một đối thủ chính cần phải nhổ bỏ. Dù đại vương nhân từ, song Nhật
Lễ quyết không bao giờ tha cho đại vương. Vả lại, đại vương có muốn để cơ nghiệp
nhà Trần biến thành của họ Dương hay không?
Trần Phủ im lặng,
nhưng suy nghĩ rất nhiều.
Liền sau đó, công chúa
Thiên Ninh chị ruột của Phủ, Cung Tuyên Vương Trần Kính em ruột của Phủ, và cả
Trần Nguyên Đán, Trần Sư Hiền, là những người tôn thất cũng lục tục kéo đến Tam
Giang. Trần Phủ nói với mọi người:
- Từ lúc còn trẻ,
ta vốn không có chí làm vua. Ý nguyện của ta chỉ mong cho đất nước được thanh
bình, hết loạn ly... Nay, có em ruột ta là Trần Kính, tính tình cương nghị, có
thể dẫn đầu mọi người làm việc lớn.
Thiên Ninh công
chúa bảo:.
- Đại vương đã
trông coi việc nước nhiều năm, lại là người nhân hậu ai ai cũng rõ. Dân chúng
và trăm quan đều hướng về đại vương. Không thể vì cái chí riêng mà quên việc lớn.
Vả lại, thiên hạ là thiên hạ của tổ tông mình, sao có thể thờ ơ được? Trần Kính
cương nghị, nhưng lòng người dân đã hướng về đại vương, đại vương không thể từ
chối.
Các tướng lĩnh liền
tung hô vạn tuế, làm kiệu bằng tay, rước Trần Phủ xuống núi phủ dụ quân sĩ.
Cung Tuyên Vương Trần Kính thống lĩnh ba quân nói dõng dạc:
- Chúng ta sẽ tiến
thẳng về Thăng Long, chém đầu tên phường chèo, tôn đức Nghệ Tông lên ngai vàng.
Quý Ly nói riêng với
Trần Phủ:
- Bệ hạ nay đã là
hoàng đế, xin lo đến việc đại định thiên hạ. Người xưa nói: Đánh giặc thượng
sách dùng mưu kế, trung sách dùng ngoại giao, hạ sách mới đánh thành phá lũy.
Nay, bệ hạ đã danh chính ngôn thuận, lòng dân đã hoàn toàn hướng về ngài, sao
ta không dùng đến thượng sách để đỡ xương máu cho quân sĩ và trăm họ?
Nghệ Hoàng đem chuyện
đó ra bàn với Trần Nguyên Đán. Đán nói:
- Hiện nay, ở kinh
đô, tất cả quyền lực đều nằm trong tay thiếu úy Trần Ngô Lang, Nhật Lễ rất tin
ông ta.
- Trần Ngô Lang là
người tôn thất, Trần Nhật Hạch cũng vậy; nhưng Nhật Hạch đã bày mưu cho Nhật Lễ
giết người của nhà Trần; còn Ngô Lang hiện nắm trong tay hơn ba vạn cấm quân,
song vẫn chưa làm điều gì bại hoại.
- Thậm chí ông ta
còn án binh bất động, - Đán nói. - thái độ xem ra có vẻ chần chừ. Vì vậy, ta
chưa nên đưa quân đi đánh trước, tránh đẩy ông ta vào chỗ khó xử, rồi quay lại
chống chúng ta. Nay bệ hạ nên cử một người thân tín đến gặp ông ta, dò xem thái
độ.
- Cử ai bây giờ?
- Phải là một người
ít tiếng tăm, lại phải vô cùng linh hoạt và điều quan trọng nhất, phải rất đáng
tin cậy.
Quý Ly được Nghệ
Hoàng trao nhiệm vụ quay về Thăng Long gặp Trần Ngô Lang.
Về đến kinh đô, Quý
Ly đến ngay nhà cụ Sư Tề ở phường Báo Thiên. Cụ Sư Tề tên thật là Nguyễn Đa Tề,
nhiều đời vẫn là gia tướng của gia đình Trần Nhật Duật. Cụ giỏi võ nghệ, lại rất
am tường binh thư. Cụ Sư Tề làm nghề dạy võ ở Thăng Long, khá nổi tiếng, cụ được
tôn xưng là bậc thầy trong nghề võ, vì vậy người đời mới ghép chữ Sư vào chữ Tề.
Quý Ly, lúc còn tuổi thiếu niên, cũng đã nhiều năm bái cụ làm thầy. Quý Ly học
giỏi nên cụ Sư Tề rất yêu quý.
Vốn biết lòng trung
của cụ Sư Tề với nhà Trần, nên mới gặp, Quý Ly đã vào thẳng vấn đề:
- Thưa thầy, Nghệ
Hoàng sai con về Thăng Long, có ý muốn thăm dò thái độ của thiếu úy Trần Ngô
Lang.
- Ông ta, từ thời Dụ
Tông, đã mắc tiếng ăn chơi, bài bạc, là một trong bảy người bị ghi vào thất trảm
sớ của cụ Chu Văn An. Ngày xưa, vua Trần Dụ Tông đến nhà ông ta chơi bời thâu
đêm, lúc về, nhà vua say quá, thậm chí đến bến. Chử gia ngủ gục bên bờ sông, kiếm
vàng truyền quốc, thanh kiếm của bậc chí tôn vì thế mà bị lấy cắp. Đất nước ngả
nghiêng từ khi ấy...
Quý Ly cười mỉm vì
ý kiến của ông thầy già, nhưng không luận bàn, mà để mặc cụ Sư Tề nói.
- Ta là con nhà võ.
Mất kiếm báu là việc tối hệ trọng... Cái điềm đấy... Nhưng cũng có cái hay?
Cũng vì ăn chơi giống nhau... (Đồng thanh tương ứng mà!) nên Nhật Lễ mới sinh
lòng tin cậy, giao hết ba vạn cấm quân vào tay Ngô Lang.
- Điều học trò muốn
biết là thái độ hiện nay của Trần Ngô Lang ra sao? - Quý Ly tỏ vẻ nôn nóng.
Cụ Sư Tề gật gù:
- Ở thời đại loạn
này, thay đổi thất thường, sớm bắc chiều nam, ai mà biết nổi trong bụng người
ta nghĩ gì. Vả lại, hở lòng mình ra, có người biết được, dễ chết như chơi. Tuy
nhiên với ông ta, chỉ hi vọng có một điều nhưng rất mong manh: ông ta là tôn thất
nhà Trần... từ khi có quyền lớn, chưa làm điều gì đại ác.
Quý Ly đột nhiên hỏi:
- Thưa thầy, hiện
nay em Đa Phương của con đang làm gì? Con muốn gặp mặt chú ấy.
Cụ Sư Tề chợt thở
dài:
- Thầy biết, anh sẽ
hỏi câu này. Thầy muốn tránh cũng chẳng được. Âu cũng là mệnh trời. Con cũng
thông cảm cho ta. Ta dạy võ, nhưng ít lâu nay đóng cửa không dạy cho ai nữa. Bởi
vì, nay đang bước sang buổi loạn ly. Cuộc loạn ly khác thường. Sẽ chẳng rõ đâu
chính, đâu tà. Ta dạy học trò nhưng có lẽ rồi chính lũ học trò của ta sẽ quay lại
chém giết lẫn nhau. Thằng Phương con ta, là nghĩa đệ của anh. Trong nghề võ, thằng
Phương cũng có chút giỏi giang, nhưng nó lỗ mãng, sức thì nhiều, trí thì ít. Ta
đã bàn với nó, hai cha con nên trở về quê, mai danh ẩn tích làm nghề cày ruộng,
nhưng nó không nghe. Ta bảo: “Con có sức mạnh, tuy nhiên bây giờ đã đến lúc trí
óc mới là quan trọng.” Thằng Phương cãi lại: “Trai thời loạn, nghề võ chính là
nghề tiến thân.” Thế rồi, nhân lúc loạn, nó xin vào làm thủ túc cho Trần Ngô
Lang...
Quý Lý liền vái cụ
Sư Tề:
- Xin thầy cứ yên
tâm, có thể đó lại là điều may. Thầy cứ giao em Phương
cho con. Thái sư Trần Phủ đã lên ngôi hoàng đế. Người rất tin cậy con. Anh em
con sẽ nương tựa vào nhau. Con nhất định sẽ gây dựng được cho em Phương.
Chiều hôm ấy, Nguyễn Đa Phương về nhà gặp Quý Ly. Được
người anh nuôi cho biết tình hình, Đa Phương cười to:
- Cha ơi! Thời vận của con đã đến rồi.
Tối hôm ấy, Quý Ly và Đa Phương rì rầm bàn mưu tính
kế. Phương nói:
- Trần Ngô Lang kín lắm, khó dò biết được lòng ông
ta. Hiện nay ở trong triều, Trần Nguyên Hàng bị Nhật Lễ ghét nhất, nhà ông ta bị
bao vây, tính mạng như trứng để đầu đẳng. Nhưng em trai ông ta là Trần Nguyên
Uyên lại được Lễ tin cậy, cho làm phó tướng bên dưới Trần Ngô Lang.
- Có phải Nguyên Uyên là người nổi tiếng ăn chơi,
đêm nào cũng rong thuyền với bầy kĩ nữ đàn ca trên Hồ Tây?
- Chứ còn ai nữa? Nhật Lễ chỉ có thể tin cậy những kẻ
biết ăn chơi, đi lại du đãng với ông ta từ thuở chưa làm vua. Tôi giúp việc cho
Nguyên Uyên. Ông này hơi hở, nhiều khi thốt ra những câu nói động chạm tới Nhật
Lễ.
Sau khi bàn bạc, hai người lên Hồ Tây, thuê một chiếc
thuyền con, nhằm thẳng nơi có ánh đèn lồng của con thuyền hoa đang rộn rã đàn
ca. Đến gần, thấy Nguyên Uyên đang đùa giỡn với mấy cô kĩ nữ. Đa Phương lên tiếng:
- Bẩm phó tướng, tôi mang đến cho người một khách
quý.
Nguyên Uyên thò đầu ra:
- Ai vậy?
- Bẩm, một lái buôn trầm hương vẫn qua lại Trung
Hoa.
Quý Ly lên thuyền, Uyên thấy Quý Ly ăn mặc sang trọng
nên có chút kính nể. Các cô gái hát khúc Xuân nguyệt. Lúc ấy, Quý Ly ghé vào
tai Nguyên Uyên:
- Tôi có vụ buôn bán lớn, muốn bàn kín với quan phó
tướng.
Nguyên Uyên gật đầu. Quý Ly vứt bạc thưởng cho bọn
đàn hát. Uyên bảo họ bơi thuyền trở về. Uyên hỏi:
- Chắc buôn ngà voi hay ngọc trai bị triều đình cấm,
nay cần giấy tờ để qua Vân Đồn?
Quý Ly cười:
- Vụ buôn bán này to hơn nhiều!
- To hơn nhiều?
- Phú quý ăn đến cuối đời chẳng hết.
- Tôi không hiểu?
Lúc đó Quý Ly mới rút ở ngực ra lá thư của Nghệ Tông
gửi cho những người tôn thất. Nguyên Uyên đặt lá thư lên hương án, quỳ lạy rồi
nói:
- Trông thấy ông, ta cứ ngờ ngợ. Hóa ra ông là Quý
Ly người luôn ở bên cạnh đức vua. Tôi chờ đợi việc này từ lâu. Anh tôi là
Nguyên Hàng, vì chống đối Nhật Lễ, đang bị nguy khốn. Ông nói xem bây giờ tôi
phải làm gì?
- Trần Ngô Lang ra sao?
- Lòng dạ ông ta cũng như tôi.
- Thế thì mừng rồi.
Hai người nắm chặt tay nhau, rồi tỉ mỉ bàn tính mưu
kế suốt đêm trên chiếc thuyền hoan lạc ở giữa Tây hồ.
Ít lâu sau, Nhật Lễ giục Trần Ngô Lang sai quân đi
tiễu phạt bọn nổi loạn sông Đà. Ngô Lang cử Trần Nguyên Uyên mang một vạn quân
lên trấn Đà Giang. Nhưng toàn bộ cánh quân ấy, đầu hàng và ở lại cùng Nghệ Tông.
Rồi cánh quân thứ hai Đa Phương chỉ huy được gửi đi cũng tiếp tục đầu hàng.
Cho người nào đi, mất người ấy, Nhật Lễ hiểu số phận
của mình đã hỏng. Rồi cả dân chúng Thăng Long cũng chạy về quê hết, để lại một
kinh thành mênh mông và một ông vua phường chèo cô độc.
Màn kịch vua phường chèo trên sàn diễn cung đình chấm
dứt. Nhật Lễ tức giận giết Trần Ngô Lang. Rồi đến lượt Nhật Lễ bị giết.
Trong cuộc phục hưng nhà Trần, đưa Trần Nghệ Tông
lên ngôi, Quý Ly có phần đóng góp nên càng được Nghệ Tông tin yêu. Chính vì vậy,
từ một nhân vật chẳng hề có tiếng tăm, Hồ Quý Ly ít lâu sau đó được phong chức
Khu mật viện đại sứ, và bắt đầu bước vào chính trường Đại Việt.
Một hôm, Nghệ Tông gọi Quý Ly vào cung và hỏi:
- Phu nhân của khanh khuất núi đã được mấy năm rồi?
- Tâu bệ hạ đã tròn năm năm. Cháu Nguyên Trừng năm
nay tám tuổi, cháu được ba tuổi khi mẹ cháu qua đời.
- Khanh có còn nhớ công chúa Huy Ninh, cô công chúa
Nhất Chi Mai ấy? - Nghệ Tông mỉm cười.
- Tâu bệ hạ, lúc nhỏ, công chúa và hạ thần vẫn chơi
cùng nhau, là bạn thơ ấu lẽ nào lại quên.
Nghệ Tông thở dài:
- Khanh biết đấy, trong lũ em đông đúc, ta yêu quý
nhất Huy Ninh. Cái cô Nhất Chi Mai ấy vừa đẹp người, vừa đẹp nết, lại có học vấn...
Chỉ khổ nỗi đào hoa bạc mệnh. Chồng nó, tôn thất Trần Nhân Vinh vì tận trung với
nước bị Dương Nhật Lễ giết chết. Khanh và Huy Ninh vốn quý nhau từ bé... Nay trẫm
đứng ra tác thành cho hai người... ý khanh thấy ra sao?
Khỏi cần phải mô tả niềm hạnh phúc của Quý Ly lúc
đó. Con đường tiến thân đã mở... Nay lại mở thêm con đường hạnh phúc đôi lứa...
Điều tuyệt vời là chuyện tình duyên này đã biến thành một huyền thoại văn
chương mà người dân Thăng Long vẫn kể cho nhau nghe lúc trà dư tửu hậu.