Hồ Quý Ly - Chương 01 - Phần 3
3
Thái thượng hoàng Nghệ Tông chú ý đến viên quan thái
sử gầy gò này từ lúc chưa lên ngôi. Lúc đó, ông tránh sự truy sát của vua phường
chèo Dương Nhật Lễ, trốn lên vùng núi Tam Giang. Đi theo ông hồi ấy chỉ có Lê
Quý Ly và một toán thân binh. Ông vẫn chưa kịp viết thư kêu gọi các đại thần
quý tộc đến với ông. Ông đóng quân ở nhà một xã quan miền ngược, một ngôi nhà
sàn của một lang đạo người Mường. Đang đêm, bỗng thấy có ánh đuốc lố nhố ở dưới
nhà sàn. Quý Ly nói:
- Vùng này nhiều hổ, chắc binh sĩ phải thắp đuốc làm
cho lũ hổ tránh xa.
Quý Ly ra đầu nhà sàn, hỏi tình hình. Viên gia tướng
nói:
- Không phải hổ mà chính là người. Dân Mường báo có
kẻ lạ mặt, người Kinh, lảng vảng ở khu đồi ngoài. Hắn gùi một cái bồ nặng trên
lưng. Hắn hỏi một bà già, tìm tung tích của toán người Kinh mới trốn lên đây.
Chúng tôi sợ nó là người của Dương Nhật Lễ.
- Đã bắt được chưa?
- Chúng tôi đến nhà bà già, biết được hắn đã bỏ đi.
Anh em đốt đuốc tìm hắn từ chập tối, sục sạo khắp rừng vẫn chưa thấy.
- Người này rất khả nghi. Phải bắt bằng được, không
thể để trốn thoát. Cho một toán lấy ngựa đi theo đường cái chặn hết các cửa rừng.
Mãi gần tảng sáng mới bắt được gã học trò ngủ trên
chòi canh nương ngô, trên một cây cao. Gã học trò kêu oan, nhưng toán lính vẫn
trói chân trói tay, khiêng như khiêng thú săn về ngôi nhà sàn. Nghệ Tông hỏi:
- Ngươi tên gì? Làm việc gì?
- Tôi tên Văn Hoa, làm chức quan nhỏ chuyên việc
chép sử.
- Sao ta chẳng biết mặt ngươi?
Bẩm đức ông, từ mấy đời vua rồi, triều đình có ai
chú ý đến sử. Nhà chép sử thì dột nát. Quan chép sử không đủ lương ăn. Sử biên
niên chẳng ai nhòm ngó... Quan thái sử chán nản, suốt ngày uống rượu...
- Còn nhà ngươi?
- Tiểu nhân chỉ giữ chức quan nhỏ trong Thái sử viện,
vẫn hàng ngày làm trọn công việc của mình, vẫn hàng ngày ghi chép những sự việc
xảy ra trong triều đình, đất nước. Mọi người bảo: “Đất nước nghiêng ngả thế
này, ai cần đến mấy tờ giấy nát của ông?” Nhưng tiểu nhân không nghĩ thế. Ông
nghĩ sao?
- Tiểu nhân nghĩ: Sử là hồn núi hồn sông. Sử là tinh
túy của đất nước. Dân tộc nào biết chép sử càng sớm, càng có nhiều cơ hội văn
hiến. Dân tộc nào càng biết quý trọng đến sử càng có nhiều cơ hội trường tồn.
Thịnh đấy? Suy đấy! Chẳng vì thịnh mà kiêu, chẳng vì suy mà nản. Cứ bền lòng
nhìn vào sử như tự ngắm mình trong một tấm gương. Ngắm để vẽ, để tô, để sửa, ắt
khuôn mặt càng dễ ưa, dễ coi. Hồn núi ở đó, hồn sông cũng ở đó. Chẳng thế mà kẻ
ngoại bang sang xâm lấn nước ta, lúc nào cũng chỉ nhăm nhăm xóa bỏ sử sách của
ta.
Nghệ Tông lặng người nghe gã nho sinh nói. Viên đầu
ngũ dâng lên một cái bồ và trình:
- Bồ này bắt được của gã.
- Gì thế?
- Toàn là chữ cả ạ.
Nho sinh giải thích:
- Bẩm đức ông. Đó là những ghi chép hàng ngày của
các sử quan thời trước và của tiểu nhân. Thái sử Lê Văn Hưu mới viết hết Lý sử,
còn Trần sử chưa đụng đến. Thần thấy Dương Nhật Lễ là kẻ vô đạo nên bỏ đi,
nhưng cứ tiếc những cuốn ghi chép này. Sợ rằng binh hỏa sẽ làm mất mát, nên
đành luôn luôn cõng nó trên lưng.
Nghệ Tông nghe Văn Hoa nói, lật giở những trang giấy
mà Văn Hoa lúc gian nguy cũng không rời bỏ, lòng ông rung lên những xúc cảm khó
tả.
- Sao nhà ngươi lại lên đây?
- Bẩm, kẻ tiểu nhân đi tìm bậc chân mệnh thiên tử.
Nghe tiếng đức ông là người đức độ, lại được nhìn thấy sự việc hàng ngày của đức
ông ở triều đình, nên tiểu nhân đánh bạo đi tìm, chỉ mong sao cho nghề chép sử
được chú ý, cho hồn núi hồn sông được chép liền chẳng dứt...
***
Sau ngày hội thề, cũng là lúc Sử Văn Hoa đột nhiên
khỏi bệnh. Ông giã từ sư Vô Trụ ở chùa Sùng Quang, trở về nhà. Ông mỉm cười khi
nghĩ tới cụ lang họ Phạm và nhà sư cứ ngạc nhiên tại sao ông lại đoán được vua
Nghệ Tông sắp gọi ông vào cung. Có gì bí ẩn đâu. Nghề chiêm bốc của ông vốn như
vậy; cứ mỗi lần có những biến động lịch sử, cứ mỗi khi bi kịch như sấm sét được
tích tụ trong cơn bão sắp nổ xuống đầu con người, thì con người lại cầu đến
ông, nhất là các bậc vua chúa. Ông là người viết sử, người chiêm bốc. Toàn là
những chuyện đùa chơi với lửa cả. Chép việc đời như thế nào đây? Sự lý biến dịch
ra sao? Ta là kẻ dùng cây bút, dùng ba tấc lưỡi để hé nhìn tương lai, để sống ở
đời, để làm bạn với vua chúa. Chỉ một chữ thôi, chỉ một câu nói thôi, ta có thể
làm xổng xích một bạo chúa, hoặc có khi ngăn chặn một cuộc chém giết. Ta là kẻ
thiện hay kẻ ác? Ta run sợ khi nghĩ đến điều đó, bởi chữ nghĩa có thể làm đảo
điên biến ác thành thiện, hay thiện chuyển sang ác. Sống ư? Chết ư? Ta hàng
ngày sống cận kề với chúng, cái chết của người đời và ngay cả cái chết của ta.
Thú thực, lắm khi ta run sợ, ta muốn thoái lui; nhưng vở tuồng đại loạn đang cưỡi
trên chiếc xe điên rồ, đang phi như bay trên quê hương ta. Thật đáng sợ nhưng
cũng đầy hấp dẫn. Lạy trời? Chỉ mong sao chữ nghĩa của ta một phần nào ngăn được
đà chạy của chiếc xe điên rồ đó. Lạy trời cho cả gió lên, bởi vì chỉ hết gió cả,
mới có chỗ cho gió hiu hiu trở lại.
Sử đoán không sai; ông vừa về đến nhà đã nhận ngay
được lệnh triệu vào cung gặp Nghệ Hoàng. Ông vua già rất quý Sử Văn Hoa sau việc
đoán mộng cho Duệ Tông và sau khi Duệ Tông bị tử trận ở Chiêm Thành. Ông gặp Sử,
nghe Sử nói chuyện rất hợp ý. Sử lại dâng sách cho thượng hoàng xem: đó là phần
một cuốn Trần sử, cuốn sách ông đã dành tâm huyết và đang viết dở dang. Trần
Nghệ Tông xem sách xong, khen hết lời và ban cho ông chữ Sử làm họ và cái tên Sử
Văn Hoa cũng bắt đầu từ đấy. Thượng hoàng làm việc đó như vậy, đã khai sinh cho
ông một lần nữa. Nghệ Tông làm thế đơn thuần chỉ như một cử chỉ khen ngợi;
nhưng đối với Văn Hoa, đó lại là một điều trọng đại; chữ Sử đối với ông đột
nhiên trở thành một định hướng. Cái lẽ sống mà ông âm thầm nung nấu, sở dĩ âm
thầm bởi vì ông chỉ là một viên quan nhỏ vô danh, nay đã như cái dùi trong bị lộ
ra; vua đã biết tên, lẽ sống đã được khẳng định nên nó càng trở nên mạnh mẽ.
Cảm cái ơn tri ngộ của thượng hoàng, từ đó ngoài
trách nhiệm của một thần tử, Sử Văn Hoa còn coi Nghệ Hoàng như cha đẻ của mình,
lẽ dĩ nhiên ông cũng đủ trí thông minh và lòng tự trọng để không bộc lộ nó ra bằng
sự tận tụy, bằng sự chí thành. Ngược lại, ông vua già cũng cảm thấy điều đó,
ông đối đãi với Sử như một người thân tín.
Trần Nghệ Tông ngồi trên sập vàng, vẻ nóng nảy chờ đợi.
Vừa trông thấy Sử, ông vui mừng ra mặt. Chờ cho Sử quỳ lạy xong, ông vẫy Sử lại
gần:
- Trẫm đã có một giấc mộng rồi.
- Dạ thưa...
- Chả là trẫm thèm một giấc mộng. Ba ngày qua, kể từ
hôm trước hội thề, trẫm đã trai giới để cầu thần Đồng Cổ và ta đã gặp mộng.
- Tâu bệ hạ, người đã gặp thần Đồng Cổ.
- Chắc là vị thần ấy.
Thần Đồng Cổ là vị thần bộ quốc Hồi nhà Lý, nhờ thần Đồng Cổ báo mộng mà Lý
Thái Tông đã dẹp được loạn ba vương. Ông ấy là thần hộ quốc chắc ta đã gặp thần
Đồng Cổ.
- Tâu bệ hạ, sao lại
chắc?
- Đúng, ông ấy. Một
dị nhân, mình cao tám thước, mày râu cứng nhọn, mặc chiến bào, tay cầm binh
khí, cưỡi con ngựa chiến mầu đen. Nhưng lạ thật...
- Tâu bệ hạ, sao lại
lạ?
- Bởi vì khi ta hỏi:
có phải thần Đồng Cổ đấy không? Ông ta lại im lặng... Ta đâm ngờ ngợ.
- Dạ... Tâu...
- Ta ngờ ngợ... vì
trông ông hao hao giống em ta.
- Tâu bệ hạ... giống
đức Duệ Tông.
- Em ta cũng cưỡi
con ngựa đen, cũng mặc giáp trụ... Em ta cao lớn sừng sững...
- Tâu bệ hạ... Thần
nghĩ là hóa thân.
- Đúng, ngươi nói
đúng. Có thế mà ta không hiểu ra. Hóa thân? Phải rồi. Thần Đồng Cổ đã hóa thân
vào em ta để báo mộng cho ta. Một đằng là vị thần hộ quốc, một đằng là người
anh hùng trung trinh với nước. Hồn thiêng của cả hai người quyện vào nhau, chắc
giấc mộng phải linh ứng.
- Tâu bệ hạ, giấc mộng
thế nào?
- Ta thấy ông ấy,
thấy em ta trong sương khói. Mồm ông ta mấp máy. Ta nói: ngươi định nói gì cứ
nói cho to. Trong gió bão, ta căng óc ra nghe. Ông ấy đọc một bài thơ:
Trung gian duy hữu
xích chủy hầu
Ân cần tiềm thướng
bạch kê lâu
Khẩu vương dĩ định
hưng vong sự
Bất tại tiền đầu,
tại hậu đầu
Nghĩa là:
Quãng này chỉ có
hầu mõm đỏ
Lăm le lên lầu gà trắng
Khẩu vương đã định việc còn mất
Chẳng ở trước mà ở về sau.
Thật quỷ quái! Ta
chẳng còn hiểu ra thế nào nữa. Ta choàng tỉnh dậy và không ngủ lại được nữa. Ta
suy nghĩ để đoán, nhưng càng nghĩ càng rối tung lên. Ta đến thái miếu, thắp
hương, xin tổ tiên cho đủ sự minh mẫn để suy nghĩ, nhưng cũng chẳng thể đoán ra
sự huyền bí của giấc mộng, của những câu thơ. Ta chỉ còn biết trông cậy vào
ngươi.
Sử Văn Hoa nhìn ông
vua già đột nhiên như suy sụp hẳn đi, nhưng Sử không muốn vỗ về ông vua già.
Ông hiểu ông vua già là con người suốt đời chỉ muốn chìm vào giấc ngủ. Chỉ cần
bẻm mép an ủi ông ta bằng những linh tượng huyền bí, chỉ cần ngụy luận dùng
cách nói đông nói tây, dùng phép phản mộng lạ đời, chỉ cần giảng giải bằng những
lời thật khác lạ, ngoắt ngoéo, chắc chắn ông ta sẽ an lòng ngay, và lại chìm
vào một du mộng. Ông vua già sắp chết rồi. Bằng cách an ủi, ông ta sẽ chết một
cái chết nhẹ nhàng, ngọt ngào. Nhưng không thể thế được. Cần phải nói ra sự thật.
Người gần đến cái chết cần phải biết sự thật. Nếu kiếp người là những luân hồi,
thì sự thật ắt hẳn phải bổ ích cho những kiếp sau. Nghĩ vậy, Sử Văn Hoa nói:
- Người báo mộng là
đức Duệ Tông hay thần Đồng Cổ thì cũng vậy thôi. Xin bệ hạ chỉ nên hiểu đó là một
người quan trọng. Người đó lại mặc giáp trụ, cưỡi ngựa chiến màu đen. Vậy tin
người ấy báo qua những câu thơ ắt hẳn một điều vô cùng trọng đại, có liên quan
đến sự sống còn.
Mắt ông vua già
sáng quắc:
- Ta cũng nghĩ thế.
Nhưng, việc quan trọng ấy là gì? Khẩu là, vương là, chữ Vương trong chữ khẩu là
chữ quốc. Đó là việc còn hay mất của đất nước.
- Đất nước ư?
- Vấn đề đã quá rõ
ràng, đất nước đang ngả nghiêng.
Thần xin đọc lại mấy
câu thơ một cách nôm na:.
Lúc này chỉ có “hầu
mõm đỏ”
Đang lăm le trèo
lên “lầu gà trắng”
Việc còn mất của đất
nước đã được định rõ
Chẳng phải trước
kia mà ở sau này.
Bây giờ chỉ còn hai
câu thơ đầu: “gà trắng” là ai, “hầu mõm đỏ” là ai? “Lầu gà trắng” phải chăng
ngai vàng?
- Đúng rồi. Ta sinh
năm Tân Dậu. Ta cầm tinh con gà...
- Vậy “hầu mõm đỏ”
là ai?
- Thôi thôi, ta hiểu
rồi. Ta cám ơn khanh. Nhà ngươi không cần phải nói nữa.
Sử Văn Hoa phủ phục
xuống, lạy thượng hoàng. Còn Nghệ Hoàng lặng lẽ quay vào hậu cung.
Sử ra về, lòng buồn
rười rượi. Ông biết “hầu mõm đỏ” là ai lắm chứ. Trong triều đình, ít ai biết
quan thái sư Lê Quý Ly sinh năm Thân, cầm tinh con khỉ. Ông là quan chép sử, lý
lịch của những người cầm nắm vận mệnh đất nước là điều ông phải biết, nhưng
cũng phải chôn chặt chúng trong lòng.
***
Mấy hôm sau, tin đồn
về giấc mộng của Nghệ Hoàng lan ra khắp triều đình rồi lan ra khắp kinh thành.
Có người bảo giấc mộng
là thật, thần Đồng Cổ rất thiêng. Ngày xưa thần đã thác mọng cho Lý Thái Tông cứu
nguy cho nhà Lý khỏi loạn ba vương; ngày nay thần thác mộng cho nhà Trần cũng để
cứu nguy cho nhà Trần, bởi vì nhà Trần có công to với đất nước, ba lần đánh tan
giặc Nguyên. Các vua Trần hồng phúc rất dày, triều đại nhà Trần còn dài lâu.
Có người lại bảo giấc
mộng là giả, Nghệ Hoàng đã bịa ra giấc mộng để răn đe thái sư Quý Ly, và để kêu
gọi những người còn trung thành với nhà Trần mau ra tay cứu nguy cho đất nước.
Rồi người khác lại
bảo, trăng tròn phải có lúc khuyết, thịnh phải có suy. Nhà Trần bạc nhược lắm rồi!
Lòng dân chán ngán lắm rồi! Đói khổ lắm rồi! Tham nhũng lắm rồi? Cứ gì nhà Trần;
vua nào chả là vua. Thèm đổi đời lắm rồi.
Người ta đồn ầm lên
dư đảng của nhà sư Phạm Sư Ôn đang sắp kéo về Thăng Long.
Lại có tin vừa mới
bắt được vụ làm bạc giả. Gánh ra hàng chục gánh tiền giấy, toàn tiền một quan vẽ
hình con rồng. Thảo nào, tiền giấy càng ngày càng mất giá. Người ta lén lút đổi
tiền giấy ra tiền đồng rồi đem chôn. Rồi một buổi sáng, người ta thấy dán ở khắp
Thăng Long những tờ giấy trên có dòng chữ “Thâm tai Lê sư!” tức là: Thâm độc
thay Lê thái sư!