Phần V- Hồi 5
Hồi thứ năm: LỜI GIẢI
KHÔNG PHẢI LỜI GIẢI
Vô số gốc rễ của Udumbara vươn dài ra, hòa thành một thể với
cả khe núi Dã Nhân, bao gồm mọi đền đài cung điện chìm sâu dưới lòng đất, và
tòa thành bốn triệu bảo tháp của quốc vương Anagaya xây dựng. Tầng kén dưới đầm
lầy kỳ thực chính là quả của Udumbara. Tuy rằng chất độc màu da cam đã phá hủy
loài thực vật này, nhưng bộ rễ phân bố khắp lòng núi của nó vừa sâu vừa rộng
lại chưa bị hủy diệt hoàn toàn, hơn nữa còn có thể hồi sinh với tốc độ nhanh
chóng đến kinh ngạc.
Tuyệt cũng từng nghe một lão tăng ở đền chùa Miến Điện có
nhắc đến Udumbara, loài thực vật này không chỉ tồn tại ở Ấn Độ cổ đại hay Sri
Lanka, mà ở gần khu vực đảo Bomeo và đảo Sumatra ở Indonesia cũng có dấu tích
của nó, nhưng từ cổ chí kim, chưa ai có được cơ duyên hiếm hoi, tận mắt nhìn
thấy Udumbara nở rộ như vậy, những gì họ thấy chỉ là thân cây khô héo mục nát
từ hàng ngàn năm trước, chẳng hề có chút dấu vết của sự sống. Lúc này, cô nhìn
loài thực vật rất giống với cây dền gai càng ngày càng phát triển to lớn, rồi
từ trong chảy ra vô số sợi tơ như màn sương mỏng, quấn quýt, bay lượn giữa
không gian, chẳng chịu tản đi. Cô phát hiện dường như sương khí ở khu vực gần
đó càng lúc càng dày đặc hơn, đến lúc này cô mới biết nguồn gốc của màn sương
mù thần bí ở núi Dã Nhân thì ra bắt nguồn từ cây Udumbara vùi sâu dưới lòng
đất.
Sở dĩ Tư Mã Khôi biết đến Udumbara, là vì khi xưa lúc theo
“Văn Võ tiên sinh” học nghệ, anh từng đọc một cuốn kỳ thư có tên là “Bác vật
chí” của Trương Hoa tiên sinh đời Tấn viết, trong đó miêu tả tất cả các loài
sinh vật kỳ dị trên đời, ghi chép vô số hoa cỏ chim cá, côn trùng cổ quái. Đáng
tiếc bộ sách cổ này không được lưu truyền hoàn chỉnh, phần để lại cho hậu thế
chỉ còn khoảng một phần mười, trong đó có một đoạn ghi chép liên quan đến
Udumbara. Chỉ là khi đó, Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm không gọi nó bằng cái tên
Udumbara, mà theo cách gọi cổ, thì nó tên là “Thị nhục” hay “Minh căn”.
Nhưng bất kể lời của vị lão tăng trong ngôi chùa nọ hay là
ghi chép của Trương Hoa tiên sinh về loài cây thần kỳ trong cuốn “Bác vật chí”,
thì có lẽ cũng chỉ đều là nghe người nào đó truyền lại, chứ chưa hẳn đã được
tận mắt nhìn thấy vật thực, bởi vậy họ đều không thể mô tả chi tiết. Nếu hội Tư
Mã Khôi không vào nơi sơn cùng cốc hẻm trong núi Dã Nhân, thì cũng không thể
biết lớp sương mịt mù phun ra từ lòng đất lại do Udumbara sản sinh.
Tình hình có thể xác định trước mắt là, thân Udumbara to lớn
kia ít nhất có hai nhược điểm. Thứ nhất, nó có thể bị chất độc màu da cam hủy
hoại, thứ hai, nó sợ nước. Mưa lớn do cơn bão nhiệt đới Buddha mang đến khiến
phần thượng tầng của Udumbara bị tan biến tận gốc, nhờ vậy khi hội Tư Mã Khôi
đi vào đầm lầy tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải, mới không gặp phải điều gì
bất thường. Sau khi đầm lầy sụt lở, bùn đất trút đổ xuống lòng đất, khiến sương
mù gần tòa thành Nhện Vàng cũng bị tản mát, nhưng lúc này, tác dụng của chất độc
màu da cam đã tới cực hạn, Udumbara ẩn nấp trong đáy cốc dần dần hồi sinh, cản
trở mưa gió từ trên cao xả xuống, nếu không có bùn đất và khí ẩm dưới bùn lầy
lắng đọng xuống đây, thì tốc độ sinh trưởng của nó còn nhanh hơn nhiều. Thời
gian và không gian dành cho bốn kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm, chẳng
còn lại là bao.
Đội thám hiểm người Anh, sau khi rơi xuống sơn cốc, đã dùng
đèn chiếu sáng cường quang, kết quả lại dẫn dụ một “Vật thể sống” khổng lồ từ
mặt đất chồi lên, và bị nó tấn công, ngoài ra còn xuất hiện đoàn xe tải mười
bánh, của Mỹ sản xuất, trong rừng rậm, tất cả những sự kiện đáng sợ chẳng thể
giải thích này, dường như đều liên quan đến sương mù trong khe sâu núi Dã Nhân.
Tuy mọi người đều biết nguồn cội của sương mù là từ cây
Udumbara cổ xưa, nhưng cũng chỉ biết vậy mà không biết tại sao lại như vậy.
Thông qua tiếp xúc, họ nhanh chóng phát hiện loại thực vật dạng sương mù kia,
ngoại trừ mùi khí có chút kỳ quái, thì nó không gây nên sự uy hiếp trực tiếp
nào đối với cơ thể con người, bởi vậy họ tin chắc trong sương mù nhất định còn
tồn tại một sinh vật khác, đợi khi sương mù hoàn toàn bao phủ nơi này, sẽ là
lúc nó xuất hiện.
Mọi người bàn bạc mấy câu, ai nấy đều thấy chẳng có kế sách
gì khả thi, trong lòng càng lúc càng tuyệt vọng; lúc này trừ khi tìm thấy một
quả bom địa chấn chứa chất độc màu da cam nữa, thì chắc chắn họ chẳng thể chạy
thoát khỏi núi Dã Nhân.
Tư Mã Khôi nói, bây giờ cần phải bình tĩnh suy nghĩ, nếu
chạy loạn xạ giữa không gian bóng tối bủa vây tứ bề, thì chẳng khác gì tự mình
đâm đầu vào đường chết. Mọi người tuyệt đối không được manh động, thử ngẫm mà
xem, Udumbara sinh trưởng dưới lòng đất này vô cùng sợ nước, vừa tiếp xúc với
nước mưa là lập tức tan biến mất tăm, trong khi cuồng phong giông tố mà cơn bão
Buddha mang đến khiến nước lũ trong núi dâng lên đột ngột, dềnh ngập mọi khe
nứt. Giờ đây, đường thủy mới là con đường an toàn nhất để tiến vàosơn cốc, vậy
thì vì sao đoàn thám hiểm Anh lại liều chết lái máy bay thâm nhập từ trên
không. Có phải bằng thiết bị và kinh nghiệm của họ, thì không thể tìm thấy mạch
nước chăng?
Ngọc Phi Yến nghĩ một lát rồi nói: “Sơn cốc này là địa hình
do núi nứt toác mà thành, mạch nước phía ngoài không ăn thông với đáy vực.
Ngoài ra người Anh chắc chắn biết mọi mạng lưới sông ngòi trong rừng sâu núi Dã
Nhân đều có đỉa Campuchia ăn thịt người sống ký sinh với số lượng lớn, mà nguy
cơ chí mạng này rất khó đề phòng, nên mới buộc phải chọn đường hiểm mà đi.”
Tư Mã Khôi gật đầu nói: “Thế thì coi như số bọn họ đen đủi,
may mà chúng ta tránh được kiếp nạn đó. Hơn nữa giờ đây khí huyết trong cơ thể
không đủ, nếu có đi bằng đường thủy thì cũng chẳng cần lo bị đỉa chui vào ký
sinh. Bởi vậy, bây giờ có thể xác định chính xác mục tiêu hành động, phải cố
gắng tìm ra khu vực có nước ngầm, bất luận là sông ngầm hay mạch nước, chỉ cần
tìm thấy nguồn nước, mới có thể tránh được sương mù.”
Hải ngọng tán đồng: “Xem ra thằng quỷ nhà cậu vẫn là tên đa
mưu túc trí, ruột tớ không cong, nên bó tay chẳng nuốt nổi lưỡi liềm.”
Ngọc Phi Yến cũng cảm thấy kế này khả thi, cho dù có chạm
trán với đỉa Campuchia ăn thịt người ở trong nước, thì rốt cục lúc trước cũng
đã có kinh nghiệm ứng phó, như thế vẫn còn hơn bị sinh vật đáng sợ xuất hiện
trong sương mù nuốt chửng. Có điều nói thì dễ mà làm thì khó, mắt nhìn tứ bề sương
khí dần dần lan tỏa, biết đi đâu để tìm mạch nước? Tư Mã Khôi gấp gáp vạch kế
hoạch: “Trong tình trạng la bàn mất tác dụng, mà mạo hiểm xông vào đám sương
mù, thì đừng có nghĩ đến việc chui ra được. Tôi thấy cánh rừng dưới lòng đất,
và cả cung điện đền đài của nước Chăm Pa cổ, vốn dĩ đều tồn tại trên mặt đất,
rồi hàng ngàn năm trước do chịu ảnh hưởng sự lún xuống của mạch nước, nên mới
sụt xuống nơi sâu nhất dưới đáy khe vực. Bởi thế dưới chân chúng ta chắc chắn
có hồ nước hoặc mạch nước, cổ nhân đã dạy: người đi chỗ cao, nước chảy chỗ
trũng…” Anh vừa nói vừa xách đèn halogen nhìn trái phải một vòng, thấy dòng bùn
đất dưới chân đều đang chầm chậm chảy về một hướng, xem ra nơi thấp nhất chắc
chắn có chỗ để nước ngầm xuống dưới.
Mọi người lần tìm theo dấu tích, dõi mắt ngước nhìn điểm rơi
của quầng sáng ánh đèn, thì thấy đó chính là một bức tường đổ nát còn sót lại
đứng sừng sững một mình, dưới sự bủa vây của tàn tích rễ cây khô héo, thấp
thoáng ẩn hiện những tháp cổ và tượng đá cao vót, có hình thù cổ xưa, kỳ quái,
vết tích hoang phế do đá tảng và thực vật tạo thành, giống như một mê cung
chẳng thấy điểm tận cùng, chúng lặng lẽ nhốt chặt vô số bí mật vào bóng tối,
nên ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn trongtay Tư Mã Khôi khi so sánh với nó, thật
mỏng manh đến bi thảm.
Mắt nhìn sương mù xung quanh càng lúc càng dày đặc, hội Tư
Mã Khôi chẳng còn đường nào thoát thân. Nhìn vết tích chuyển động chầm chậm của
dòng nước tù, cả hội đành quyết định dồn sức đánh liều một lần, mạo hiểm đi vào
tìm lối thoát của mạch nước. Đúng lúc mọi người đang định khởi hành, thì ngọn
đèn trong tay Hải ngọng đột nhiên tắt ngấm, anh ra sức đập mạnh tay vào đầu
đèn, quầng sáng yếu ớt cuối cùng cũng dặt dẹo sáng lên, xem ra pin đã gần hết.
Lúc này Tư Mã Khôi mới nhận thức được, so với sự giới hạn về
thời gian và không gian, thì trở ngại lớn nhất cản trở việc họ chạy thoát,
chính là sự tiêu hao quá độ và thất lạc của các trang thiết bị. Phần lớn đạn
dược, thức ăn, pin đèn tìm thấy từ chiếc máy bay của đoàn thám hiểm người Anh
đều bị rơi mất lúc đầm lầy sụt lở. Giờ đây trên mình bốn người họ, chỉ còn lại
nửa bao diêm chống ẩm và hai thanh pháo phát tín hiệu, đèn halogen và đèn pin
cầm tay đã hoàn toàn chẳng còn nguồn nhiên liệu thay thế. Tuy nhiên vẫn còn một
ngọn đèn pin loại tiết kiệm điện, nhưng trong không gian dưới lòng đất tối tăm
ẩm ướt thế này, ngoại trừ đèn chiếu halogen và pháo sáng phát tín hiệu ra, thì
những nguồn sáng khác hầu như chẳng có tác dụng gì.
Tư Mã Khôi biết rõ, nếu không có nguồn chiếu sáng đầy đủ,
muốn mò tìm trong bóng đêm để thoát ra khỏi vực thẳm dưới lòng đất cũng đâu
phải chuyện dễ dàng. Nhưng việc đã đến nước này, thì chẳng thể ngồi mà so tính
thiệt hơn được nữa, đành phải đi bước nào biết bước đấy mà thôi.
Bốn người phân phát số vũ khí còn lại, may mà súng không rời
tay, nên tình trạng rơi rớt thất lạc cũng hạn chế. Khẩu súng săn nòng ngoại cỡ
của Hải ngọng vẫn còn, Tuyệt có khẩu súng ngắn TT30 để phòng thân, hòm cứu
thương cô cõng trên lưng từ đầu chí cuối cũng không bị mất. Còn Ngọc Phi Yến,
lúc trước cô đã đưa cho Tư Mã Khôi khẩu HP-35 Browning dự phòng của mình, rồi
cô lại tìm thấy một khẩu súng ngắn Liên Xô trong chiếc máy bay của đoàn thám
hiểm Anh, lúc này vì nhìn thấy trong tay Tư Mã Khôi chỉ có mỗi con dao săn, nên
cô liền đưa nốt súng và đạn cho anh rồi dặn dò: “Chỉ còn hai băng đạn ở ổ sau,
anh dùng tiết kiệm một chút đấy!”
Tư Mã Khôi giơ tay ra đón, vừa liếc mắt đã thấy nó chẳng hề
xa lạ, đó là khẩu súng Stechkin kiểu APS, thân súng làm toàn bộ bằng thép,
không lắp gá gỗ; so với các loại súng khác, nó nặng hơn một chút, nhưng loại
APS này là loại nạp đạn tự động đơn giản, với búa nổ nằm bên ngoài và cò súng
tác động kép. Nó có chốt an toàn ba nấc nằm ngay cạnh tay cầm, và có thể điều
khiển được cảchế độ bắn phát một hay bắn tự động, cỡ nòng 9x18 PM, ổ đạn kép
gồm 20 viên. Ngoài ra, ưu điểm rõ rệt nhất của loại vũ khí do Liên Xô sản xuất
này là có thể sử dụng linh hoạt ở mọi điều kiện thời tiết khắc nghiệt, bất luận
ở môi trường khô lạnh hay ẩm ướt nóng bức, đều có thể bắn nổ bất cứ lúc nào,
tốt hơn rất nhiều thứ vũ khí thô sơ mà mình đang cầm trong tay, thế là anh bèn
gật đầu với Ngọc Phi Yến tỏ ý cảm ơn.
Tư Mã Khôi lại tìm thấy mấy quả lựu đạn phốt pho trên chiếc
xe tải Dodge, anh lần lượt phân phát cho ba người còn lại, thứ này khi đốt cháy
sẽ sản sinh ra một lượng khói lớn, nhưng những lúc cấp bách, vẫn có thể lợi
dụng chất đốt trong thân nó để cung cấp ánh sáng trong khoảng thời gian ngắn.
Để tiết kiệm sự tiêu hao nguồn điện, mọi người chỉ sử dụng một chiếc đèn
halogen để thắp sáng, rồi chẳng để ý đến bùn đất dưới chân, gạt bỏ những đoạn
rễ khô chắn đường, họ đi sâu vào đám hoang phế chỗ bức tường đổ nát phía trước.
Dưới ánh sáng không ngừng lay động của đèn chiếu, một hàng tượng người đá khổng
lồ dần dần hiện ra. Tuy chúng đã bị đổ nát khá nghiêm trọng, nhưng vẫn thấy
được quy mô hoành tráng của chúng vượt ra khỏi tầm tưởng tượng, dường như chúng
là những võ sĩ bảo vệ vô số bí mật của đế quốc cổ xưa. Khuôn mặt tượng đá sống
động như thật, nhưng khuôn mặt nào cũng giống khuôn mặt nào, chẳng hề có sự khác
biệt, tất cả đều cùng một thần thái nghiêm trang, vừa lạnh lùng vừa điềm nhiên,
khiến người ta cảm thấy dường như có một thế lực kỳ dị nào đó đang ẩn trốn
trong bóng tối, chăm chú quan sát tất cả mọi vật xung quanh, thông qua con mắt
lạnh băng của tượng đá.
Ngày nay, tuy khoa học kỹ thuật đã phát triển hơn xưa, nhưng
ở một góc sâu xa nào đó trong nội tâm loài người, vẫn không thể thoát khỏi sự
khiếp sợ và kinh hoàng đối với bóng tối. Có lẽ bởi vì chỉ có bóng tối thăm thẳm
mới là sự tồn tại vĩnh hằng của vũ trụ, hoặc giả trong bóng tối thực sự có quá
nhiều thứ mà loài người không thể nào nhận thức nổi. Giống như cung điện đá
hoang phế, vùi chôn trong tàn tích cánh rừng mà họ đang thấy trước mặt, chẳng
ai có thể đoán trước được là đằng sau vẻ im lìm chết chóc kia, rốt cục ẩn náu
thứ gì.
Hội Tư Mã Khôi quan sát tình hình xung quanh, chẳng hiểu sao
người nào cũng nổi da gà ớn lạnh, và trong lòng không kìm được câu hỏi: “Nơi
đây rốt cục là chỗ nào?”
Hải ngọng ra vẻ hiểu biết nói: “Tớ thấy chỗ này có vẻ là cơ
quan trung ương thời cổ đại, đại khái là nơi vị lãnh đạo tối cao tuyên bố lúc
sáng sớm ‘Chư vị ái khanh, có tấu thì tấu mau,
không tấu thì bãi triều’, bọn họ gọi nơi này là cái gì ấy nhỉ?”
Tư Mã Khôi thấy mấy tượng người đá gần đó, cái nào cũng đầu
thần mặt quỷ, thì nói với Hải ngọng: “Ý của cậu là điện Thái Hòa hả? Tớ lại
cócảm giác nơi đây giống như một ngôi chùa vậy.”
Ngọc Phi Yến nói: “Tuy rằng những ghi chép về tòa thành Nhện
Vàng gần như hoàn toàn trống trơn, nhưng hậu duệ của vương triều Chăm Pa
thì đến nay vẫn còn. Di tích đô thành, cung điện năm đó đều ở đường biên giới
giáp ranh giữa Việt Nam
và Lào, cách chỗ này rất xa. Ngoài ra, tôn giáo thần phật ở Miến Điện phần lớn
bắt nguồn từ Ấn Độ cổ, nên trên tường đá đâu đâu cũng điêu khắc những hình ảnh
mang đậm màu sắc Vệ Đà[30], bởi vậy, chắc đây là một miếu thần hoặc ngôi chùa
cổ. Trước khi chúng ta bước chân vào sơn cốc núi Dã Nhân, thì cũng đã nhìn thấy
rất nhiều di tích Chăm Pa bị hủy hoại, đổ vỡ, mặt mũi chẳng thể phân biệt nổi,
nhưng ngôi chùa cổ chìm sâu dưới lòng đất cùng với tòa thành Nhện Vàng này, lại
hoàn toàn ngược lại, nó được bảo toàn gần như nguyên vẹn.”
Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến nói, thầm nghĩ cả đáy sơn cốc
đều bị một thân cây Udumbara khổng lồ bao trùm, hình thế rất kỳ dị, khiến người
ta quả thực khó lòng dùng lý lẽ thông thường mà tưởng tượng. Đây đúng là một
chùa cổ bị cây cối um tùm rậm rạp che khuất, chỉ mong rằng nó cũng có một con
đường nhỏ quanh co, thông với một nơi thâm u, tĩnh lặng nào đó. Nếu không nhanh
chóng tìm ra được mạch nước ngầm, thì chắc chắn cả hội sẽ bị nhốt đến chết dưới
lòng đất mà trở thành tượng sống. Tuy trong lòng anh tràn ngập bất an, nhưng vì
địa hình gồ ghề khúc khuỷu, hơn nữa thể lực mọi người đã đến giới hạn, chỉ có
thể cố gắng gượng chút sức tàn, bởi vậy tốc độ di chuyển vô cùng chậm chạp.
Lúc này, mọi người lại nhìn thấy phía trước có tòa tháp đá,
móng tường đã bị sụp đổ mất một nửa, nằm nghiêng, gá mình trên một rễ cây khô
to lừng lững như cái cột nhà. Do thân tháp đổ nghiêng, nên lúc đi vòng quanh
mặt bên của nó, có thể thấy hình dáng tổng thể của tháp cổ, và ngay cả từng bức
phù điêu được khắc vẽ tinh xảo ở bên trong cũng thu hết vào tầm mắt.
Những bức phù điêu khắc vẽ kín mít thân tháp, rất giống
những bức phù điêu trên bức tường thành cổ mà họ thấy lúc trước, chúng đều có
mãng xà quấn quanh chân tháp. Ban đầu, Tư Mã Khôi chẳng mấy để mắt tới, nhưng
khi lại sát gần, mới thấy nó có chút cổ quái, chỉ là không thể nói rõ rốt cục
chỗ nào có vấn đề, bất giác anh quan sát nó kỹ hơn một chút.
Tuyệt cũng phát hiện ra điểm bất thường, cô nói với hội Tư
Mã Khôi: “Những con mãng xà này rất cổ quái, dường như nó không giống với bình
thường lắm thì phải.”
Tư Mã Khôi thuận miệng đáp: “Đúng là có chút khác thường, to
thế này... thì là rắn hay trăn nhỉ?” Bốn hình đen thui một dải, con mãng xà đá
cuốn quanh thân tháp vừa dài lại vừa to, chỉ nhìn thấyđầu mà chẳng thấy đuôi
đâu, không thể tưởng tượng nổi dung mạo toàn diện của nó, thế là anh vừa đi lên
trước, vừa xách đèn nhìn nó một lần nữa.
Ba người còn lại bám sát ngay sau, trong lòng ai nấy đều cảm
thấy có chút dị thường. Ngọc Phi Yến thắc mắc: “Tháp cổ và mãng xà là tô tem
đáng sợ trong thể hệ tôn giáo vương triều Chăm
Pa, nó mang ý nghĩa chết chóc và
hủy diệt. Trước đây tôi từng qua tay vài món đồ cổ, trong đó cũng có loại biểu
tượng này, nên cũng không thể coi nó là vật hiếm có. Nhưng tại sao tôi lại cứ
cảm thấy con mãng xà dưới lòng đất được điêu khắc có chút kỳ quái, trên thân
nó... dường như thừa ra một cái gì đấy.”
Hải ngọng ngạc nhiên hỏi: “Trên thân rắn thừa ra cái gì?
Chẳng lẽ người ta ‘vẽ chân cho rắn’, nói xong anh quay sang hỏi Tư Mã Khôi:
“Cậu thấy tớ sử dụng câu thành ngữ ấy có chuẩn không?”
Tư Mã Khôi men theo tháp đá bị đổ sụp, xem xét một hồi, nghe
Hải ngọng hỏi, trong lòng bất giác thầm kích động, lẩm bẩm bụng bảo dạ: “Vẽ
chân cho rắn? Rắn mọc chân... thế thì nó là loài rắn bốn chân rồi. Đáy khe sâu
núi Dã Nhân có rất nhiều loài thằn lằn sinh tồn, có lẽ người cổ đại coi con vật
bốn chân này là rắn thật cũng nên, chúng ta rất khó dùng quan niệm của người
hiện đại để suy đoán ý đồ thực sự của người cổ đại...” Vừa nói, anh vừa đi đến
tận cùng của tháp đá, và phát hiện tòa tháp đá này có hình thù rất đặc biệt:
thân tháp căng tròn, bụng rộng, chóp hẹp, tường bên trong xây kín mít, đó là
một tòa tháp bị phong bế, không có lối ra, góc mái khắc hoa văn thô mộc cổ xưa
hình chiếc lá có gai nhọn, mãng xà quấn quanh thân tháp hòa cùng một thể với
tháp cổ, thân hình quái dị của nó xuất hiện ngoằn ngoèo khắp trong ngoài điện
thờ, nửa ẩn nửa hiện, dường như tháp cổ là mãng xà, và mãng xà cũng là tháp cổ,
rất khó phân tách thành hai thực thể riêng biệt. Điều kỳ lạ nhất là hai bên
thân mãng xà còn khắc những chiếc vây ngắn hình tròn dạng xoắn ốc, chia thành
nhiều cặp dọc theo thân rắn, dường như nó không giống với loài thằn lằn cỏ,
thường gọi là rắn bốn chân.
Hải ngọng rầu rĩ vò đầu bứt tai: “Nhưng có phải nó chỉ có
mỗi bốn cái chân đâu, tớ thấy nó có sáu cái, hay tám cái gì đấy cũng chẳng rõ,
chắc không thể là rắn, mà có khi là một con rết…”
Tuyệt nói: “Rết không giống như vậy, hai hàng bên sườn nó
giống vây, chứ không giống chân, chỉ có sinh vật bơi trong nước mới có vây,
chẳng lẽ đó là loài cá ba sa tám chân thường xuất hiện ở sông Ayeyarwady?”
Tư Mã Khôi nghe mọi người bàn luận, trong đầu anh đảo đi đảo
lại tám chín vòng. Đột nhiên một ý tưởng vụt lóe lên: “Tôi thấy tòa tháp cổ có
mãngxà quấn quanh này khả năng là một ám hiệu, chính vì sự tồn tại của nó, nên
mới có người lái máy bay tiêm kích vận tải liều chết đâm xuống sơn cốc.”