Chuyện xứ Lang Biang (Tập 4) - Chương 12

Chương 12
Trở lại
tiệm Những Dấu Hỏi

Sau
khi bàn bạc, cả bọn quyết định Nguyên và Kăply ở lại bên ngoài. Suku, Păng Ting
và Mua vẫn tiếp tục kế hoạch do thám cửa tiệm của lão Luclac.
Mua vẫn
chưa hết hồi hộp khi nhớ đến sự cố vừa xảy ra:
- Buriăk
có sẽ quay lại không, K’Brăk?
- Không
đâu, chị Mua. – Suku vọt miệng. – Cùng lúc lãnh đủ đòn đánh của cả anh K’Brăk
lẫn anh K’Brêt, Buriăk phải dưỡng thương ít nhất là mười ngày.
Nguyên gật
gù:
- Nếu
không bị thương nặng hắn cũng không dám quay lại đâu. Đơn giản là vì hắn không
biết người vừa tập kích hắn là ai.
Trừ Kăply,
Mua là đứa duy nhất trong bọn nó từng đặt chân vào TIỆM NHỮNG DẤU HỎI. Nó vượt
lên trước Suku và Păng Ting (sau khi Nguyên và Suku quả quyết Buriăk sẽ chuồn
luôn, Mua cảm thấy sự
can đảm đã quay lại với mình).
Cửa tiệm của lão Luclac vẫn
không có gì khác trước. Vẫn là ngôi nhà cũ kĩ và vắng hoe, cửa mở toang, trong
nhà trống huếch trống hoác như vừa bị cướp dọn sạch. Mua dẫn đầu, Suku và Păng
Ting đi sát phía sau, cả ba bước lên những bậc thềm, rón rén đi xuyên qua căn
phòng trống để đến mảnh sân lát đá phía sau. Một hành lang dài và âm u tiếp
liền theo khoảng sân, gió thổi vo vo như trong thung sâu.
Mua đặt chân lên hành lang,
lòng bất giác lo âu. Trước đây, khi lần đầu tiên lạc vào TIỆM NHỮNG DẤU HỎI
cùng với Kăply, Mua không bắt gặp cảm giác này. Hôm đó, chính nó phải làm mọi
cách để thằng Kăply chết nhát không bỏ về nửa chừng. Nhưng lần này, Mua ý thức
rất rõ sự mạo hiểm của chuyến đi. Bây giờ tụi nó có mặt ở đây không vì tình cờ,
cũng không vì tò mò nữa. Tụi nó rõ ràng đang tìm cách khám phá một bí mật liên
quan đến vận mệnh của xứ Lang Biang, bí mật đó hẳn là vô cùng trọng đại, nếu
không trùm Bastu đã không ra lệnh cho Buriăk làm một cái chuyện liều lĩnh là hạ
sát bất cứ ai khả nghi đang lảng vảng quanh cửa tiệm của lão Luclac. Hình ảnh
bàn tay máu của Buriăk lại hiện ra lởn vởn trong đầu khiến Mua thấy ruột mình
như đang đổ đầy chì.
Ba đứa lặng lẽ lê bước bên
nhau, cố lết qua hết cái hành lang ma quái rồi hồi hộp leo lên những bậc thang
lạnh ngắt để lại tiếp tục nuốt hết một cái hành lang khác ma quái không kém
trước khi đối diện với chiếc mặt nạ biết nói gắn trên cánh cửa màu lông chuột.
Păng Ting nhẹ thở ra:
- Tới rồi hả, chị Mua?
- Tới rồi. – Mua đáp khẽ và
quay sang Suku. – Bây giờ là tới phần việc của em.
Thằng oắt không nói gì nhưng
ánh mắt long lanh đầy tự tin.
- Hãy trả lời đi! Cái gì cao
hơn bầu trời? – Chiếc mặt nạ trên cửa cất giọng trầm trầm.
Đã được Kăply và Mua cho biết
trước, Suku và Păng Ting vẫn giật người một cái khi chiếc mặt nạ vằn vện mấp
máy môi cất tiếng hỏi.
Cả Mua lẫn Păng Ting ghim mắt
vào gương mặt sáng sủa của Suku, nín thở chờ đợi. Vẻ căng thẳng trên mặt hai
đứa dãn ra được một chút khi thằng oắt thản nhiên đáp, gần như không cần suy
nghĩ:
- Cái trán của chính mình.
Và đến khi cánh cửa trước mặt
xịch mở thì Mua và Păng Ting mới thực sự thở phào, một lần nữa tin rằng thằng
nhóc trước mặt quả xứng danh là Suku biết tuốt.
Bọn trẻ hí hửng kéo nhau vào,
nhưng không dám len ra phía trước. Cả bọn đứng tuốt phía sau, kiễng chân dòm.
Trong khi Mua nhớn nhác đảo mắt tìm xem ông K’Tul đang ở đâu, Suku và Păng Ting
tò mò quan sát chung quanh, ngạc nhiên hết sức khi thấy khung cảnh náo nhiệt
bên trong hoàn toàn trái ngược với vẻ tĩnh mịch bên ngoài. Các dãy ghế chật
ních người, thậm chí chỗ đứng cũng phải xô lấn mới giành được, tiếng bàn tán ồn
ào như một cái chợ và khói thuốc lá mù mịt chạy quanh phòng khiến Păng Ting
phải dúi mặt vào tay áo để khỏi bật ra những tiếng ho không đúng lúc.
Lúc này trên chiếc bục cao, lão
Luclac vẫn với chiếc áo chẽn láng bóng bên ngoài chiếc áo chùng sặc sỡ, liên
tục ngúc ngoắc chiếc nón chóp trên đầu với bộ tịch hoạt kê không thể tả, những
ngón tay bật vào nhau tanh tách làm xẹt lửa tùm lum, hào hứng giới thiệu:
- Bây giờ xin mời bà Kibo.
Suku từng đến cửa tiệm BAY
LÊN NÀO của mụ Kibo, rốt cuộc không thuê được chiếc chổi bay nào, còn bị con mụ
chanh chua này làm cho ứa gan. Bây giờ, vừa nghe tên mụ, nó cố len cái đầu nhỏ
thó vào giữa hai cái vai to bè phía trước, mắt láo liên xẹt tứ tung.
Rất nhanh, nó nhận ra mụ Kibo
ngồi ở sát bức vách bên trái, dãy thứ hai. Vẫn tròng trên người chiếc áo dơ
hầy, ngang ngửa với chiếc áo bẩn kinh hồn của Buriăk, mụ đứng bật lên khỏi chỗ
khi được gọi tên, nhanh nhẹn như một thiếu nữ.
Mụ thoăn thoắt leo lên bục, tới
cạnh lão Luclac, rồi quay bộ mặt như quả dưa héo ra bốn phía, mụ dộng chiếc
chổi bay Wind XP mới cáu xuống sàn nhà làm phát ra những tiếng lịch kịch để gây
chú ý. Suku cười thầm, biết chắc mụ tới đây bằng phép độn thổ – mụ cố tình xách
theo cây chổi xịn nhất trong cửa tiệm chẳng qua để tranh thủ quảng cáo trước
đám đông.
- Trước tiên ta muốn hỏi các
nhà thông thái ngồi đây, là không biết trong các vị có ai hành nghề y hay
không? – Mụ Kibo nhe hàm răng vàng khè, cất giọng chua lét hỏi như gây sự.
- Bà Kibo ơi, bà có thắc mắc
hay tâm sự gì cứ nói đại ra đi. – Một lão phù thủy mặt mày gồ ghề ngồi ở hàng
ghế trên cùng la lớn, tay quơ qua quơ lại chiếc tẩu thuốc dài sọc trên tay. Lão
nói tiếp bằng giọng đã có vẻ bực mình. – Đã vào được cái cửa tiệm này rồi, ai
cũng là thần y hết á.
Cả đống tiếng nhao nhao phụ
họa:
- Đúng rồi đó. Bà nói lẹ lên
đi, bà Kibo.
- Bà già lẩm cẩm ơi, bà không
nói ra thì ai mà biết bà muốn gì.
Đôi mắt mụ Kibo lóe lên khi
nghe hai chữ “lẩm cẩm” nhưng rồi mụ lập tức cụp mắt xuống, rõ ràng là mụ cố giữ
cho mình đừng nổi điên.
- Như thế này này, – mụ hít vô
một hơi thiệt sâu để lấy bình tĩnh, chậm rãi nói tiếp. – ta rất thích uống nước
dâu pha đường…
Giọng lếu láo khi nãy lại chen
ngang:
- Bà già ơi, đó là chuyện riêng
của bà. Tôi thích uống bia Concop mà tôi có khoe nhặng xị ra đâu.
Như không nghe thấy tên phá
bĩnh, mụ Kibo vẫn tiếp tục kể lể:
- Mỗi tuần ta uống nước dâu pha
đường ít nhất hai lần.
- Và bà muốn bọn ta chỉ cho bà
cách pha chế như thế nào để uống xong có thể trẻ lại hai mươi tuổi phải không?
– Vẫn giọng khi nãy.
- Ta không cần tuổi trẻ, nhất
là thứ tuổi trẻ ngu ngốc và hỗn láo như ngươi. – Mụ Kibo rít lên, đã nhận ra
cái giọng phá đám nãy giờ là của một gã thanh niên. – Ta chỉ muốn vị nào trả
lời giùm ta là nước dâu pha đường có chứa độc tố gì mà hôm nào uống xong một
cốc thì ngày hôm sau con mắt ta lại đau?
Mụ dộng cây Wind XP xuống sàn
một cái “kình”, cất cao giọng:
- Theo thông lệ, hai mươi ngàn
năpken cho kẻ nào giúp ta gỡ được bối rối trong lòng…
Nói xong, mụ Kibo bước lại chỗ
chiếc ghế đặt cạnh đó, ung dung ngồi xuống.
Giọng gã thanh niên lúc nãy lầm
bầm:
- Có hai mươi ngàn năpken mà
cũng làm tàng.
Trong khi đám phù thủy trong
phòng xôn xao ngoảnh tới ngoảnh lui, bàn cãi ỏm tỏi và cửa tiệm của lão Luclac
đã bắt đầu trông giống một cái trại vịt, Păng Ting níu tay Suku, hỏi nhỏ:
- Nước dâu pha đường chứa độc
tố gì vậy hả nhóc?
- Hổng có độc tố gì hết á. –
Suku lắc đầu
- Thế sao con mắt mụ Kibo lại
đau?
- Ai mà biết. – Thằng oắt nhún
vai, giọng bực bội vì bất lực.
Mua vẫn nhớn nhác quét mắt
quanh phòng, không để tâm lắm đến thắc mắc của mụ Kibo. Từ khi bước vào phòng
đến giờ, nó luôn lưu tâm tìm xem pháp sư K’Tul đang lẫn vào đâu giữa cả đống
người nhưng vẫn không phát hiện ra. Mua lo ngay ngáy, đôi khi nó có cảm giác
ông nấp ở một chỗ nào đó và đang kín đáo quan sát tụi nó và ý nghĩ đó khiến nó
muốn khuỵu chân xuống.
Lão phù thủy mặt mày nổi cục
ngồi ở hàng ghế đầu bất thần lên tiếng:
- Có lẽ phải chúc mừng bà thôi,
bà Kibo. Xem tình hình bữa nay, chắc là bà không phải tốn hai mươi ngàn năpken
rồi.
- Ông nói sao? – Mụ Kibo kêu
lên, thất vọng. Vừa nói mụ vừa bật lên khỏi ghế.
Lão già quơ qua quơ lại chiếc
tẩu thuốc trên tay, có vẻ đó là thói quen ưa thích của lão:
- Cho đến lúc này mà hổng có ai
lên tiếng trả lời có nghĩa là bà nên đi xuống chớ sao.
- Phải rồi. Xuống đi, bà già. –
Gã thanh niên lúc nãy hùa theo. – Ra giá có hai mươi ngàn năpken mà đứng lâu
quá.
Lần này, chán nản vì không giải
tỏa được thắc mắc lâu nay, mụ Kibo không buồn làm ra vẻ mình là người giỏi kiềm
chế nữa. Mụ dộng ình ình cây Wind XP xuống bục khiến lão Luclac đứng bên xanh
mặt ngó đăm đăm xuống chỗ mụ đứng, cứ sợ chiếc bục sập xuống thình lình. Vừa
dộng mụ vừa chửi toáng:
- Hừ, tưởng sao! Toàn là thứ ăn
hại. Dù chỉ là hai mươi ngàn năpken nhưng cũng không tới lượt bọn đần độn các
ngươi đâu.
- Bà bình tĩnh đi, bà Kibo. –
Lão Luclac xua tay rối rít, chiếc nón chóp lệch hẳn sang một bên. – Bà để ta
còn làm ăn chứ. Bà nghe ta đi, lần tới bà lại đến đây. Biết đâu lúc đó sẽ có
người nghĩ ra giúp bà.
- Bảo ta trở lại cái cửa tiệm
nhăng nhít này nữa ư, ông Luclac? Ông không nằm mơ đó chớ? – Bà Kibo dài môi ra
như muốn đớp cho lão chủ tiệm một phát. – Ông nghe đây: ta sẽ tự giải quyết
chuyện của mình. Hừ, khó quái gì. Ta chỉ cần không thèm uống nước dâu pha đường
nữa là xong.
Xả một tràng cho đã nư, mụ Kibo
ngúng nguẩy đi xuống, chiếc chổi bay kẹp trong nách quăng quật theo từng bước
chân khiến lão Luclac phải dạt tuốt ra ngoài xa.
Nhưng mụ chưa bước tới ngoài
rìa, một giọng eo éo cất lên từ dãy ghế bên phải:
- Khoan đã, bà Kibo.
Như va phải tường, mụ Kibo
khựng lại, mắt nheo nheo nhìn xuống chỗ phát ra tiếng nói:
- Ai thế? Phải bà Homhem không?
- Tôi đây. – Bà homhem lập cập
đứng lên, tay nắm cứng chiếc gậy đầu khỉ, Mua thấy bà hổng mập lên chút xíu nào
so với lần gặp trước đây.
- Tôi muốn hỏi bà… è…. – Bà
Homhem khò khè như muôn thuở. – Là mỗi khi uống cốc nước dâu pha đường… è… bà
có nhớ lấy chiếc muỗng ra khỏi cốc không… è… è…
Trong khi đám phù thủy ngồi bên
dưới ngớ ra, không hiểu bà Homhem đi hỏi cái chuyện vớ vẩn đó làm gì thì ở trên
bục, mụ Kibo hớn hở ré lên, tay khua tít chiếc chổi bay lúc này đã rút ra khỏi
nách:
- Tuyệt quá, bà Homhem. Bà đã
phát hiện đúng chóc vấn đề rồi đó. Đúng rồi. Đúng là do chiếc muỗng. – Mụ Kibo
càng nói càng phấn khích. – Ta đã quên lấy chiếc muỗng ra khỏi cốc. Và nó chọc
vào con mắt tội nghiệp của ta.
Tràng liến thoắng của mụ Kibo
khiến ai nấy dở khóc dở cười. Thông minh đến như Suku cũng nghệt mặt ra, không
ngờ nguyên nhân bệnh đau mắt của mụ Kibo lại đơn giản và lãng òm như thế.
Lão Luclac xem ra còn hạnh phúc
gấp mười lần mụ Kibo. Lão búng tay tróc tróc làm lửa xẹt thành vòi, mặt tươi
roi rói:
- Thấy chưa, bà Kibo. Cửa tiệm
Những Dấu Hỏi luôn luôn là địa chỉ uy tín và đáng tin cậy với bất cứ ai gặp
phải vướng mắc trong cuộc sống.
Sửa lại chiếc nón chóp cho ngay
ngắn, lão quay xuống khán phòng, ngực ưỡn ra phía trước, giọng trịnh trọng:
- Tôi chính thức tuyên bố bà
Homhem đã trúng giải của bà Kibo.
- Bà chị Homhem thân yêu ơi. –
Mụ Kibo chưa chịu leo xuống khỏi bục, vẫn nhìn về phía bà Homhem, hỏi giọng cảm
kích. – Bà chị có thể cho mụ già lẩm cẩm này biết làm sao mà bà chị có thể đoán
ra nguyên nhân là ở chiếc muỗng không?
Mụ Kibo vui vẻ đến mức dùng
luôn hai chữ “lẩm cẩm” mà mụ rất ghét để nói về mình.
- Đơn giản thôi, bà Kibo. – Bà
Homhem rung rung chiếc gậy. – Chẳng qua tôi cũng từng bị đau mắt như bà. Bà
không biết đó thôi, chứ nước dâu pha đường cũng là thứ mà tôi thích nhất…
Giọng gã thanh niên lại vang
lên, nôn nóng:
- Đủ rồi, hai bà cô ơi. Hai bà
cô muốn tâm sự thì lát nữa dắt nhau đến tiệm Cái Cốc Vàng tha hồ mà cà kê dê
ngỗng. Bây giờ nhường chỗ cho người khác giùm chút đi.
Đám phù thủy bên dưới ủng hộ gã
thanh niên bằng cách gõ lên ghế ngồi bằng đủ thứ vật dụng trong tay làm phát ra
hàng tràng những tiếng lách cách, leng keng, lộc cộc khiến bọn Suku phải đưa
tay lên bịt chặt lấy hai tai.
Ở trên bục, tiếng lão Luclac
vang lên sang sảng như phát ra từ một chiếc loa công suất cực lớn, có thể thấy
gân cổ lão nổi vằn vì cố sức:
- Bây giờ tôi xin phép giới
thiệu nhân vật được chờ đợi nhất…
Lão Luclac vừa nói vừa nghiêng
đầu một cách điệu đàng, trông bộ tịch của lão có cảm tưởng một ngôi sao ca nhạc
sắp bước ra sân khấu. Và cảm giác đó càng có vẻ chính xác khi bên dưới bắt đầu
vang lên những tiếng huýt sáo đầy kích động.
- Đây! – Trên nền âm thanh
huyên náo đó, lão Luclac hét muốn lạc giọng, tay vung mạnh về phía trái. – Vị
khách đặc biệt của cửa tiệm chúng tôi: Ngài K’Tul!
Bọn Suku cố căng mắt nhưng vẫn
không nhận ra ông K’Tul bước ra từ dãy ghế nào. Lão Luclac vừa nói xong, đã
thấy ông K’Tul đứng ngay trên bục, cứ như thể ông hiện ra từ trong không khí.
Tim đập thình thịch, Suku nói
khẽ vào tai hai bạn:
- Cậu K’Tul độn thổ.
Păng Ting và Mua cố nghiêng đầu
về phía Suku nhưng không nghe được gì. Câu nói của thằng oắt vừa thoát ra khỏi
đôi môi đã bị nhấn chìm bởi những tràng vỗ tay dội lên rào rào khi ông K’Tul
xuất hiện. Tiếng hú hét dậy lên như sóng, lan ra khắp khán phòng, càn quét hết
mọi âm thanh khác.
Và cũng rất giống phong cách
một ngôi sao ca nhạc, ông K’Tul giơ tay lên như để đáp lại sự ái mộ của khán
giả. Nhưng bọn Suku thấy ông không cười. Giấu mình vào một chỗ thiếu sáng nhất
trên sân khấu, ánh mắt sắc lạnh của ông quét quanh một vòng như để thâu tóm hết
mọi gương mặt, dĩ nhiên chỗ này bọn Suku phải hụp người xuống để giấu mình đằng
sau những tấm lưng đang án ngữ phía trước mặc dù tụi nó không nghĩ ông K’Tul có
thể nhìn thấy tụi nó ở một khoảng cách xa như vậy.
- Nói thiệt với các vị là tôi
rất thất vọng. – Ông K’Tul bắt đầu bằng một câu trách móc, bộ ria con kiến cựa
quậy dữ dội như muốn bò ra khỏi gương mặt ông. – Tôi tin là các bộ óc thông
thái nhất của xứ Lang Biang đều tập trung hết tại đây. Thế mà bí mật của câu
thơ “Ai vui ta sẽ vui cùng, ai buồn ta sẽ buồn chung với người” cho đến hôm nay
vẫn chưa có ai giải được.
Ông nhìn rất nhanh lão Luclac
đang đứng xun xoe bên cạnh rồi quay phắt xuống dưới, tay giơ cao lên khỏi đầu,
cao giọng:
- Hôm nay tôi tuyên bố tăng
giải thưởng lên hai trăm ngàn năpken. Các vị nên…
Nhưng ông K’Tul không bao giờ
có thể nói hết câu nói của mình. Một cơn bão âm thanh đã tràn ngập khán phòng,
lần này kèm theo những tiếng giậm
chân thình thịch, vài viên đá lát sàn đã bung ra và đám phù thủy giống như đột
ngột rơi thẳng vào cơn điên. Ở trên sân khấu, lão Luclac rụng người xuống bục
và có vẻ không thể đứng dậy được nữa.
Bọn Suku cũng ngồi thụp luôn
xuống nền nhà, một lần nữa đưa tay bịt tai, và bắt đầu hiểu ra tại sao mọi
người muốn tống khứ mụ Kibo xuống khỏi bục càng nhanh càng tốt. Hóa ra tất cả
bọn họ đều nóng lòng chờ ông K’Tul, nói chính xác là chờ món tiền thưởng khổng
lồ của ông, mặc dù cho đến nay món tiền hấp dẫn đó vẫn lơ lửng trên không, chưa
chịu rơi trúng đầu một ai trong số họ.
- Ông K’Tul. – Tiếng một người
nào đó gào lên, giọng méo đi vì xúc động quá mức. – Đó là người chồng. Chỉ có
người chồng mới vui buồn cùng vợ như thế thôi. Ông thấy đáp án của tôi hoàn
toàn hợp lý chớ hả?
- Hợp lý cái con khỉ! – Ông
K’ul chưa kịp đáp, một mụ phù thủy đã cất giọng rủa xả. – Ai thì tôi không
biết, chứ như lão chồng chết tiệt nhà tôi, tôi chỉ mong quỷ vật lão nhăn răng
cho rồi.
- Thế thì đó là người vợ. –
Tiếng một người khác. – Ô hô, đúng rồi, người vợ chính là người mà câu thơ muốn
nhắc đến: Tôi vui vợ sẽ vui cùng, tôi buồn vợ sẽ…
- Câm cái mồm thối hoắc của
ngươi lại đi. – Lại có người kịch liệt phản đối. – Ta chắc ngươi vừa lọt lòng
ra đã biết nịnh vợ rồi. Hừ, mụ vợ của ta ấy à… hu… hu… hu… mụ đã đi theo thằng
cha hàng xóm mất rồi còn đâu… hu… hu…
Tiệm Những Dấu Hỏi trong nháy
mắt đã biến thành một thế giới hỗn loạn không thể tả. Suku chưa bao giờ trông
thấy một cảnh tượng quái đản như thế: tiếng cười đùa, tiếng cãi cọ, tiếng gào
thét, tiếng than khóc va đập nhau, trộn lẫn vào nhau để cho ra một thứ gì đó
không thể hiểu nổi, nói tóm lại thiệt là kinh hồn động phách.
Suku nắm chặt tay Mua và Păng
Ting thay cho lời nói lúc này đã thành vô dụng, kéo tuột cả hai ra ngoài cửa.
- Suku… tới những hai trăm ngàn
năpken…
Mua vừa mấp máy môi, đã thấy
mình ở ngoài hành lang, sau lưng nó tiếng cánh cửa đóng sập và lời chào của
chiếc mặt nạ biết nói niềm nở vang lên “Sẵn sàng đón chào quý khách trở lại.”
- Suku, như vậy có nghĩa là câu
thơ của cậu K’Tul đến nay vẫn chưa có ai giải được? – Nguyên cất tiếng hỏi, khi
cả bọn đang quay ngược trở ra đường Ma Ya.
- Đúng vậy, anh K’Brăk. – Thằng
oắt hất lọn tóc đã sắp sửa đâm vào mắt, giọng chưa hết thảng thốt. – Cho nên
cậu K’Tul mới tăng giải thưởng lên tới hai trăm ngàn năpken để kích thích họ.
- Không thể tưởng tượng nổi! –
Mua thì thầm, trông mặt thì hình như nó vẫn chưa thoát ra khỏi sự ám ảnh về số
tiền thưởng quá lớn của ông K’Tul.
Kăply nhìn Suku:
- Ê, thế còn câu hỏi vô cửa?
Tại sao “cái trán của chính mình” lại cao hơn bầu trời được hở Suku?
- Vì khi ngước lên, ta có thể
trông thấy bầu trời, nhưng không thể nào trông thấy “cái trán của chính mình”.
– Suku đáp, đơn giản.
Kăply nhìn thằng oắt thêm một
lúc, vẻ thán phục in trên mặt, rồi ngạc nhiên hỏi:
- Em thông minh như vậy mà
không biết được bí ẩn nằm trong câu thơ của cậu K’Tul sao?
Suku trầm ngâm một lúc rồi khẽ
khàng đáp:
- Đây là câu đố mẹo, anh K’Brêt
à. Chính chữ “ai” và chữ “ta” trong câu thơ đã khiến những nhà thông thái trong
tiệm Những Dấu Hỏi đi chệch hướng. Tất cả bọn họ đều bị lừa.
- Là sao hả Suku? – Mua dán mắt
vào thằng oắt, hồi hộp hỏi, nó vừa rơi ra khỏi nỗi ám ảnh tiền bạc để lại có vẻ
bắt đầu rơi vào một nỗi phấp phỏng mới.
Suku thản nhiên:
- Em nghĩ chữ “ta” trong câu
thơ chưa chắc là để chỉ người. Đó có thể là một con vật hay một đồ vật.
Thằng oắt nhún vai:
- Em chỉ có thể suy luận đến
đó, chị Mua. Còn đấy là con vật nào hay đồ vật gì thì em chịu.
Kăply nghĩ thêm một hồi về câu
nói của Suku, càng nghĩ càng chẳng thấy gì hết, chỉ thấy nhức đầu. Biết mình
không thể thông minh hơn Suku hay thằng bạn đại ca của nó, Kăply liền lái câu
chuyện sang hướng khác:
- Suku nè, em có thấy lạ không,
khi sứ giả thứ năm của trùm Bastu không muốn ai mon men đến cửa tiệm của lão
Luclac?
Nguyên cất giọng tư lự:
- Cửa tiệm của lão Luclac ngoài
số hội viên có thẻ, còn đón thêm khách bên ngoài. Chính chiếc mặt nạ biết nói
làm nhiệm vụ khảo sát trí thông minh của khách vãng lai. Do đó, Buriăk không
thể giết hết khách của lão Luclac được. Có lẽ hắn chỉ trừ khử những kẻ nào khả
nghi như bọn mình thôi.
- Nói như anh, trùm Bastu đã
biết tỏng nhiệm vụ của cậu K’Tul từ lâu rồi? – Păng Ting ngọ nguậy cái gì đó
giống như là mái tóc.
- Hắn đã biết, Păng Ting. –
Nguyên thở dài. – Hắn cũng biết rõ câu thơ của cậu K’Tul chính là chiếc chìa
khóa mở ra cánh cửa bí mật trong vụ truy tìm báu vật ở lâu đài K’Rahlan.
Mua kêu lên:
- Nhưng Buriăk chỉ có thể ngăn
chặn khách vãng lai, còn hội viên thường trực của lão Luclac, những phù thủy
đến thẳng cửa tiệm bằng phép độn thổ thì hắn làm gì được họ?
Nguyên tặc lưỡi, suýt chút nữa
đã đưa tay dứt tóc.
- Tôi nghĩ trùm Bastu đã có
trong tay danh sách hội viên của tiệm Những Dấu Hỏi từ lâu rồi. Chắc chắn hắn
đã cài thuộc hạ của hắn vào trong đó, đã điều tra từng người và hội viên nào tỏ
ra quan tâm đến báu vật ở lâu đài K’Rahlan có lẽ bây giờ đã không một ai còn
sống sót.
Nguyên khịt mũi nói thêm:
- Mua đừng quên hữu hộ pháp Balikem
và sứ giả Buriăk hiện đang quanh quẩn ở vùng này.
Câu nói của Nguyên y như một
ngọn roi quất ngang lưng bọn trẻ. Cả bọn giật nảy một cái, cố bước thật nhanh
ra khỏi hẻm Gieo Sự Chết, hoàn toàn bản năng, quên rằng Nguyên và Kăply hiện
nay thừa sức cầm cự ngang ngửa với Balikem và Buriăk nếu cả hai cùng xuất hiện.
Êmê và K’Tub chờ Nguyên và
Kăply ngay trước cổng.
- Tụi anh đi đâu mà không rủ em
và chị Êmê đi với? – K’Tub chộp lấy tay Kăply ngay khi thằng này vừa đặt chân
qua cổng, hỏi giọng nôn nóng và giận dỗi.
Kăply toét miệng cười, đã chuẩn
bị sẵn câu trả lời:
- Tụi anh lên trường gặp thầy
hiệu trưởng.
- Thầy N’Trang Long hẹn tụi anh
hả?
- Ừ.
K’Tub tròn mắt:
- Thầy gặp tụi anh làm gì thế?
Kăply nhún vai:
- Thầy bảo tụi anh phải cẩn
thận. Balikem và Buriăk hiện nay đang lảng vảng quanh đây.
- Chỉ có vậy thôi hả, anh
K’Brăk?
Êmê quay sang Nguyên, hỏi giọng
ngờ vực. Nguyên nhìn cái mũi hếch xinh xắn của cô bé, tự nhiên liên tưởng đến
cái máy dò sự thật, bụng bất giác thót lại:
- À không. Thầy còn hỏi tụi anh
về vụ truy tìm báu vật.
- Lại báu vật? – Êmê nheo mắt.
– Thế anh vẫn nghĩ trong lâu đài K’Rahlan có báu vật thật ư?
- Chị Êmê. – K’Tub vọt miệng. –
Nếu thầy N’Trang Long đã quả quyết như vậy thì chúng ta nên tin là có.
Êmê lắc mái tóc vàng:
- Chị chưa từng nghe nói tới
chuyện này, K’Tub.
- Êmê. – Nguyên cố lấy giọng
điềm tĩnh. – Nếu đây thực sự là bí mật quan trọng ở xứ Lang Biang trong vòng ba
trăm năm qua thì không phải ai cũng từng nghe nói tới.
Bà Êmô từ trong nhà bước ra,
kết thúc luôn câu chuyện giữa bọn trẻ:
- Sao tụi con kéo hết ra đây
thế?
Chưa đứa nào kịp đáp, bà đã rối
rít khoát tay:
- Vào nhà! Vào nhà hết! Hổng lẽ
tụi con chưa biết Balikem và Buriăk đã xuất hiện ở vùng này?
Êmê ngạc nhiên, không nghĩ bà
Êmô lại biết tin này.
- Ai nói thế hở mẹ?
Bà Êmô vung lên tờ phụ trương
buổi chiều Lang Biang hằng ngày đang cầm trên tay, mặt mày căng thẳng:
- Trong này nè. Cục an ninh vừa
ra thông báo lưu ý cư dân Lang Biang đề cao cảnh giác. Theo họ, có nhiều dấu
hiệu cho thấy Balikem, hữu hộ pháp của trùm Hắc Ám, tái xuất hiện sau mười ba
năm biệt tích. Và cùng với sứ giả Buriăk, hiện nay cả hai đang có mặt ở đây.
Theo như những gì bọn trẻ được
biết từ miệng bà Êmô thì thông báo của Cục an ninh chỉ ngắn gọn có thế, nghĩa
là hoàn toàn không đề cập gì đến chuyện thám tử Eakar sập bẫy Balikem. Chắc họ
không muốn bị cười vào mũi! Bọn trẻ nghĩ thầm và ngoan ngoãn theo chân bà Êmô
vào nhà, mặt mày đứa nào đứa nấy nom ngây thơ hiền lành hết sức.
Trong khi bọn nhóc lâu đài
K’Rahlan khoái chí vì đã đánh lừa được bà Êmô thì bà Êmô cũng khoái chí không
kém vì đã vờ vịt một cách xuất sắc, mặc dù không thể nói là bà đã làm chuyện đó
một cách dễ dàng, đơn giản vì đó không phải là chuyện mà bà thường làm. Thiệt
tình thì bà không tin những chiến binh giữ đền như Nguyên và Kăply lại không
được Hội đồng tối cao Lang Biang thông báo về sự xuất hiện của hữu hộ pháp và
sứ giả thứ năm của phe Hắc Ám – toàn những tay đầu sỏ.
Dĩ nhiên, nhìn vào năng lượng
pháp thuật của Nguyên và Kăply hiện nay, bà Êmô vững tin hai đứa có thể đối phó
được với Balikem và Buriăk, cũng như đủ khả năng bảo vệ Êmê và K’Tub trước mọi
bất trắc, nhưng dẫu sao với tấm lòng của một người mẹ, bà vẫn luôn bắt gặp mình
thấp thỏm không yên.
Cho nên khi quýnh quíu lùa bọn
trẻ vào nhà, bà đã hoảng hốt thực sự. Nỗi lo lắng dâng lên từ đáy lòng đó đã
giúp bà có một vẻ chân thành sâu sắc đến mức bọn Kăply không nghĩ là bà đã biết
tỏng những hành vi bí mật của tụi nó, kể cả vẻ ngoan ngoãn láu cá mà tụi nó
đang cố tình trương ra trên mặt như những tấm bảng quảng cáo diêm dúa mà từ lâu
bà Êmô đã thấy không đáng tin chút xíu nào.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3