Chiếc Lexus và cây Ô Liu - Phần IV - Chương 19 - Phần 1
19.Nếu muốn gặp người, hãy bấm số 1
Nếu có một lập luận chung xuyên suốt cuốn sách này
thì đó là quan điểm toàn cầu hóa là tổng hòa của mọi điều và những sự tương
phản của chính những điều đó. Toàn cầu hóa có thể tiếp sức vô hạn nhưng cũng có
thể chèn ép con người vô cùng.
Toàn cầu hóa có thể phân bổ các cơ hội nhưng cũng
khiến tràn lan sự hoang mang. Toàn cầu hóa thổi phồng những con cá voi nhưng
cũng khiến những loài cá nhỏ trở nên mạnh mẽ hơn. Nó bỏ mặc bạn lại đằng sau
nhanh chóng hơn, và đuổi kịp bạn sớm hơn.
Trong khi có khả năng đồng hóa về văn hóa, thì chính
toàn cầu hóa tạo điều kiện cho dân chúng chia sẻ những bản sắc cá nhân độc đáo
của họ đến những miền xa một cách nhanh chóng hơn. Nó khiến cho chúng ta đuổi
theo chiếc xe Lexus gấp gáp hơn, và buộc chúng ta phải níu giữ những cây Ô liu
của chúng ta chặt chẽ hơn. Nó làm cho chúng ta đi vào thế giới và khiến cho thế
giới đến với chúng ta với tốc độ nhanh hơn bao giờ hết.
Như tôi đã chứng minh, từ thuở ban đầu, khi toàn cầu
hóa trở thành một hệ thống quốc tế, các quốc gia và cộng đồng đã bị giằng co giữa
cảm giác bị cuốn hút vào những lợi ích do nó mang lại và cảm giác bị vùi dập
bởi những đặc điểm tiêu cực của nó. Cho đến nay, giữa các cơn thăng trầm ủng hộ
và chống đối, toàn cầu hóa đã định hình trong tất cả các nước lớn và phát
triển, sau khi họ kết nối vào hệ thống. Không nước nào cho thấy sự chống đối
toàn cầu hóa đã bao giờ thành công và lên nắm quyền bính, hay trở nên phổ biến
đến mức có thể làm tổn hại đến toàn bộ hệ thống – không như hiện tượng đế quốc
Áo-Hung trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, hay nước Đức trước Chiến tranh thế
giới thứ hai.
Toàn cầu hóa có mãi mãi như vậy không? Toàn cầu hóa
là điều không thể đảo ngược? Tôi có cảm giác rằng toàn cầu hóa “gần như” là
không thể đảo ngược. Vì sao tôi nói “gần như” mà không khẳng định chắc chắn?
Rất khó có thể đảo ngược được toàn cầu hóa vì nó mang trong mình những hoài bão
lớn lao của nhân loại – mong muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn – và những công nghệ
hùng mạnh hội nhập chúng ta ngày đêm, dẫu cho chúng ta có ưa thích thế hay
không. Trên lý thuyết thì những hoài bão và những công nghệ đó có thể bị dẹp
bỏ, nhưng làm như thế ta sẽ phải xây tường rào cao hơn và vững chãi hơn, như
vậy ta sẽ phải trả giá đắt cho sự phát triển của xã hội. Tôi không nghĩ điều đó
sẽ xảy ra nhưng đó là điều có khả năng xảy ra. Có khả năng rằng nếu toàn cầu
hóa trở nên hỗn loạn, làm phương hại không những đến những thiểu số mà cả đa số
dân chúng ở các nước lớn, thì khi đó toàn cầu hóa sẽ bị dẹp bỏ.
Vì sao có khả năng như vậy? Vì ngày nay đe dọa lớn
nhất nhằm vào toàn cầu hóa chính bắt nguồn từ bản thân nó. Hệ thống này cũng
mang trong mình những tiềm năng để tự phá hủy bản thân. Nó mang trong mình
những nhân tố và đặc tính mà nếu chúng hoành hành thì toàn cầu hóa sẽ trở nên
hung dữ, khiến cho số đông dân chúng ở các nước sẽ cảm thấy bị bất lực – họ sẽ
chống lại hoặc xây tường rào để xa lánh toàn cầu hóa. Sau đây là những nguyên
nhân tình trạng đó có thể xảy ra.
Gian khổ quá
Khi sang Bangkok vào năm 1997, thời điểm hỗn loạn
của kinh tế Thái Lan, tôi đã hỏi chuyện một nhà ngoại giao người Mỹ về hậu quả
của khủng hoảng đối với đất nước này ra sao. Chúng tôi bàn luận về những gì
Thái Lan sẽ phải sớm thực hiện để có thể nâng cấp hệ điều hành và những phần
mềm để họ có thể sớm quay lại hội nhập với toàn cầu hóa. Nhà ngoại giao này đưa
ra một bản liệt kê. Khi ông ta nói xong, tôi nhận xét: “Ông có biết không,
chúng ta muốn Thái Lan trong 20 năm phải thực hiện những điều mà nước Mỹ mất
200 năm mới hoàn thành.”
“Không, không,” ông ta lắc đầu, nói với tôi. Tôi
nhận xét sai. Ông ta nói: “Chúng ta không muốn họ phải thực hiện những điều đó
trong 20 năm… Chúng ta muốn họ thực hiện những điều đó trong một năm!”
Điều hiển nhiên trong toàn cầu hóa ngày nay là sức
mạnh và vị thế của một đất nước tùy thuộc một phần vào chức năng phát triển một
hệ điều hành và những phần mềm định hướng cho tăng trưởng. Nhưng điều gì sẽ xảy
ra khi quá trình phát triển những cơ chế tự do hóa thị trường và mặc chiếc áo
nịt nạm vàng … tất cả trở nên quá gian khổ đối với quá nhiều nước lớn? Dẫu cho
các nhà chính trị và những người khác có thể chịu đựng gian khổ, thắt lưng buộc
bụng để tiến tới thế giới Disney, thì vẫn còn những giới hạn mà họ sẽ gặp phải.
Henry Kissinger một lần đã nói, lãnh đạo chính trị “không thể tồn tại nếu họ
đóng vai trò những người lắng nghe chỉ thị từ nước ngoài rồi bắt dân chúng phải
chịu đựng thắt lưng buộc bụng trong thời gian quá lâu.” Phát triển phần mềm sẽ
phải mất thời gian, định hướng đất nước của bạn để kết nối với Bầy Thú Điện Tử
sẽ phải mất thời gian dài, và nhiều nước hiện nay chưa có khả năng về chính trị
và kinh tế để làm những việc đó. Có những nước trì trệ với lý do văn hóa.
Thường thì văn hóa rất chậm thay đổi. Phát triển một đời xe Lexus mới dễ dàng
hơn nhiều so với việc thay đổi các giống cây Ô liu – vì có khi phải mất hàng
thế hệ.
Nếu đánh dấu sự khởi đầu của hệ thống toàn cầu hóa
ngày nay bắt đầu từ khi bức tường Berlin sụp đổ thì chúng ta có thể nói toàn
cầu hóa nay đã sang được thập niên thứ hai. Trong thập niên đầu của toàn cầu
hóa, chúng ta đã chứng kiến những gì xảy ra khi những nước nhỏ – Bosnia,
Albania, Algeria, Serbia, Syria và nhiều nước châu Phi – đã không có khả năng
quá độ. Nhưng những đất nước đó nhỏ bé và yếu ớt nên chưa thực sự có tác động
tiêu cực đến toàn cầu hóa; toàn cầu hóa có thể xây bao quanh họ một bức tường
lửa để tránh xung động.
Tuy nhiên khi sang thập niên thứ hai chúng ta vấp
phải một vấn đề nghiêm trọng hơn: Nếu những nước lớn như Nga, Trung Quốc và
Nhật Bản – chưa nói đến Indonesia, Brazil, hay một số thành viên của Liên minh
châu Âu – không thể quá độ vào toàn cầu hóa? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ cảm thấy
chiếc áo nịt quá chật, không thể mặc vừa, hay những xã hội của họ không thể
chịu những thay đổi về văn hóa, chính trị và kinh tế nhằm có thể đi đến một chủ
nghĩa tư bản sòng phẳng và tàn nhẫn, nơi mà những công ty làm ăn yếu kém sẽ bị
thải đi, không cho phép hồi sức. Ba trào lưu dân chủ hóa đã khiến cho sự sụp đổ
của Liên Xô và sự thay đổi kinh tế của Trung Quốc diễn ra. Chúng đã khiến cho
sự sụp đổ của các chính thể tham nhũng ở Albania và Indonesia diễn ra. Chúng đã
khiến diễn ra sự sụp đổ của nền kinh tế lắt léo và bảo hộ của Nhật Bản. Nhưng
những điều đó không có nghĩa là chúng sẽ chắc chắn thành công trong hệ thống
toàn cầu hóa.
Hãy xem xét ba quốc gia quan trọng nhất ngày nay:
Nga, Trung Quốc và Nhật Bản. Nếu xem xét kỹ lưỡng bạn sẽ thấy điều gì? Điều tôi
nhìn thấy đó là ba quốc gia lớn và hùng mạnh, trông giống như những đô vật hạng
cân cao, bắp thịt cuồn cuộn, nhưng trong lòng họ âm ỉ chứng đau tim. Trái tim
của họ – mang ý nghĩa những hệ điều hành và phần mềm, chịu trách nhiệm bơm máu
cho những bắp thịt công nghiệp – hiện đang bị tắc nghẽn, máu bị bơm xuống chân
quá nhiều nhưng lại thiếu ở đầu và những phần khác trên thân thể. Nước Nga cần
phải được thay máu hoàn toàn. Trung Quốc cần phải được giải phẫu tim. Và Nhật
Bản cần một số biệt dược để có thể giảm thành phần cholesterol. (Pháp, Đức và
những nước khác ở Tây Âu chưa cần đến những liệu pháp mạnh như vậy, nhưng họ
cần phải áp dụng các chế độ ăn kiêng, giảm mỡ, nếu muốn mặc lên thân thể chiếc áo
nịt mang tên Liên hiệp Tiền tệ châu Âu. Chế độ ăn kiêng đó thường gây đau đớn
và sẽ đòi hỏi phải thay đổi trong lối sống – chính vì thế Liên hiệp Tiền tệ và
đồng tiền chung châu Âu sẽ rất khó có thể được duy trì trên phương diện chính
trị, khó hơn là mọi người vẫn nghĩ.)
Tôi là người lớn lên trong thời đại mà những đe dọa
lớn nhất nhằm vào Mỹ là từ sức mạnh quân sự của Nga và Trung Quốc, và sức mạnh
kinh tế Nhật Bản. Tôi ngờ rằng hai cô con gái của tôi, giờ đây đã 12 và 15, sẽ
lớn lên trong một thế giới mà đe dọa lớn nhất nhằm vào Hoa Kỳ sẽ đến từ sự yếu
kém về quân sự của Nga và Trung Quốc, và sự yếu kém về kinh tế của Nhật Bản.
Điều chỉnh để hội nhập toàn cầu hóa sẽ là quá trình cực kỳ khó khăn đối với ba
nước này. Ba đất nước khác nhau, thách thức dành cho họ khác nhau, nhưng thực
ra chúng không khác biệt nhiều như mức bạn nghĩ.
Nhật Bản
Một điều bí mật: Kinh tế Nhật Bản mang nhiều đặc
tính cộng sản hơn là tư bản. Walt Mossberg, bình luận viên về công nghệ cho tờ
Tạp chí Phố Wall hay nói, “Nhật Bản là đất nước cộng sản thành công nhất thế
giới.” Thật ra, đó là một nơi mà chủ nghĩa cộng sản thực sự thành công. Đúng
thế. Trong Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản chỉ có một đảng cầm quyền, Đảng Dân chủ
Tự do, LDP. Dưới sự lãnh đạo của LDP, Nhà nước được chỉ đạo bởi một cơ chế
chuyên chính, một cơ cấu quan liêu cao cấp tương tự như ở Trung Quốc và Nga.
Những vị quan liêu đó thường quyết định việc phân bố tài nguyên của đất nước.
Truyền thông ở Nhật Bản thường dễ bảo, và được chỉ đạo của Chính phủ tuy không
trực tiếp nằm dưới quyền kiểm soát của Chính phủ. Nhật Bản có dân số cũng rất
tuân phục chế độ, những ai không tuân phục thường phải trả giá đắt. Những người
không tuân phục không bị giam vào trại khổ sai, nhưng thường bị chuyển đến
những vùng tựa như Siberia của người Nhật. Ở Nhật Bản, những kẻ bất phục thường
bị chụp mũ là “Madogiwazoku,” tạm dịch là “Những đám đông nhìn qua cửa sổ,” vì
họ thường bị bắt phải ngồi ở những chiếc bàn trong sở làm nhìn ra cửa sổ, và
thường bị hắt hủi. Dân số tuân phục Nhật Bản thường sẵn sàng làm thêm giờ để
đổi lấy mức sống được cải thiện, biên chế cả đời và sự ổn định nhất định trong
cuộc sống. Nhật Bản có một chương trình bắt buộc mọi người phải tiết kiệm trong
đó dân chúng và các công ty bị bắt buộc phải gom tiền và đầu tư và tránh tiêu
pha. Nếu chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô phấn đấu bằng một nửa Nhật Bản, thì Liên
Xô sẽ không phải chịu thua trong Chiến tranh Lạnh.
Nói đi thì phải nói lại. Kinh tế Nhật Bản mang đặc
tính thị trường tự do rõ rệt. Một phần ba kinh tế Nhật ngày nay được đóng góp
từ các công ty có công nghệ hiện đại, cạnh tranh toàn cầu, như Sony,
Mitsubishi, Canon và Lexus. Đó là những công ty trong số những công ty tốt nhất
trên thế giới và chúng đã đem lại những khoản vốn lớn cho đất nước. Những khoản
tiết kiệm đó đã bảo vệ cho hai phần kia của kinh tế Nhật – mang tính cộng sản,
gồm những hãng xưởng to xác, trì trệ, tồn tại nhiều năm nhờ có những hàng rào
bảo hộ mậu dịch do chính quyền một đảng dựng lên. Nhật Bản đã tập trung được
những khoản tiết kiệm trong thời Chiến tranh Lạnh đến mức nó tồn tại trong thập
niên toàn cầu hóa thứ nhất mà không bị suy yếu – mặc dù bị trì trệ nặng nề từ
năm 1992. Ngược lại, Hàn Quốc, theo điển hình Nhật Bản, nhưng lại không có dồi
dào những khoản tiết kiệm như của Nhật. Hậu quả là Hàn Quốc phải chịu nhiều đau
đớn hơn trong quá trình tự điều chỉnh của nước này với thời hạn rất eo hẹp.
Rốt cuộc, nếu phải giải quyết đi sự trì trệ kéo dài,
thì khu vực cộng sản trong kinh tế Nhật sẽ phải chịu “tư nhân hóa” giống như
trong trường hợp của Nga và Trung Quốc. Các hãng xưởng và ngân hàng làm ăn
thiếu hiệu quả của Nhật Bản sẽ phải bị mang ra xử bắn và vốn liếng tồn đọng của
chúng phải được chuyển cho các cơ sở năng động và hiệu quả hơn. Đó là những
hiện tượng đã bắt đầu gây rối loạn trong xã hội Nhật.
Hoa Kỳ là một xã hội trong đó tiêu chuẩn văn hóa
tương xứng với tiêu chuẩn kinh doanh phù hợp với toàn cầu hóa – cả hai đều mang
tính linh động và minh bạch. Nhật Bản không có sự tương xứng đó. Nhật Bản có
một thứ văn hóa đầy rẫy những bí mật và tăm tối và một hệ thống cứng nhắc khuôn
phép. Những tiêu chuẩn văn hóa càng khác biệt với tiêu chuẩn toàn cầu hóa thì
sự điều chỉnh và thích nghi với toàn cầu hóa càng trở nên gian khổ hơn. Trong
một xã hội Hồi giáo, những người phụ nữ kéo khăn trùm mặt đặng trốn tránh thế
giới. Nhật Bản là một đất nước đang cùng đeo một thứ khăn trùm che mặt. Khó có
thể thấy được giải khăn này của Nhật Bản, nhưng nó vẫn đang được đeo, khiến
nước Nhật tránh né thế giới.
Tuy nhiên, lịch sử của Nhật Bản cũng dạy chúng ta
rằng đất nước này có khả năng thay đổi và thích nghi với các hệ thống mới,
nhưng chỉ làm điều đó khi lên đến đỉnh điểm của khủng hoảng và đất nước không
còn cách nào khác. Tôi không nghi ngờ là Nhật Bản sẽ lại trở thành một cường
quốc kinh tế đáng gờm, nhưng điều đó chỉ xảy ra sau khi có những điều chỉnh về
văn hóa, chính trị và xã hội. Hãy xem xét một tập tục của Nhật Bản: Thành viên
ban quản trị của hầu như toàn bộ các công ty Nhật được niêm yết ngày nay –
ngoại trừ những hãng công nghệ cao, được Mỹ hóa như Sony – bao gồm những giám
đốc mới và cũ của hãng đó, và cổ đông hầu như không tham gia gì vào các quyết
định của hãng. Hầu như không có loại thành viên quản trị độc lập hoặc đến từ
bên ngoài. Một hệ thống cha truyền con nối như vậy không thể nào đem lại được
các thay đổi nhanh chóng và những sự phá cũ xây mới ngõ hầu cho phép Nhật Bản
theo kịp tốc độ phát triển trong thập niên tới. Cơ chế đó sẽ phải thay đổi, và
quả là đã bắt đầu phải chấp nhận chịu đau đớn.
Khi tôi sang Tokyo đầu năm 1999, người bạn của tôi
trong Bộ Ngoại giao Nhật Bản bắt đầu cuộc trò chuyện với tôi bằng câu: “Con
trai tôi hôm trước tuyên bố [với vợ tôi và tôi] rằng hắn sẽ trở thành một quản
trị viên quỹ đầu tư, nhưng hắn không muốn làm việc cho một ngân hàng Nhật Bản.
Hắn muốn làm cho một ngân hàng quốc tế. Những cơ sở mà thời chúng tôi còn trẻ
rất muốn gia nhập, như các ngân hàng lớn, nay đang vỡ vụn ra. Đó là điều mới
mẻ. Vợ tôi không hiểu con trai nói gì. Vậy hắn giải thích với mẹ, “Nếu mẹ muốn
biết con đang mong điều gì thì hãy xem phim này.” Nói đoạn con trai đưa cho mẹ
cuốn băng video bộ phim Tiền của người khác, nói về một nhà tài chính người New
York tiếp nhận [và vực dậy] một công ty đang lụn bại ở New England. Vợ tôi vẫn
còn lo lắng.”
Một người bạn Nhật Bản khác làm việc trong lĩnh vực
tuyển dụng các quản trị viên đã cho tôi biết là chị rất khó kiếm người Nhật
sang làm cho các công ty Mỹ. Vì những công ty của Mỹ, không giống những hãng
xưởng của Nhật, được biết đến ở nước này qua danh tiếng “ba Ks – bao gồm
kitsui, “đòi hỏi cao; kaiko,” dễ đuổi nhân viên “khi nhân viên không làm được
việc; và kyoso, “cạnh tranh.” Nhưng nước Nhật đang thay đổi, và người Nhật cũng
đang thay đổi. Bạn tôi kể rằng hiện nay chị sẽ nói với khách hàng rằng: “Thậm
chí nếu nằm trong biên chế suốt đời của một công ty Nhật Bản ngày nay, quý vị
cũng sớm có ngày tỉnh giấc và nhận thấy công ty của bạn bị người nước ngoài mua
lại, và bạn phải làm việc cho người nước ngoài, vì vậy liệu mà vào một công ty
nước ngoài ngay từ bây giờ rồi tìm cách thích nghi với nó.”
Trung Quốc
Trung Quốc cũng sẽ trải qua một quá trình điều chỉnh
gian khổ – lý do không mang tính văn hóa mà là mang đặc tính chính trị. Trung
Quốc có nghị lực nhưng không có phương pháp. Sai lầm lớn nhất của các nhà chiến
lược là ở chỗ họ nghĩ rằng Trung Quốc sẽ tự động thẳng tiến về kinh tế và quân
sự đến một mức trong vòng 20 năm, có thể trở thành đối thủ và một siêu cường
tương đương với Hoa Kỳ. Tôi không nghĩ vậy.
Đừng hiểu sai ý tôi. Trong 20 năm, Trung Quốc có thể
trở thành một cơ sở kinh tế và quân sự có khả năng tranh chấp với Hoa Kỳ –
nhưng không có chuyện thẳng tiến ở đây. Trên con đường của Trung Quốc, họ sẽ
phải vượt qua một con lươn giảm tốc độ rất lớn. Vào tháng giêng năm 2000,
khoảng 40 phần trăm của nền kinh tế Trung Quốc là đóng góp của những ngành công
nghiệp và các ngân hàng quốc doanh, phần nhiều trong số họ đã trở nên tham
nhũng và kém hiệu quả. Cách duy nhất mà Trung Quốc có thể chăm sóc hàng triệu
công nhân trong khu vực đó là tư nhân hóa, đóng cửa hay cho sáp nhập các cơ sở
yếu kém, chuyển vốn sang các cơ sở làm ăn hiệu quả. Và cách duy nhất mà Trung
Quốc có thể làm điều đó, tránh được nạn thất nghiệp tăng cao, là thu hút cho
được những nguồn đầu tư khổng lồ từ bên ngoài.

