Tơ Đồng Rỏ Máu - Chương 10
Chương 10: Đến tìm đáp án, càng nhiều câu hỏi
Bậc kì tài mà Ba Du Sinh nói, tên là Sở Hoài Sơn, ở một căn nhà
hai tầng nho nhỏ trong khu tập thể trường trung học trực thuộc Học viện Âm nhạc
khi Văn Viên. Na Lan xuống taxi, đi trong mưa bụi lất phất vào khu vực rợp bóng
cây xanh. Mảnh đất yên bình giữa dòng đô thị ồn ã khiến cô thích thú, đoán rằng
cao nhân kia là một thầy giáo kì cựu của trường trung học trực thuộc Học viện,
hoặc là một người rất giàu có thì mới có thể ờ một nơi dễ chịu như thế này.
Số nhà 85, Ba Du Sinh đã cho cô biết.
Ngôi nhà nhỏ, mặt ngoài tường màu vàng chanh, chắc mới quét vôi lại cách đây
không lâu, bậc thềm lát đá và các góc tường nhà cũng mới sơn, nhưng vẫn không
thể che lấp những chỗ lồi lõm. Na Lan đoán đây là nhà tầng kiểu cũ chứ không
phải nhà công bình thường. Sở Hoài Sơn có thể ở độc lập trong mảnh đất này, hẳn
nhiên phải có quan hệ lâu năm với Học viên Âm nhạc, có quan hệ với các cấp lãnh
đạo.
Cô bấm chuông cửa. Bên trong có tiếng
bước chân đi xuống cầu thang.
Bước chân dừng ở sau cửa. Người ấy nhìn
ra qua mắt thần.
Na Lan mỉm cười, kiên nhẫn chờ đợi.
Rồi cửa mở, nhưng chỉ he hé.
Cô tiếp tục chờ đợi, người ấy sẽ hỏi hoặc mời vào... nhưng
sau một phút cửa vẫn he hé và vẫn không thấy người đâu.
“Chào thầy ạ...” Na Lan gọi.
Không trả lời.
Cô lại lặng lẽ chờ đợi. Rất lâu, quá sốt ruột, cô bèn gọi,
“Thưa thầy, em vào đây!” Đoạn chùi giày thật kĩ lên tấm thảm đặt ở bậc thềm rồi
đẩy cửa bước vào.
Đằng sau cửa là một hành lang trống, đón cô chỉ là hai giò
phong lan treo hai bên tường.
Rõ ràng lúc nãy có tiếng bước chân, bây giờ cô bước vào thì
vắng lặng, chủ nhân của bước chân ấy như đã tan vào làn hương lan dìu dịu.
“Thưa thầy...” Cô lại gọi.
Đương nhiên vẫn không ai trả lời.
Bên phải là một căn phòng, Na Lan đứng ở hành lang có thể
liếc vào, cô nhìn thấy một cái tủ gỗ gụ đựng các bộ đồ trà, thấp thoáng đồ sứ
rất tinh xảo. Nền nhà cho thấy đó là gian bếp.
Cô bước thêm vài bước, trước mặt là đầu cầu thang lên gác. Ở
dưới bậc thang thứ nhất có hai đôi dép lê thêu hoa kích cỡ na ná nhau, một đôi
kiểu nam một đôi kiểu nữ. Đôi dép nam nền vải xanh thêu cảnh sơn thủy, dòng
sông có một con thuyền đánh cá; đôi dép nữ màu tím nhạt, thêu hoa mặc lan.
Na Lan hơi ngạc nhiên. Cô tháo giày, xỏ chân vào đôi dép nữ,
có cảm giác êm êm như giẫm trên mây. Rồi cô nhẹ bước lên cầu thang, tiếng kêu
ken két dưới chân cho cô biết cầu thang này đã ở độ tuổi cổ lai hy, tay vịn
trông thật cũ kĩ nhưng không thô ráp, đặt tay vào chỉ thấy trơn mát.
Càng bước lên cao, hương lan vấn vít từ dưới hành lang càng
đượm; là thứ hương thơm càng nhiều càng khoan khoái, chứ không phải càng nhiều
càng nồng. Trạng thái căng thẳng nãy giờ của Na Lan dần dần tan biến.
Trên gác có ba phòng, nhưng chỉ một phòng đang mở cửa. Cô khẽ
gõ cửa, không thấy ai ừ hữ, cô đánh bạo nhìn vào bên trong. Ấn tượng đầu tiên
của cô, rõ ràng đây là thư phòng hoặc là phòng tranh, hoặc phòng ngồi chơi đàn.
Chính giữa phòng là một cái bàn dài, trên đặt giá cài bút đang treo sẵn bảy tám
cây bút lông. Bên cạnh giá bút là nghiên mực và một tập giấy tuyên. Đầu kia bàn
đặt mấy cái triện đá, một hộp gỗ đang mở, gác chênh chếch vài con dao khắc các
cỡ. Cách bàn một khoảng hơi xa có hai chậu rễ cây chạm trổ đang làm dở. Ở một
góc phòng kê một cái giá, bên trên đặt cổ cầm, vách gỗ dựng bên cạnh là giá đàn
với một cây cello, gần đó là một chiếc kèn cor, mặt tường bên trên treo một ống
tiêu và một cây kèn clarinette.
Một mặt tường khác là tủ sách cao sát trần nhà, chứa đầy sách
đủ các màu sắc. Na Lan đọc được vài cái tên, Tổng tập về nghệ thuật cắt giấy
dân gian Thiểm Tây, Đại số tuyến tính, Niên giám Viện nghiên cứu hải dương học
Giang Kinh, Đa tình kiếm khách vô tình kiếm, Data Mining Inference and
Predictions... một bộ sưu tập sách đa dạng nhất thiên hạ.
Rồi Na Lan nhìn thấy người con gái. Trong một bức tranh.
Cô bước lại gần, đó là bức tranh sơn dầu rộng bằng một ô của
tủ sách. Một nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, vẻ diễm lệ tự nhiên không son
phấn, mũ trắng rộng vành, váy áo màu hồng, có vẻ như con người của thập kỉ 70-80
thế kỉ trước?
Điều thu hút Na Lan là ánh mắt hơi u buồn của cô gái trong
tranh.
“Mẹ tôi đấy.”
Giọng nói từ phía sau vang lên khiến Na Lan giật mình quay
lại. Một thanh niên cao gầy, có đôi mắt hơi u buồn giống cô gái trong bức họa.
“Tôi chụp... ảnh mẹ tôi ngày trước, rồi vẽ lại. Còn vụng
lắm.” Người ấy nói.
“Xin lỗi. Tôi không cố ý xem trộm, nhưng quả là tôi rất không
lịch sự...” Na Lan lúng túng không biết nên giải thích thế nào.
“Tôi mới nên xin lỗi chứ, tôi đã không lịch sự... tôi không
ra đón khách...” Người ấy bước lên mấy bước. Mái tóc đen hơi xoăn và khuôn mặt
trắng xanh. Rất tuấn tú. Na Lan chợt thấy rung động.
Còn nhớ năm xưa, lần đầu gặp Tần Hoài, cô cũng có tâm trạng
thế này. Một sai lầm chí mạng.
Tự nhiên cô lại nhớ đến Tần Hoài, và thấy mình vô tội, tình
yêu ngắn ngủi kết thúc đột ngột, Tần Hoài bỏ đi Lĩnh Nam điều trị vết thương cơ
thể và cả vết thương lòng, gần hai năm qua cô chỉ nghe loáng thoáng về anh qua
người khác, chứ không nhận được tin gì từ chính anh cả. Cô đã vài lần gửi email
nhưng cũng chẳng khác gì mà xóa thư cho vào “thùng rác”. Cô có đủ lòng tự trọng
để không đi tìm Tần Hoài bằng xương bằng thịt, cô chỉ biết lâu nay ngoài cuốn
Hồ tuyệt mệnh ra, nhà “sản xuất văn” này không có tác phầm nào khác.
Mãi cho đến cú phôn không lời đêm qua.
Cô lại bâng khuâng nhớ đến Cốc Y Dương, giữa gian nguy trong
núi tuyết, dường như mối tình xưa đã trở lại, nhưng rồi anh bỏ mình để cứu cô
thoát hiểm. Đây có phải định mệnh không, rằng những ai yêu cô sẽ rời xa, dù
theo những cách khác nhau đi nữa?
Để mình cô ở lại.
“Cô là Na Lan phải không?” Chàng thanh niên khẽ hỏi. Giọng anh dịu dàng, hơi trầm và
cũng có nét u buồn, giống tiếng đàn cello ngân khẽ.
Nhận ra mình đã mất tập trung, Na Lan hơi đỏ mặt, gật đầu,
“Vâng... tôi đến gặp thầy Sở Hoài Sơn.”
“Sáng nay đội trưởng, Ba Du Sinh, đã nhắn tin cho tôi. Nói là
cô hoặc anh ấy sẽ đến gặp tôi.” Anh ta chỉ vào cái ghế duy nhất trong căn
phòng. “Mời cô ngồi.”
Na Lan hơi kinh ngạc, “Anh là... thầy Sở Hoài Sơn?” Nhưng cô
lại cảm thấy mình quá thộn. Ba Du Sinh đã nói Sở Hoài Sơn mắc chứng “sợ đông
người”, mỗi lần chỉ tiếp một khách, thì đương nhiên không sống trong một gia
đình lớn, cho nên Sở Hoài Sơn chỉ có thể là anh ta. Cô lại chưa hỏi Ba Du Sinh
tuổi tác và dáng vẻ Sở Hoài Sơn thế nào, chỉ tâm niệm và hình dung đó là một
ông trung niên hoặc cao tuổi với bộ râu dài chứ không nghĩ lại là một thanh
niên.
Đoán ra tâm trạng của Na Lan, Sở Hoài Sơn mỉm cười, “Họ tên
tôi, nghe rất cổ lỗ nên, khiến nhiều người hiểu lầm. Trước đây có vị khách, đã
nói với tôi, ‘Tôi muốn gặp, thầy Sở của anh’.”
Na Lan cũng cười, “Xin lỗi, vì tôi có ấn tượng chủ quan
nên... và, càng phải xin lỗi anh, chưa chờ anh nói thì tôi đã đi dép lê... mong
sao tôi không đi nhầm dép.” Sở Hoài Sơn đang đi đôi dép lê màu xanh, thêu hoa
văn na ná hình chim sẻ.
Như thế là ngụ ý gì?
Nhận ra ánh mắt thắc mắc của Na Lan, Sở Hoài Sơn hỏi, “Đoán
xem, tại sao lại là, con chim nhỏ?”
Na Lan chú ý đến cách nói của anh ta, nhát gừng, câu rất
ngắn. Cô đáp, “Không thể nói dối trước mặt cao nhân, đúng là tôi đang nghĩ,
không biết anh có mấy đôi dép lê, nhưng có lẽ hai đôi đặt dưới kia là chuẩn bị
cho tôi và anh Ba Du Sinh vì anh biết sau đây có thể anh ấy cũng sẽ đến... Đôi
dép nam thêu cảnh sơn thủy - Ba sơn Du thủy[10] - chắc là ám chỉ Ba
Du Sinh; dép nữ thêu hoa lan, tôi liều vơ vào vậy, ám chỉ chữ Lan trong tên tôi
thì phải...” Cô còn định nói thêm một câu nữa...
[10] Núi Ba, sông Du.
Sở Hoài Sơn mỉm cười, “Đội trưởng Ba Du Sinh khen cô rất có,
năng lực quan sát, không hề quá lời.”
“Anh có cần tôi kể lại anh ấy đã ca ngợi anh thế nào không?” Na
Lan cũng mỉm cười, cô bỗng cảm thấy nói chuyện với bậc kì tài này rất dễ chịu,
không có cảm giác gò bó như đứng trước mặt một số người tự coi mình là cao
nhân. Theo học nghiên cứu sinh gần hai năm qua, cô đã gặp vô số nhân vật tự coi
mình là nhất rồi.
Sở Hoài Sơn xua tay, “Xin miễn cho. Cả tên cô, cũng xin miễn
cho...”
“Cho nên tôi đoán rằng con chim thêu trên đôi dép cũng có ý
nghĩa...” Cô vẫn trở lại “chủ đề cũ”.
“Cô đoán là...”
Na Lan hơi do dự, rồi nói, “Tôi chẳng có manh mối gì hết!”
“Tức là, cô không biết hay là không muốn nói ra?” Giọng Sở
Hoài Sơn hơi trầm xuống.
Gã này thật lợi hại! Na Lan ngẩng đầu nhìn anh ta, cô cố thể
hiện thật bình tĩnh, “Trước khi tôi đến đây, anh Ba Du Sinh đã giải thích tại
sao anh chỉ có thể tiếp chuyện một người.”
Hình như sắc mặt Sở Hoài Sơn càng trắng nhợt thêm? “Cho nên,
con chim thêu có, liên quan đến căn bệnh của tôi, chứ gì?”
“Một con chim tự do, là điều anh hướng tới. Anh không muốn
chen chúc giữa sự ồn ào phức tạp, ở một mình trong căn nhà nhỏ nhưng lòng anh vẫn
hướng ra thế giới bên ngoài, không muốn làm con chim trong lồng và mong mình có
thể tung cánh bay...”
“Nghiên cứu sinh tài ba của khoa Tâm lý Đại học Giang Kinh,
quả là không phải chỉ có hư danh!” Sắc mặt Sở Hoài Sơn lại trở lại hiền hòa
điềm tĩnh, anh mỉm cười.
Na Lan đắn đo định nói lại thôi, nhưng rồi cô vẫn nói, “Thực
ra tôi không phải nhà tâm lý học tài ba, nhưng tôi vẫn có thể giúp anh.”
Sở Hoài Sơn hơi sửng sốt, hình như anh không quen với những
đề nghị nhiệt tình. “Chuyên gia giỏi nhất về thần kinh, ở Giang Kinh là Du Thư
Lượng, đã điều trị cho tôi, có kết quả nhưng còn xa, mới chữa được tận gốc.”
Na Lan định nói rằng, chữa trị chứng “sợ đám đông” không cần bác
sĩ cao siêu, mà điều quan trọng là bệnh nhân phải quyết tâm và kiên trì. Cô
chưa kịp nói thì Sở Hoài Sơn đã lên tiếng, “Trà đây rồi!”
Hai tay anh không có gì hết. Na Lan kinh ngạc nhìn ra mé cửa,
chẳng rõ lúc nào, một phụ nữ đã bưng khay trà đứng đó.
Thì ra không phải anh ta ở một mình.
Cả hai người của nhà nay đều xuất hiện hết sức lặng lẽ.
Na Lan định nói “Chào bác ạ” vì trông người ấy có vài nét hao
hao bà mẹ Sở Hoài Sơn trong bức tranh, nhất là đôi mắt. Nhưng cô lập tức xóa bỏ
ý nghĩ đó, vì người phụ nữ này không có nét duyên dáng, dịu dàng và đặc biệt là
nét u buồn như người phụ nữ trong tranh. Ánh mắt người này cứng nhắc, lạnh lùng
và không thân thiện.
“Cảm ơn!” Na Lan tươi cười đón chén trà, mong sẽ làm dịu bầu
không khí.
Nhưng vô ích, sắc mặt người ấy vẫn lạnh lùng.
Na Lan đoán rằng, lúc nãy người phụ nữ này đi xuống mở cửa
rồi lánh vào bếp chuẩn bị pha trà, cho nên tiếng bước chân ấy biến mất. Cô nhìn
xuống đôi chân bà ta, không thấy đi dép lê, chỉ đi đôi bít tất trắng.
Sở Hoài Sơn giới thiệu, “Đây là dì Tư của tôi. Từ sau khi mẹ
tôi qua đời, dì chăm sóc tôi suốt.” Nói đến hai chữ “qua đời”, hình như giọng
anh nặng nề hẳn đi? Phải chăng bà mẹ mất sớm khiến anh ta mất cảm giác an toàn,
rồi diễn biến thành nỗi sợ hãi? Cha anh ta đâu? Nhưng cũng may vì còn có người
thân luôn ở bên. Nên phụ đề mấy câu vậy, người mắc chứng “sợ đám đông” đồng
thời cũng sợ sống khép kín hoàn toàn. Vấn đề cốt lõi của họ là thiếu cảm giác
an toàn.
Tôi có thể giúp anh.
Nhưng ai sẽ giúp tôi đây?
Na Lan bỗng có cảm giác đồng bệnh tương liên. Khi đứng gần Mễ
Trị Văn, cô luôn cảm thấy bị đe dọa. Cô nhớ lại những sự kiện trải qua, cha cô
bị hại, luận văn tốt nghiệp đại học làm về phỏng vấn các phạm nhân hình sự, bị
cuốn vào vụ án “năm xác chết”, các hiểm họa ở núi tuyết, ngón tay đứt lìa...
Hiểu biết nhiều về tội ác, thì sẽ xuất hiện hai trạng thái cực đoan, hoặc ngày
càng chai sạn hoặc ngày càng nhạy cảm. Rất không may, cô rơi vào tình huống thứ
hai.
“Muốn hỏi, mục đích của cô?” Sở Hoài Sơn một lần nữa cắt
ngang dòng suy nghĩ của Na Lan.
Hôm nay mình sao thế này, cứ hay lơ đãng?
“Chúng tôi nhờ anh tìm một bí ẩn.” Na Lan lấy ra tờ giấy
thiên thư của Mễ Trị Văn. “Một chữ bí hiểm.” Ba Du Sinh đã gọi điện cho anh
rồi, chắc anh ta phải biết ít nhiều về mục đích của cô. Nghe Ba Du Sinh kể về
Sở Hoài Sơn, hiểu rằng bậc kì tài này coi trọng chi tiết nên cô đã chuẩn bị để
nói kĩ càng. Sở Hoài Sơn đưa bàn tay trắng xanh ra cầm tờ giấy, nghe Na Lan
thuật lại vụ án ‘ngón tay khăn máu’ và cuộc tiếp xúc với Mễ Trị Văn. Anh ta
nhìn con “chữ” rất lâu, không nói gì.
“Mễ Trị Văn nói, chỉ tôi mới có thể giải được câu đố này.” Cô
định cười nhạt nhưng không sao cười được. “Và anh cũng biết đấy, tôi hoàn toàn
không nhận ra điều gì.”
“Khiêm tốn quá...”
Na Lan khẽ thở dài, “Thôi được, cũng không hẳn là tôi không
nghĩ gì. Trước hết, đây là một trò chơi của lão. Cũng như các trò chơi thể dục
thể thao hoặc trò chơi trên mạng, trò chơi này cũng đi từ nông đến sâu, để cho
người chơi có chút khoái trá đã rồi dần say mê. Nếu không, tôi đã bỏ cuộc từ
sớm.”
Sở Hoài Sơn tủm tỉm, “Xem ra, Mễ Trị Văn đã tìm đúng người
chơi rồi!”
Na Lan gượng cười, “Cảm ơn anh động viên. Cho nên, cái chữ
oái ăm này chắc sẽ không quá mệt óc... đương nhiên là dưới sự giúp đỡ của anh,
có lẽ sẽ không khó lắm. Chắc chắn lão ta đoán rằng tôi sẽ đi cầu cứu cao nhân.
Một cách nghĩ khác là, nếu nói chỉ tôi mới giải mã được thì tức là một phần nào
đó của chữ này có liên quan đến tôi.”
“Cô đã có, cách nghĩ thế này, thì đâu cần, anh mọt sách như
tôi, hỗ trợ.”
“Nhưng tôi không biết nên bắt đầu từ đâu.”
“Cô đã nói là, chữ này, không khó lắm; một phần nào đó, có
liên quan đến cô. Cách đơn giản, bước đầu là, tách nó thành vài bộ phận; Mễ Trị
Văn đã tự xưng, là Thương Hiệt, thế thì phép tạo chữ, nguyên thủy, và trực tiếp
nhất, là chữ tượng hình.”
Na Lan nhìn lại con chữ, nhẩn nha nói, “Chữ tượng hình... thì
phần trên cùng là chữ Nhân...”
Sở Hoài Sơn gợi ý, “Là chữ Nhân, hoặc chữ Nhập. Theo thể chữ
thông dụng Tân Tống thì là chữ Nhân; nhưng nếu theo thể chữ Triện, hoặc vài thể
chữ cổ khác thì nó giống chữ Nhập hơn. Người thời cổ phát minh ra chữ viết,
Thương Hiệt có công truyền bá. Đây là, ý kiến của riêng tôi, có nhiều khả năng,
nó là chữ Nhập.”
“Tạm coi phần trên cùng là chữ Nhập, vậy phần giữa thì sao?
Nếu là tượng hình, thì nó vẽ cái gì? Hình như là chữ Điền hoặc chữ Tinh, hoặc
chữ Khai. Phần dưới cùng thì trực quan rồi, đó là chữ Thập. Nhưng phối hợp tất
cả lại, vẫn không thu được kết luận gì.”
“Nếu cô đã, không thể kết luận, thì tôi cũng đành thở dài
vậy.”
Na Lan nghĩ bụng, là bậc kì tài kia mà, anh không thể không
biết!
Sở Hoài Sơn nói như khuyến khích, “Chắc là, cô không thích,
nghe câu này, nhưng tin rằng Mễ Trị Văn, không đùa bỡn cô, đúng là chỉ cô mới,
có thể đoán ra, chữ này.”
“Nhưng...”
“Việc này, không thể vội vã.” Sở Hoài Sơn cầm một con dao
khắc dấu trên bàn lên, khẽ thổi một cái, cứ như là vài hạt bụi đá dính vào mũi
dao cũng không thể thoát nổi cặp mắt thần của anh ta. “Chắc anh Ba Du Sinh, đã
kể rằng tôi và anh ta, từng hợp tác, vụ thứ nhất, vụ án tự sát giả.”
Na Lan nói, “Một câu chuyện rất hay.”
“Chắc anh ta đã nói, tôi phải tốn rất nhiều thời gian, để xem
con dấu ấy.”
“Tôi đang chờ anh lấy kính lúp ra.”
Sở Hoài Sơn nhìn Na Lan, sắc mặt rất tươi, “Lần đó tôi nghiên
cứu, là một đối tượng đã hình thành, con dấu đã in lên giấy, tôi thậm chí có
ngay ấn tượng, biết là có người, đang hãm hại, viên quản lý đó, cho nên có thể
tập trung sức chú ý. Nhưng hôm nay chữ này là một thứ giấu mặt, chúng ta không
biết Mễ Trị Văn đang thiết kế một trò chơi như thế nào. Ta có thể suy ngẫm về
một dấu son đã in rành rành ra đó, nhưng đối với một thứ đã được thiết kế tỉ
mỉ, thì lẽ nào ta không cần tốn thời gian suy nghĩ nhiều hơn? Cô nên biết tuy
đây chỉ là bước đầu tiên trong trò chơi của lão ta, nhưng chắc chắn không thể
chỉ thoáng nhìn là khám phá được ngay. Nếu không thì, hóa ra là cảm hứng của
bậc thầy tạo chữ ấy rất tầm thường hay sao?”
Thật hiếm có, Sở Hoài Sơn đã nói liền một hơi! Na Lan cảm
thấy vã mồ hôi thay anh ta. Cô nhíu mày, “Anh phân tích rất có lý. Chỉ hiềm,
trở về tôi sẽ rất khó ăn khó nói với đội trưởng Ba Du Sinh.”
“Cô cứ nói thật, nói rằng cao nhân kì tài này chỉ là người
rất đỗi bình thường.”
“Anh khiêm tốn như thế, thì anh ấy sẽ nghĩ là anh kiêu ngạo.”
Sở Hoài Sơn khẽ thở dài, “Những người như tôi đôi khi cũng
kiêu ngạo quá mức!”
“Hay là tôi nên nói với anh ấy rằng, kiên nhẫn là một đức
tính?” Na Lan có phần bất mãn.
Lời cảnh báo “vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn” lại
vang bên tai cô.
Nhìn theo bóng Na Lan khuất hẳn ở góc phố, người phụ nữ lạnh
lùng nói, “Cô ta rất nguy hiểm.”
Sở Hoài Sơn chỉ im lặng, nheo mắt nhìn dì Tư.
“Cháu đừng nhìn dì như thế!” Dì Tư mắng. “Mỗi lần dì nói toạc
ra tâm tư của cháu, cháu lại lầm lì với dì.”
Sở Hoài Sơn vẫn không hé răng.
“Định chiến tranh lạnh với dì đến cùng chắc? Dì không ngán
đâu! Cháu đã thích nó, đúng không?”
Rốt cuộc Sở Hoài Sơn cũng nhẩn nha nói, “Dì khích tướng khéo
thật! Nếu cháu cứ ngậm miệng, chắc dì sẽ nói cháu im lặng là thừa nhận chứ gì?”
Dì Tư lắc đầu, vẻ khó tin, “Lẽ nào chỉ gặp một lần cháu
đã...”
“Cho nên, ngay dì cũng cảm thấy là không tưởng đúng không?
Thực ra, mỗi lần dì cho rằng mình nhìn thấu tim gan cháu, đều chỉ là... dì tự
nghĩ thế thôi.” Sở Hoài Sơn than thở. Nói thật, mất lòng!
“Cháu cho rằng dì không nhận ra thật à? Nó ở đây chỉ nửa giờ
mà cháu mỉm cười suốt. Còn dì, dì ở với cháu bấy nay mà chưa từng thấy mặt cháu
tươi tỉnh lâu đến thế.”
Sở Hoài Sơn hơi sửng sốt, “Giả sử dì cảm thấy cháu có vẻ khác
thường, thì dì cũng không cần thiết phải hà khắc như thế.”
Ngực dì Tư phập phồng rõ mạnh, hồi lâu sau mới dịu giọng nói,
“Sơn à, lẽ nào cháu không hiểu dì lo cho sự an toàn của cháu? Cô gái đó rất
nguy hiểm.”
Sở Hoài Sơn cúi nhìn con chim thêu trên dép lê. “Lẽ nào, chỉ
vì cô ấy khuyên cháu hãy ra khỏi căn nhà này?”
“Không phải thế. Mà là vì chính cô ta. Báo chí đã viết mãi
rồi, cháu không thể không biết những gì cô ta đã trải qua. Có những người bẩm
sinh đã bị những mối nguy bám riết. Những ai gần gũi cô ta đều đã gặp bất
hạnh.”
“Dì cũng có thể, dùng những câu này, để hình dung mẹ cháu.”
Vẻ mặt Sở Hoài Sơn trở lại đờ đẫn như mọi ngày, buồn thương bao phủ khuôn mặt
anh. Dì Tư đã đạt được mục đích của mình rồi đấy!
“Nói bừa!” Dì Tư định nổi nóng, nhưng Sở Hoài Sơn quay lưng
lại. Dì biết, khi đứa cháu giở tư thế này ra thì nói nữa cũng vô ích.
Dì mím chặt môi, xoay người lặng lẽ bước đi. Đi đến đầu cầu
thang, giọng của Sở Hoài Sơn bỗng vang lên sau lưng, “Tại sao... dì lại... bỏ
dép ra?”
Vì dì muốn bước chân mình thật êm, để có thể nấp ở chỗ khuất
quan sát cô gái nguy hiểm kia.