Rebecca - Chương 18 - Phần 1

Chương 18

Đó là Maxim. Tôi không trông thấy chàng, nhưng nghe thấy
tiếng nói của chàng. Chàng vừa chạy ra vừa gọi bác Frith. Tôi nghe tiếng Frith
trả lời trong phòng trống và đi ra ngoài sân băng. Bóng của hai người nổi lờ mờ
trong sương mù.

- Đó là một vụ đắm tầu,- Maxim nói. – Tôi trông thấy tàu từ
mũi đất tiến thẳng vòa dãy đá ngầm. Với nước thủy triều đang lên này, người ta
không thể nào cứu được nó. Sương mù như một bức tường thành bên dưới. Bác bảo
người nhà chuẩn bị sẵn một bữa ăn để phòng đoàn thủy thủ có khi cần đến. Và
điện thoại cho ông Crawlxy báo cho ông biết tình hình vừa xảy ra. Tôi chạy ra
đó để xem có thể giúp được gì không. Đưa thuốc lá ra đây cho tôi.

Bà Danvers rời khỏi cửa sổ, bộ mặt bà đã mất hẳn mọi vẻ, trở
nên chiếc mặt nạ lạnh lùng và xanh xao mà tôi quen thuộc. Bà nói:

- Chúng ta nên đi xuống, Frith sắp đến tìm tôi. Ông Winter có
thể sẽ đưa ra nhiều người nhà về như ông nói. Bà cẩn thận bàn tay, tôi đóng
cửa.

Tôi lùi vào trong buồng, vẫn còn chuyếnh choáng và u mê, còn
nghi ngờ thực tại của tôi và bà ta. Tôi nhìn bà đóng cửa sổ và kéo rèm xuống.

- May mà biển lặng. - Bà Danvers nói- Nếu không họ khó mà
thoát được. Nhưng thời tiết này cũng không nguy hiểm lắm, chỉ ong chủ tầu mất
tầu nếu nó va vào đá ngầm như ông Winter đã nói.

Bà nhìn ra xung quanh để yên trí là tất cả đều gọn gàng. Bà
vuốt thẳng khăn trải giường rồi mở cửa và đứng né sang một bên nhường lối cho
tôi. Bà Danvers nói tiếp:

- Tôi đi báo cho nhà bếp chuẩn bị một bữa ăn nguội trong
phòng ăn. Như vậy bà có thể dùng bữa trưa nếu bà muốn. Có thể ông chủ sẽ còn
rất bận với con tầu không thể về ngay được

Bà đi trong hành lang về phía cầu thang phục vụ, bóng dáng
mảnh khảnh với cây đèn theo kiểu cố quét xuống sàn, rồi biến mất ở góc hành
lang.

Tôi từ từ đi xuống không mục đích về phía phòng trống. Bác
Frith đang đi xuống buồng bểp trông thấy thấy tôi và đợi tôi ở chân cầu thang.

- Thưa bà, ông chủ vừa đi qua đây chỉ mới một lát. Ông đã lấy
thuốc lá và đi ra bãi biển. Hình như có con tầu đắm

- Phải.

Tôi đang ở trong gian bếp với Robert bỗng nghe thấy những
tiếng pháo hiệu. Lúc đầu chúng tôi đã nghĩ rằng một người làm vườn nào đó đã vớ
đựoc một chiếc pháo bông hôm qua còn sót lại và đã đốt nó. Tôi bảo Robert: - Với
thời tiết này đốt làm gì, giữ lại mang về cho trẻ con chơi có hơn không! Thế
rồi đến tiếng thứ hai, thứ ba. Robert lại nói là không phải pháo bông, đó là
con tàu gặp tai nạn. Tôi cho là hắn đúng và tôi ra ngoài phòng trống thì thấy
ông chủ gọi tôi ở ngoài bãi bằng.

- Phải.

- Nếu bà muốn gặp ông, ông mới đi ra bãi cỏ cách đây có hai
phút.

- Cảm ơn bác.

Tôi đi ra sân bằng. Tôi trông thấy cây cối đã trở lại được
hình dáng cũ. Sương mù đã tan bốc lên thành những đám mây nhỏ trên trời. Tôi
ngẩng mặt lên nhìn lên cửa sổ, chúng đều đóng kín.

Chính là ở chiếc cửa sổ lớn ở giữa mà tôi đã đứng trước đây
năm phút. Sao mà nó cao thế trên đầu tôi, cao và xa! Dưới chân tôi là nền cứng
và rắn. Tôi nhìn xuống thềm rồ lại ngẩng đầu nhìn lên cửa sổ và bỗng nhiên tôi
nhìn lên cửa sổ và bỗng dưng tôi nhìn lên cửa sổ và bỗng nhiên đầu óc tôi quay
cuồng và người tôi nóng ran. Những chấm đen nhẩy múa trước mắt tôi. Tôi vào
phòng trống và ngồi xuống một chiếc ghế. Hai người bàn tay ẩm ướt. Tôi ngồi yên
lặng một lúc lâu, hai bàn tay để lên đầu gối.

- Bác Frith, - Tôi gọi,- Bác có trong phòng không?

Bác ra ngay và lại gần tôi, tôi nói tiếp:

- Kể thế này cũng hơi kỳ, nhưng tôi muốn có chút cô nhắc.

- Xin có ngay.

Bác trở lại ngay mang theo một khay bạc trên có một cốc rượu
mầu.

- Bà thấy khó chịu trong người phải không? Để tôi gọi
Clarice.

- Thôi, không cần. Tôi chỉ thấy nóng bức trong người có thế
thôi.

- Thời tiết gì mà kì lắm! Rất nóng, có thể nói là rất nặng
nữa!

- Phải, nặng lắm.

Tôi uống cốc cô nhắc và đặt cố xuống khay bạc

- Những tiếng pháo hiệu có thể làm bà kinh hãi.

- Phải, có thể.

- Hay bà nên nằm nghỉ một lát, trong thư viện rất mát.

- Không, tôi thấy là tôi cần phải đi ra ngoài thở một chút.
Bác không cần phải quan tâm đến tôi.

- Vâng ạ.

Bác rút lui và để tôi một mình trong phòng trống. Trong đó
yên tĩnh và mát, rất dễ chịu. Cơn đau đầu biến mất, như chưa bao giờ có. Gian
phòng trống vẫn như xưa, xám, yên tĩnh và nghiêm trang với những những bức
tường, những bức chân dung và vũ khí, huy hiệu. Tôi đứng lên và lại đi ra bãi
băng.

Sương mù đã tan và lên đến tận những ngọn cây. Tôi nhìn thấy
rừng ngoài đầu bãi cỏ. Trên đầu tôi, một mặt trời tái cố xuyên qua bầu trời
thấp. Thời tiết nóng hơn bao giờ hết. Nặng nề như Frith đã nói. Một con ong vo
ve xung quanh tôi, đi tìm mùi, bay ầm ỹ rồi lao xuống một bông hoa và im ngay
lập tức. Trên bãi cỏ, ngừơi làm vườn cho chạy một chiếc phạt cỏ. Mùi cỏ dịu và
ấm xông lên đến tận chỗ tôi và mặt trời bước ra mãnh liệt khỏi đám sương mù và
chiếu thẳng vào tôi. Tôi nhìn đồng hồ, quá mười hai giờ rưỡi. Hôm qua vào giờ
này, Maxim và tôi đang cùng với Frank ở trong vườn, chúng tôi chờ bữa ăn trưa.

Đã hai mươi bốn giờ qua rồi. Họ không còn trêu tôi về chuyện
bộ áo.” Các anh sẽ không trở lại nữa!”, tôi đã nói như vậy.

Tôi phát ốm vì xấu hổ, nghĩ đến những câu nói của tôi. Rồi
lần đầu tiên tôi nghĩ ra là Maxim đã không ra đi như tôi lo sợ. Giọng nói mà
tôi nghe thấy trên sân bằng, bình tĩnh và quen thuộc. Đó là giọng nói àm hồi
tối qua, lúc tôi bước xuống cầu thang, Maxim đã không bỏ đi. Chàng dang ở trong
vịnh, bản thân chàng an toàn và bình thường. Chàng chỉ đi dạo chơi như Frank đã
nói. Chàng đã ở trên mũi đất lúc trông thấy con tầu tiến vào bờ. Tất cả những
nỗi lo sợ của tôi đều không có cơ sở. Maxim an toàn, Maxim rất khỏe mạnh. Tất
nhiên tỗi đã có một kinh nghiệm đáng nhục, ghê tởm, điên rồ. Đã có một vấn đề
xảy đến cho tôi mà tôi không hiểu được hoàn toàn, ngay cả lúc này, mà tôi vẫn
không muốn nhắc đến nữa, mà tôi muốn vĩnh viễn chôn sâu xuống đáy lòng, với
những nỗi khiếp sợ của thời trẻ con, nhưng ngay cả như thế cũng không đáng kể,
một khi Maxim còn khỏe mạnh.

Sương mù hầu như đã tan hết, và khi ra đến vịnh, tôi đã trông
thấy ngay con tầu đắm cách bờ biển vài hải lý, các cột buồn chìa lên thành đá.
Tôi đi theo con đập và dừng lại ở đầu, tỳ người vào bức tường. Trên thành đá đã
có một đám đông những không phải là từ Kerrith đến. Thành đá và mũi đất đều
thuộc về Manderley, nhưng dân chúng được quyền qua lại. Nhiều người tò mò đổ
xuống chân thành đá để được nhìn thấy gần hơn con tầu đắm. Nó nằm nghiêng lên
cạnh sường, mũi vểnh lên, và đã có rất nhiều thuyền nhỏ vây quanh. Chiếc canô
cấp cứu tiến lại gần. Tôi trông thấy có người đứng lên nói trong một loa phóng
thanh, nhưng tôi không nói gì. Trong vịnh còn có sương mù nên tôi không trông
thấy chân trời. Một chiếc canô máy màu xám xuất hiện trong ánh sáng chở nhiều
người. Một trong số người đó mặc bộ đồng phục. Có lẽlà ông phụ trách bến tầu
Kerrith kèm theo một nhân viên bảo hiểm. Một chiếc canô khác tiến đến gần chở
đầy những người tắm biển ở Kerrith. Họ đi vòng nhiều lần xung quanh con tầu đắn
và bàn tán xôn xao.

Tôi rời bỏ con đập và cái vũng rồi leo lên con đường lốc đá
đi về phía có đông người chen chúc nhau. Tôi không trông thấy Maxim đâu. Frank
đứng ở đấy đang nói chuyện với một nhân viên hải quan. Trông thấy Frank, tôi
toan lùi lại. Cách đây đúng một giờ tôi đã khóc và nói chuyện điện thoại với
anh. Tôi không biết làm thế nào. Lập tức anh trông thấy tôi và ra hiệu cho tôi.
Tôi lại gần anh và người nhân viên hải quan. Ông này cũng biết tôi.

- Bà cũng muốn nhìn thấy cảnh tượng này à?- Ông ta cười nói
với tôi- Tôi thấy đây không phải là một việc nhỏ. Những cần trục có thể trục nó
lên, nhưng tôi ngờ lắm. Nó bị chìm xuống rất chắc.

- Vậy người ta phải làm thế nào?- Tôi hỏi.

- Người ta phải cho một người phải xuống xem vỏ tầu có bị vỡ
không. Đó là anh chàng đang đứng đằng kia đội chiếc mũ màu đỏ. Bà có muốn nhìn
bằng ống nhòm không?

Tôi cắm ống nhòm và nhìn con tầu. Tôi trông thấy một đám thủy
thủ trên mũi tầu đắm. Người phải đội mũ nồi đỏ đang ngồi trong chiếc canô xám.

Chiếc ca nô chở những người tắm vẫn tiếp tục lượn xung quanh
chiếc tầu bị nạn. Một người đàn bà đứng trong đó chụp ảnh. Một đàn chim hải âu
bay là trên mặt nước vớ hi vọng kiếm được mồi.

Tôi trả ống nhòm và nói:

- Chẳng thấy người ta làm gì cả.

- Người ta sắp cho người nhái xuống ngay bây giờ. Có lẽ họ
phải thoả thuận với nhau một chút. Tầu cần cẩu kia rồi.

- Họ chẳng làm được việc gì đâu! - Frank nói- Hãy nhìn cái
góc mà nó nằm xuống.

- Tầng đá ngầm kia khá cao- nhân viên hải quan nói- Thường
người ta không gặp phải như thế khi người ta vượt qua một vịnh trên tầu nhỏ.
Nhưng với một con tầu với vỏ như thế thì chạm quá đi chứ!

Thì đang ở trong vũng thứ nhất phía dưới thung lũng thì người
ta bắn tín hiệu. - Frank nói- Lúc đó tôi trông thấy cứ như chỉ cách có ba mét.

- Tôi nghĩ rằng tất cả những người đó đều giống nhau trong
những trường hợp lợi ích chung. Frank và Frith về mọi điểm, nói lên thuyết của
mình về biến cố, như thể là rất quan trọng, như thể liên quan đến chúng tôi.
Tôi biết là Frank đi ra bãi biển để tìm Maxim. Tôi biết là anh lo ngại như tôi.
Và tất cả chỉ vì một chiếc tầu bị mắc cạn trong sương mù.

Một em bé vừa đi vừa nhẩy đến chỗ chúng tôi:

- Các chú thủy thủ có chết đuối không ạ?

- Không đâu! - Nhân viên hải quan đáp- Lần này thì khong có
nạn nhân đâu cháu ạ- A! Người nhái kia rồi. Bà có trông thấy chưa, anh ta đang
đội mũ?

- Cháu muốn trông thấy người nhái. - em bé kêu lên.

- Kia kìa, người ta sắp ném người đó xuống nước.

- Chú ấy không chết đuối à?

- Người nhái chết đuối làm sao được. Nhìn kìa, người đó đang
lặn xuống.

Mặt nước lúc đầu gợn sóng rồi lại trở lại bằng phẳng.

- Maxim đâu? – Tôi hỏi anh Frank.

- Anh ấy đưa người lớn trong đoàn thủy thủ tới Kerrith, người
đó đã hốt hoảng nhẩy từ trên tầu xuống. Chúng tôi đã tìm thấy anh ta đang leo
lên trên tảng đá. Maxim đã lên đón anh, thấy anh bị thương máu chảy nhiều lắm.
Anh ta không nói được một câu tiếng Anh. Maxim phải nói bằng tiếng Đức. Sau đó Maxim
đã gọi một chiếc ca nô máy lại, nhờ người đưa người bị thương tới thày thuốc.

- Anh ấy đi lúc nào?- Tôi hỏi.

- Đúng trước lúc bà đến, vào khoảng độ năm phút. Tôi ngạc
nhiên sao bà không thấy ca nô. Maxim đang ngồi đằng sau với nạn nhân.

Có lẽ anh ấy đã đi qua lúc tôi trèo lên cái đập.

- Anh Maxim thật tuyệt diệu trong những trường hợp như vậy,- Frank
nói –Anh ấy làm tất cả những gì có thể. Bà sẽ thấy anh ấy mới tất cả đoàn thủy thủ
về Manderley để ăn uống và có thể cả ngủ nữa.

- Đúng thế! –Nhân viên hải quan nói- Ông ấy có thể cho cả áo
sơ mi của mình vào trong lãnh địa. Có được nhiều người như ông ấy thì tốt quá.

- Vâng thế còn gì bằng! - Frank nói.

Chúng tôi tiếp tục nhìn con tầu. Những người của tầu cần cẩu
vẫn còn ở đó, nhưng tầu thì đã đi rồi.

- Hôm nay thì chẳng làm gì được- nhân viên hải quan nói.

- Vâng- Frank nói- Ngay cả cần cẩu cũng vậy. Lần này đến phải
phá tung ra.

Những con hải âu vừa lượn vừa kêu như những con mèo đói, một
số nghiêng mình nhìn xuống dốc đá, một số con khác là sát mặt nước ngay cạnh
con tầu bị nạn

Nhân viên hải quan bỏ chiếc mũ cát két ra lau trán:

- Thiếu không khí quá, hả?

- Vâng – tôi nói.

Thuyền du khách với những người chụp ảnh bên trên quay về
Kerrith.

- Họ chán ngấy rồi – nhân viên hải quan nói.

- Tối hiểu rồi – Frank nói- Tôi cho rằng trong mấy giờ nữa
chưa thể xảy ra điều gì mới. Còn phải đợi báo cáo của người nhái trước khi có
quyết định xử lý tầu. Chẳng có gì làm ở đây cả, tôi muốn đi ăn trưa.

Tôi không nói gì. Frank lưỡng lự. Tôi cảm thấy anh nhìn tôi,
rồi anh hỏi:

- Bà định làm gì ở đây bây giờ?

- Tôi muốn ở đây một lúc nữa. Tôi có thể ăn lúc nào cũng
được. Đó là một bữa ăn nguội. Chẳng có gì quan trọng. Tôi muốn đợi xem ngươi
nhái làm gì.

Lúc này tôi không muốn ngỏ ý phản khánh Frank. Tôi muốn được
một mình hoặc với ai mà tôi không quen biết, như với người nhân viên hải quan.

- Bà sẽ không thấy gì đâu! - Frank nói- Chẳng có gì để xem
cả. Mời bà đi ăn trưa với tôi.

- Không, rất cảm ơn….

Frank chào nhân viên hải quan rồi ra đi. Em bé vẫn tiếp tục
lượn quanh bãi cỏ trước mặt chúng tôi, em hỏi:

- Bao giờ thì người nhái trở về?

- Chưa đâu cháu ạ! - Nhân viên hải quan trả lời.

Một thiếu phụ mặc bộ áo sọc hồng tiến lại gần chúng tôi, và
gọi:

- Charlie, Charlie, con đâu?

- Mẹ cháu đến kìa- nhân viên hải quan nói- Cháu pahỉ đi ăn
chút gì chứ?

- Mẹ ơi! Con trông thấy người nhái rồi!

Thiếu phụ chào chúng tôi và mỉm cười. Chị ta không biết tôi,
chị đến tắm ở Kerrith. Chị nói:

- Chẳng có gì đáng xem phải không? Đằng kia người ta nói là
con tầu còn chứ cứ phải nằm thế nhiều ngày nữa.

- Người ta đang xem báo cáo của nguời nhái- nhân viên hải
quan nói.

- Tôi không thế hiểu tại sao người ta lại bằng lòng xuống tận
sâu đáy nước,- Thiếu phụ nói- Chắc là phải được trả tiền cao lắm!

- Đúng thế.

- Mẹ ơi, con muốn làm người nhái! - Em nói.

- Con yêu quý, phải hỏi bố con chứ! - Thiếu phụ nói và nhìn
chúng tôi mỉm cười. - Góc này đẹp thật phải không. - Thiếu phụ nói thêm với tôi.
- Chúng tôi đã mang ra bữa ăn trưa, chúng tôi không ngờ lại có sương mù đến
thế, lại còn gặp tầu mắc cạn nữa. Chúng tôi đang đi trở về Kerrith thì pháo
hiệu bùng lên, có thể nói đúng trước mũi chúng tôi. Tôi gần như bị nẩy lên trên
mặt đất. Tôi nói với nhà tôi: - Trời ơi! Gì vậy?

Anh ấy trả lời:

- Một con tầu bị nạn, phải xem mới được.

- Không thế giữ anh ấy lại, còn quá cả thằng bé. Tôi không
thể hiểu có gì là quan trọng đến thế!

- Không, chẳng có gì cần phải xem! - Nhân viên hải quan trả
lời.

- Khu rừng này đẹp quá! Chăc là một lãnh địa tư nhân?

Nhân viên hải quan khẽ ho có vẻ khó nói và nhìn tôi. Tôi quay
đi và nhấm một mảnh cỏ,

- Vâng- ông ta nói- Tất cả đều là của tư

- Chồng tôi nói, tất cả của tư này kết cục sẽ được chia thành
những lô nhỏ và người ta sẽ xây dựng ở đây những biệt thự nhỏ. Ứoc gì tôi có
được một biệt thự nhỏ đó trông xuống biển. Mặc dù mùa đông ở đây…

- Vâng, mùa đông ở đây rất yên tĩnh.

Tôi tiếp tục nhấm nhánh cỏ. Em bé chạy thành những vòng tròn.
Nhân viên hải quan nhìn xuống đồng hồ rồi nói:

- Thôi, tôi phải đi đây. Xin chào các bà!

- Lại đây, Charlie, đi tìm bố.

Người thiếu phụ này nói và chào tôi một cách lịch sự. Một
người đàn ông gầy gò mộc mặc soóc kaki ra hiệu cho hai mẹ con. Họ ngồi cạnh một
bụi cây và thiếu phụ bắt đầu giở gói đò.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3