Rebecca - Chương 07 - Phần 1
Chương 7
Chúng tôi đến Manderley vào đầu tháng năm, như Maxim nói: với
những con chim én đầu mùa và những cây dạ hương. Đó là thời kỳ tốt đẹp nhất
trước mùa hạ huy hoàng. Trong thung lũng, những cây azarée toả ngát hương thơm
và những cây phượng máu sắp nở hoa.
Chúng tôi từ giã London trên xe hơi, dưới một trận
mưa rào, vào buổi sáng để tới được Manderley năm giờ chiều kịp bữa trà. Tôi còn
nhớ, tôi mặc quần áo như thường lệ, mặc dù là vợ mới cưới được bảy tuần, một
chiếc áo váy dài jersey màu be, một tấm khăn lông nhỏ quàng cổ, và ra ngoài tất
cả các chiếc áo mưa quá lớn đối với tôi, kéo xuống đến tận gót chân. Tôi nghĩ
rằng như vậy hài hòa với thời tiết, và chiếc áo dài làm tôi lớn thêm chút nữa. Tay tôi
đi găng và mang một túi da lớn. Lúc ra đi Maxim bảo tôi:
- Đây là trận mưa London. Đợi một lát nữa mặt trời sẽ
chiếu sáng lúc chúng ta tới Manderley.
Chàng nói đúng, bởi vì lúc chúng tôi ra khỏi Exeter mây
đã cuộn lại đằng sau chúng tôi để trên đầu một bầu trời xanh ngắt và trươc mặt
một con đường trắng xoá.
Tôi sung sướng được thấy mặt trời, bởi vì một ý nghĩ mê tín
đã làm tôi coi mưa là một điềm xấu và bầu trời xàm xì của London đã
làm tôi trầm lặng.
- Tốt rồi chứ? – Maxim hỏi.
Và tôi mỉm cười cầm lấy tay chàng, nghĩ rằng trở về nàh đối
với chàng dễ dàng biết bao, được đi qua hàng hiên lấy thư từ, được rung chuông
gọi trà. Và tôi tự hỏi chàng đoán đến độ nào sự kích động của tôi, và câu hỏi: “Tốt
rồi chứ” tỏ rõ chàng hiểu. Chàng hỏi tiếp:
- Không sao đâu, chúng ta sắp đến rồi. Hẳn là em cần uống trà
lắm.
Chàng nói và buông tay tôi ra vì chúng tôi đang đi vào chỗ rẽ
phải đi chậm lại. thế là tôi hiểu, thấy tôi im lặng, chàng tưởng là tôi mệt, và
chàng không nghi ngờ là tôi e ngại đến Manderley cũng như tôi mong đến đó về
mặt lý thuyết.
- Chỉ còn hai km nữa thôi, - Maxim nói. – Em có nhìn thấy lùm
cây to kia trên ngọn đồi cúi xuống thung lũng, đằng sau là bể? Đó là Manderley.
Còn đây là rừng.
Tôi cố mỉm cười và không trả lời, tôi đang bị một cơn kinh
hoàng, một sự bần thần không thể chịu được. Niềm vui, niềm kiêu hãnh của tôi
tan biến hết rồi. Tôi như một đứa trẻ người ta mang đến trường lần đầu tiên,
hoặc một cô hầu gái nhỏ chưa có kinh nghiệm, chưa bao giờ ra khỏi nhà, đang đi
tìm một chỗ làm. Tất cả niềm tin mà tôi có được trong bẩy tuần lễ thành hôn vừa
qua, chỉ còn là một miếng giẻ rách phấp phơ trước gió. Tôi thấy như tôi không
biết cả đến những nét sơ đẳng nhất của cách sống, đến bên nào là phải là trái,
đến đứng hay ngồi, đến bữa ăn trưa dùng thìa nào, dĩa nào.
- Nếu anh là em, anh sẽ cởi bỏ chiếc áo mưa này ra, - Chàng
nhìn tôi nói. - Ở đây có mưa đâu. Và quàng chiếc khăn vào cổ. Tội nghiệp em
tôi, anh bận quá, lẽ ra anh phải đưa em đi sắm sửa áo quần ở London rồi.
- Em thấy cũng chả cần thiết một khi anh không để ý đến.
- Đại bộ phận các bà là chỉ nghĩ đến cách ăn mặc, - Chàng
lững lờ nói.
Xe đi vòng và chúng tôi đến một ngã tư, từ đó bắt đầu một bức
tường lớn.
- Chúng ta đến rồi! – Chàng nói giọng vui vẻ một cách khác,
còn tôi phải bám hai tay vào đệm xe.
Con đường uốn cong và trước mặt cúng tôi, bên trái, cạnh một
căn nhà nhỏ của người gác, hai cánh cổng lớn của một hàng rào mở ra trươc một
lối đi dài. Trên đường đi, tôi trông thấy những bộ mặt theo dõi chúng tôi qua
cửa kính căn nhà, và một em bé chạy ra thóc mách nhìn. Tôi lùi lại trên ghế,
tim tôi đập dồn dập bởi vì tôi biết tại sao lại như vậy.
Người ta muốn biết tôi ra sao. Tôi tưởng
tượng lúc này họ đang sôi nổi nói với nhau: “Tôi chỉ nom thấy cái vành mũ! Bà
ta không muốn lộ mặt. Rồi ngày mai chúng ta sẽ biết. Người trong nhà thể nào
chả nói cho chúng ta hay”
Có lẽ chàng cũng đoán được chút ít rụt
rè của tôi vì chàng cầm lấy, hôn tay tôi và cười nói:
- Nếu người ta tò mò thì cũng chẳng
thành vấn đề gì. Ai mà chả muốn biết em ra sao. Chắc là họ đã kháo nhau từ
nhiều tuần nay. Em chỉ cần tỏ ra là em, mọi người sẽ mến em ngay. Và em chẳng
cần phải lo lắng đến việc nhà, bà Danvers lo liệu tất cả. Em cứ giao phó
hết cho bà ta. Lúc đầu thế nào bà ta cũng cứng nhắc với em. Anh cần phải nói đó
là một con người đặc biệt, nhưng không nên vì thế mà băn khoăn. Đó là cách của
bà ta, có thể thôi. Em có trông thấy những bụi cây kia không? Đó là một bức
tường thiên nhiên dài khi mà những cây Hydrangéa trổ hoa.
Tôi không đáp lời, bởi vì tôi nghĩ đến
cô bé đã mua một tấm bưu ảnh trong một cửa hiệu làng, và đi ra giữa ánh mặt
trời sáng chói, tay đung đưa bức ảnh và hài lòng nói: “Ta sẽ gài vào quyển
album. Manderley, cái tên đẹp quá!” Và bây giờ nó là nhà tôi. Tôi sẽ viết thư
cho mọi người: “Chúng ta sẽ nghỉ hè ở Manderley. Hãy đến thăm chúng tôi nhé!” Và
tôi sẽ bước đi trên con đường kỳ lạ và mới mẻ này, bây giờ là của tôi, với một
sự hiểu biết hoàn toàn, ý thức được mỗi con đường, mỗi chỗ rẽ, quan sát và tán
thưởng công việc của người làm vườn: chỗ này hàng bụi cây phải thẳng, chỗ kia
cắt đi một cành. Tôi sẽ đi vào trong chòi, lúc đi qua, sẽ nói: “Thế nào! Cái
chân ra sao rồi?”, trong lúc bà già không còn làm cho tôi phải tò mò nữa, mời
tôi vào trong bếp. Tôi thèm được như Maxim, vô tư, thoải mái và nụ cười nhỏ
trên môi nói lên hạnh phúc của chàng được trở về nàh mình.
Tôi thấy như còn xa, xa lắm, lúc mà tôi
cũng được mỉm cười và cảm thấy thoải mái, và tôi mong chóng đến lúc đó, được là
một bà già với bộ tóc bạc và bước chân chậm chạp, sống tại đây đã nhiều năm.
Tất cả còn hơn là con người ngốc nghếch rụt rè như tôi lúc này.
Cánh cổng đóng lại đằng sau chúng tôi,
con đường cái lớn đầy bụi đã biến mất và tôi nhận thấy lối đi này không phải là
lối đi mà tôi đã tưởng tượng khi nghĩ đến Manderley: không phải là một lối đi
rộng rải đá sỏi hai bên viền, vỉa hè sạch sẽ.
Lối đi lượn vòng eo như một cn rắn,
thỉnh thoảng có chỗ rộng hơn con đường hẻm, và một hàng cây lớn dựng lên trên
đầu chúng tôi, đan vào nhau những cành có khấc làm thành một cái vòm nhà thờ.
Ngay cả ánh nắng mặt trời buổi trưa cũng không lọt ra được tùm lá xanh ấy,
chúng rầm rì và xen kẽ vào nhau. Chỉ một mình những chấm sáng của ánh nắng có
thể luồn xuống được thành những làn sóng gián đoạn rắc vàng xuống mặt đường đi.
Cảnh rất im lặng, rất thanh tịnh. Ngoài đường cái lớn, một ngọn gió tây thổi
vào mặt tôi, làm nhảy nhót những ngọn cỏ trên thảm cỏ, nhưng ở đây không có
gió. Ngay cả động cơ của xe hơi tiếng nổ cũng khác, nhỏ hơn và nhẹ hơn, chúng
tôi vượt một chiếc cầu nhỏ bắc qua một dòng suối hẹp, và lối đi đó không phải
là một lối đi, vẫn tiếp tục lượn sóng như một dải thần kỳ qua những khu rừng
thầm lặng và tối, vẫn cứ đi xa hơn nữa, có lẽ vào đến tận trung tâm khu rừng mà
vẫn không có vết tích gì của bìa rừng, không có chỗ cho một ngôi nhà…
Bỗng nhiên tôi trông thấy ánh sáng trước
mặt chúng tôi, ở đầu lối đi tối và một chân trời. Một lúc nữa cây cối thưa hơn,
các bụi rậm không còn nữa, và phía hai bên chúng tôi, một bức tường màu đỏ dựng
lên cao hơn chúng tôi nhiều. Chúng tôi đang ở giữa những câu sơn lựu. Có vấn đề
gì hãi hùng, khó chịu trong cách xuất hiện đột ngột của nó. Tôi không được
chuẩn bị trước với rừng. Chúng đập vào mắt tôi với những bộ mặt đỏ tía, chồng
chất lên nhau, trong một cảnh hỗn độn không thể tưởng được, không để cho trông
thấy lá cành, chỉ thấy màu đỏ chói lọi, sặc sỡ, kỳ dị, không giống một cây sơn
lựu nào mà tôi thấy từ trước đến nay.
Tôi nhìn Maxim, chàng mỉm cười, và
nói:
- Em có thích không?
- Có! - Tôi nói hơi bị áp chế, không
hiểu tôi nói thật hay không, bởi vì đối với tôi một cây sơn lựu là một cây gia
đình, một sợi dây giao kết, màu hoa cà hoặc hồng, thành hàng một cách rất khéo
xung quanh một khối. Nhưng những cây này là những quái dị vươn lên trời, chất
đống như một tiểu đoàn, tôi nghĩ, quá đẹp, quá khoẻ, không còn là cây cối
nữa.
Chúng tôi tới gần ngôi nhà, tôi trông
thấy lối đi mở rộng ra về phía chỗ vòng mà tôi chờ đợi, vẫn cứ kèm giữa hai bức
tường đỏ thẫm, chúng tôi vòng góc cuối cùng và trông thấy Manderley. Phải, đúng
là Manderley mà chúng tôi chờ đợi, Manderley trong bức ảnh trươc kia của tôi.
Một kiểu kiến trúc duyên dáng và đẹp đẽ, tuyệt diệu không khiếm khuyết, mê hồn
hơn tôi đã mơ thấy nó, ở giữa những đồng cỏ dịu dàng và những sườn dốc đầy rêu;
những hàng hiên đi xuống các khu vườn, và những khu vườn trải ra đến tận biển.
Lúc chúng tôi đi về phía thềm rộng và dừng lại trước cửa mở rộng, tôi trông
thấy qua các tấm kính nhỏ của một cửa sổ, trong phòng có rất nhiều người và tôi
nghe tiếng Maxim rủa khẽ: “Mụ già chết tiệt. Mụ biết rất rõ là ta vốn ghê tởm
kiểu cách này”, và chàng dừng xe đột ngột.
- Gì thế này? – Tôi hỏi. - Những người
này là ai?
- Em cần phải đi theo lối này, - Chàng
nói giọng bực tức. – Bà Danvers tưởng là không ngoan đã tập trung được tất cả
mọi người trong nhà tại đây để chào mừng chúng ta. Được thôi, em sẽ chẳng cần
pảhi nói gì, cứ để mặc anh.
Tôi dò dẫm tìm quả đấm cánh cửa xe. Tôi
hơi lạnh và thấy đau ngực qua cuộc hành trình dài này. Trong lúc tôi đang đánh
vật với nắm cửa, ông quản gia đi xuống, theo sau có người đầy tớ và mở cửa xe
cho tôi.
Ông ta đã già, bộ mặt phúc hậu, tôi mỉm
cười với ông và đưa tay ra. Nhưng tôi cho là ông không trông thấy vì hcỉ thấy
ông cầm lấy chiếc vali nhỏ của tôi, và quay lại Maxim đang giúp tôi xuống
xe.
- Frith, thế là chúng tôi đã về tới đây!
– Maxim nói và tháo găng tay ra. – Lúc chúng tôi rời London, trời mưa.
Hình như ở đây không mưa thì phải. Mọi người khỏe cả chứ?
- Thư ông vâng, cám ơn ông! Ở đây trời
khô hanh đã một tháng nay. Tôi mong rằng ông vẫn khỏe và cả bà nữa.
- Vâng, cám ơn Frith. Đi đường hơi mệt
một chút. Chúng tôi đang muốn được dùng trà ngay. Tôi không ưa kiểu như thế
này, - Maxim nói và hất đầu về phía buồng.
- Đấy là theo lệnh của bà Danvers! –
Ông già nói, bộ mặt rắn đanh.
- Tôi cũng ngờ như vậy, - Maxim nói và
quay lại phía tôi, - Ta đi, cũng không lâu đâu, sau đó chúng ta sẽ dùng
trà.
Chúng tôi cùng bước lên thềm, theo sau
là Frith và người đầy tớ mang cái áo mưa và vali nhỏ của tôi, và tôi cảm thấy
đau nhói trong lòng và nơi cổ họng hơi nghẹn.
Hôm nay tôi có thể nhắm mắt và nhìn về
đằng sau, tôi thấy tôi đứng trên ngưỡng cửa nhà, cái bóng mảnh mai vụng về
trong bộ áo jersey, tay nắm đôi găng. Tôi lại trông thấy hành lang rộng lớn
bằng đá, các cửa mở rộng vào thư viện, chiếc cầu thang xinh xắn dẫn đến hàng
hiên, ở đó xếp thành hàng mờ ảo tràn ngập cả ra hành lang đá và vào trong buồng
ăn, những bộ mặt miệng há hốc, cặp mắt tò mò, nhìn tôi như một đám đông xung
quanh miệng đầu đài, tôi là nạn nhân hai tay bị trói. Có người nào đó tách ra,
từ biển người, cao lớn và gầy gò, mặc bộ đồ đen xỉn, hai gò má cao, hai con mắt
to sâu làm cho người ta tưởng như đầu người chết trắng bệch.
Bà đó đi đến tôi, tôi giơ tay ra và thèm
cái cung cách của bà, nhưng khi bà ta cầm lấy tay tôi, tôi nhận thấy tay bà mềm
và nặng, lạnh như của người chết và đặt lên ngón tay tôi như một vật bất động. Maxim
cất tiếng:
- Giới thiệu với em đây là
bà Danvers!
Và bà ta bắt đầu nói, vẫn cứ để bàn tay
chết tróc ấy trog tay tôi, cặp mắt quầng của bà không rời tôi và một lúc sau
tôi muốn bỏ trốn, tới lúc đó tôi mới thấy bàn tay bà cử động, sự sống đã trở
lại và tôi có một cảm giác khó chịu và xấu hổ.
Hôm nay tôi không thể nhớ được bà nói
những câu gì, nhưng tôi biết là bà ta chúc mừng tôi đến Manderley nhân danh cá
nhân và các nhân viên trong nhà. Sau khi bà phát biểu xong bài diễn văn ngắn
chẳng tình nghĩa, bà đợi tôi trả lời và tôi nhớ là tôi đã đỏ nhừ mặt và lắp bắp
mấy câu cám ơn và lúng túng thế nào để rơi cả đôi găng. Bà cúi xuống nhặt và
lúc trao cho tôi, tôi thấy một nụ cười khinh khỉnh trên môi và lập tức tôi hiểu
ngay là bà thấy tôi không ở tầm cỡ địa vị tôi. Có một thứ gì trong vẻ mặt bà
làm tôi có cảm giác lo ngại, và ngay cả khi bà trở về chỗ cùng với những người
khác, tôi vân tiếp tục xét đoán cái bóng đen ấy trong số đông và, mặc dù bà ta
im lặng, tôi biết là mắt bà không rời tôi. Maxim cầm tay tôi và phát biểu mấy
câu cám ơn một cách thoải mái, tự nhiên, rồi chàng dẫn tôi vào thư viện rồi
đóng cửa lại và chúng tôi chỉ còn một mình.
Hai con chó con rời lò sưởi ra đón chúng
tôi… Tôi cảm thấy dễ chịu hơn sau khi bỏ mũ và cái khăn quàng cổ lông khốn khổ
của tôi. Căn buồng cao và đầy đủ tiện nghi với những quyển sách sắp thành hàng
dọc theo các bức tường lên đến tận trần, mấy chiếc ghế bành đồ sộ cạnh lò sưởi
lớn và hai cái giỏ cho hai con chó, nhưng chắc chúng chả vào nằm đấy vì thấy
trên đệm ghế còn hằn vết chúng. Các cửa sổ rộng nhìn xuống thảm cỏ và đằng sau
thảm cỏ người ta nhận thấy xa xa lấp lánh mặt nước biển.
Trong phòng có mùi cũ và bình thản, như
thể không khí không được thay đổi luôn, mặc dù có mùi thơm của hoa hồng và tử
đinh hương tràn vào. Dù cho không khí vào trong buồng là từ biển hay từ vườn,
nó cũng mất mùi tươi tắn ban đầu, nó hòa vào không khí trong buồng với những
cuốn sách mốc meo như không bao giờ đọc đến, với mùi của trần có vẽ huy hiệu,
những đồ gỗ ảm đảm và của những tấm thảm nặng nề.
Bữa trà được phục vụ ngay, một nghi lễ
nhỏ do Frith và một người đầy tớ trẻ nữa thực hiện và tôi không đóng vai trò gì
cho đến khi họ rút lui. Rồi trong khi Maxim xem xét chồng thư, tôi nhấm hai mẩu
bánh, bóp nát hai mẩu hồng trong ngón tay và uống một chén trà nóng.
Thỉnh thoảng chàng lại ngước mắt lên và
mỉm cười với tôi, rồi lại quay về với chồng thư có lẽ đã tập trung từ nhiều
tháng nay, và tôi nghĩ là tôi biết rất ít về sinh hoạt của chàng ở Manderley,
về những người mà chàng biết, về những bạn bè của chàng, đàn ông và đàn bà, về
những hóa đơn mà chàng phải thanh toán, về những lệnh mà chàng ban hành trong
nhà. Những tuần lễ cuối cùng vừa qua đã trôi đi rất nhanh, và tôi đã ngồi trong
xe bên cạnh chàng qua nước Pháp và nước Ý, chỉ nghĩ đến tình yêu của tôi đối
với chàng, nhìn Vơnizơ qua cặp mắt chàng, nhắc lại những câu chàng nói, không
đặt những câu hỏi về quá khứ cùng như về tương lai, sung sướng trong niềm hân
hoan của hiện tại nhỏ bé và sống động.
Bởi vì chàng vui vẻ, dịu dàng hơn tôi
tưởng, nhiệt tình và tươi trẻ hàng trăm kiểu, không còn là Maxim nagỳ tôi gặp
đầu tiên, không còn là người lạ ngồi một mình ở bàn ăn khách sạn, nhìn thẳng
trước mặt, bao bọc trong vũ trụ thầm kín của mình. Maxim của tôi cười và hát,
ném những hòn đá sỏi xuống nước, nắm tay tôi, không còn những vết nhăn giữa
những đôi lông mày, không còn gánh nặng trên vai. Tôi biết chàng như một người
tình, như một người bạn, và trong những tuần lễ ấy, tôi đã quên mất chàng có
cuộc sống kỷ cương, cuộc sống cần phải lập lại, phải tiếp tục như quá khứ, và
trải qua mấy tuần lễ đó chỉ như những vụ nghỉ thoảng qua.
Tôi nhìn chàng đọc thư, sa sầm ở bức
này, mỉm cười ở bức kia, ném đi bức tiếp theo, và tôi nghĩ rằng nếu không được
Chúa phù hộ, cũng có thể bức thư của tôi nằm trong đó, viết từ New York, và
chàng cũng thản nhiên đọc nó, hơi băn khoăn bởi chữ ký, rồi đẩy nó đi với một
cái ngáp như những bức khác để uống trà. Ý nghĩ đó làm tôi lạnh toát, may mắn
nào đã đến với tôi, mặc dù chỉ nhỏ nhoi, nếu không chàng cũng cứ ngồi như thế
này trước bữa trà nhưng không nghĩ đến tôi, cũng chẳng luyến tiếc, trong khi
tôi ở New York chơi bài lá vơi bà Van Hopper, hàng ngày tôi đợi một bức thu mà
không bao giờ đến.
Tôi ngồi tựa lưng vào ghế bành, nhìn
khắp xung quanh buồng, cố tạo cho mình một tin tưởng nào đó là thực sự mình có
ở đây, ở Manderley, ngôi nhà của tấm bưu ảnh, và tất cả những thứ này đều là
của tôi vì tôi đã lấy Maxim.
Chúng tôi sẽ sống với nhau đến già,
chúng tôi sẽ uống trà với nhau như hai người già, Maxim và tôi, với những con
chó khác kế tục những con này và thư viện cũng có mùi đóng kín và mốc như lúc
này. Nó đã qua một thời gian vẻ vang mất trật tự của tuổi thanh niên - những
đứa con của chúng tôi – mà tôi thấy chúng nằm trên ghế đi văng với những đôi
giầy cao cổ đầy bùn, kéo theo cả một chiến lợi phẩm dây dợ, kiếm gỗ, dao và
cung tên.
Trên cái bàn kia, bây giờ sạch sẽ và
nhắn bóng sẽ có một chiếc hộp xấu xí đựng những con bướm, và một chiếc khác đầy
những chứng chim.”Mẹ không thích có những thứ linh tinh này ở đây, các con hãy
mang đi chỗ khác” Và chúng chạy ra, cười nói, gọi nhau, nhưng đứa thứ nhất sẽ ở
lại đây chơi một mình, không ồn ào như những đứa khác.
Ảo tưởng của tôi tan biến khi có tiếng
mở cửa, Frith cùng với người đầy tớ bước vào để dọn đi bữa trà.
- Bà Danvers hỏi bà chủ có muốn xem
buồng riêng không ạ? – Frith hỏi tôi.
Maxim ngước mắt lên khỏi các bức thư và
hỏi:
- Bên cánh đông người ta đã làm gì?
- Thưa ông, theo ý kiến tôi rất đẹp ạ! Thợ
người ta đã để lộ thiên tất cả và bà Danvers đã lo là không làm xong
kịp. Nhưng thứ hai tuần trước họ đã ra về cả rồi. Ông bà mà ở bên ấy thì đẹp
lắm, phía nhà bên ấy rất vui.
- Anh đã thay đổi àh? – tôi hỏi.
- Anh chỉ bảo trang trí lại và quét voi
khu bên đông mà anh muốn dành cho chúng ta. Như Frith nói, bên ấy vui lắm, nhìn
xuống vườn hồng rất đẹp. Đó là phía các buồng bạn bè hồi còn mẹ anh. Anh đọc
thư xong sẽ đi với em. Đây là một cơ hội tốt đẻ em sang bên đó làm quen với bà Danvers.
Đi ngay đi em!
Tôi từ từ đứng lên, lại thấy rụt rè, và
tôi bước ra hàng hiên. Tôi muốn đợi chàng và nắm tay chàng đi thăm các buồng.
tôi không muốn đi một mình với bà Danvers. Lúc này hàng hiên không có
người, trông nó sao mà lớn thế! Tiếng bước chân tôi vang lên trên sàn và trần
nhà lại dội chúng xuống và tôi thấy khó chịu đã gây ra nhiều tiếng động quá,
như trong nhà thờ. Chân tôi bước phát ra một tiếng động ngốc nghếch và tôi nghĩ
là ông Frith với đôi giầy đế dạ sẽ xét sai về tôi.
- Lớn quá ông nhỉ! – tôi nói với thứ
nhiệt liệt bắt buộc của học sinh, nhưng ông ta trả lời một cách rất nghi
thức.
- Thưa bà vâng, Manderley là một ngôi
nhà lớn. Hành lang này trước kia dùng để tiệc tùng. Những buổi lễ khác người ta
cũng bày nhiều bàn lớn, hoặc tổ chức những buổi khiêu vũ. Và công chúng có thể
được vào mỗi tuần một lần.
Một cái bóng đen đợi tôi ở trên cao cầu
thang và cặp mắt quầng nhìn tôi mãnh liệt từ trong đáy chiếc đầu lâu. Theo bản
năng, tôi tìm ông Frith khỏe mạnh, nhưng ông ta đã biến đâu mất từ đầu hành
lang phía đằng kia.
Một mình tôi với bà Danvers. Tôi
theo các bậc cầu thang lớn lên gặp bà, trong lúc đó bà đứng đợi tôi, lặng lẽ,
hai tay khoanh trước ngực, cặp mắt nhìn trừng trừng vào tôi. Tôi cố gắng mỉm
cười với bà mà bà không cười đáp lại, và tôi cũng chẳng muốn nữa, nụ cười của
tôi không lý do, ngốc nghếch, quá rộng và không tự nhiên. Tôi nói:
- Mong rằng tôi không làm bà phải chờ
lâu.
- Tôi xin phục vụ bà.
Bà Danvers nói rồi tiến lên đi phía
trươc tôi về phía hành lang tiếp theo. Chúng tôi đi qua một bậc đầu cầu thang
rộng và trải thảm, rồi rẽ sang trái và đi qua một cánh cửa bằng gỗ sên, đi
xuống một cầu thang hẹp, lại đi lên một cái nữa đến một cái cửa, bà mở ra và
đứng né cho tôi vào. Bên trong là một thứ phòng khách có một đi văng, mấy chiếc
ghế bành và một bàn giấy. Nó mở vào một buồng lớn có hai giường với những cửa
sổ rộng và một phòng tắm tiếp giáp. Tôi đi thẳng đến cửa sổ và nhìn ra ngoài.
Vườn hồng trải ra ngay dưới chân tôi và cũng lá cánh đông của sân thượng. Bên
kia vườn hồng, một bãi cỏ xanh dịu chạy đến tận khu rừng.
- Ở đây không trông thấy rừng àh? – Tôi
hỏi.
- Ở cánh bên này thì không, - Bà Danvers đáp.
Người ta cũng không nghe thấy nữa. Người ta không ngờ là nó ở rất gần
đây.
Bà nhấn mạnh đặc biệt đến “cánh này” để
xen vào đấy ý muốn nói là khu nhà chúng tôi đang đứng có vẻ gì kém hơn.
- Đáng tiếc! – Tôi lại thích biển.
Bà ta không trả lời mà cứ tiếp tục nhìn
tôi, hai tay chắp trươc ngực. Tôi nói tiếp:
- Nhưng đây là một căn phòng rất đẹp và
tôi tin là tôi sẽ thích lắm. Hình như nó được sắp xếp lại để đón chúng tôi. Lúc
trươc nó thế nào?
- Giấy dán tường của nó màu hoa cà và
những tấm rèm khác. Ông Winter không thích nó lắm nên trươc kia chỉ được dùng
làm phòng tiềp khách. NHưng ông Winter lại viết thư về bảo chúng tôi dọn dẹp để
đón tiếp bầ.
- Trước đây ông chủ không ngủ trong căn
buồng này àh?
- Thưa bà không. Ông không bao giờ ở bên
cánh này.
- Ôi! – Tôi không hiểu.
Tôi đến bàn trang điểm và chải bộ tóc.
Hành trang của tôi đã được mở ra, bàn chải của tôi đã để trên bàn. Tôi vui lòng
là Maxim đã tặng tôi hòm chải đầu này và thấy nó ở đây bầy ra trước mắt
bà Danvers. Nó còn mới và giá đắt, tôi chẳng phải xấu hổ về nó.
- Chị Alice đã dỡ hành trang của bà. Chị
ấy là nữ hầu và sẽ phục vụ bà trong khi chờ đợi người hầu phòng của bà
tới.
- Tôi không có hầu phòng, - Tôi ngượng
nghịu nói. – Nhưng tôi tin chắc là chị Alice sẽ phục vụ tốt.
Bà ta có cái vẻ mà tôi đã thấy lúc tôi
làm rơi đôi găng một cách vụng về.
- Tôi e rằng như vậy không được lâu.
Thông thường một người ở địa vị bà phải có hầu phòng.
Tôi đỏ mặt. Tôi đoán rõ điểm che giấu
dưới mấy câu nói đó, tôi nói:
- Nếu bà thấy là cần thiết, bà có thể
tìm cho tôi một người, một thiếu nữ nào đó vào tập sự.
- Tùyý bà!
Sau đó là im lặng. Tôi rất muốn bà ra
đi. Tôi tự hỏi bà đứng đó làm gì để rình mò tôi, hai tay chắp trước ngực?
- Hẳn bà đã đến Manderley từ lâu rồi, - Tôi
nói để cố nối lại câu chuyện, - lâu hơn bất kỳ ai ở đây?
- Không bằng Frith. Frith đã ở từ thời
còn cụ cố. Lúc đó ông Winter đây còn bé.
- À! … vậy là sau đó bà mới đến?
- Vâng, sau đó. Tôi đến lúc cưới bà De
Winter thứ nhất! – bà nói và giọng của bà vẫn âm thầm giờ đây sôi nổi hẳn lên
một cách đột ngột và cặp má gầy của bà hơi nhuốm màu.