Rebecca - Chương 01 + 02
Chương một
Đêm hôm vừa rồi tôi nằm mơ thấy tôi trở về Manderley. Đứng
bên hàng rào trước lối đi lớn, tôi không vào được vì hàng rào bị đóng khóa bằng
một dây xích. Tôi cất tiếng gọi người gác cổng, chẳng thấy ai trả lời. Nhìn qua
những thanh hàng rào sắt gỉ, tôi thấy trong nhà chẳng có bóng người.
Không một chút khói bốc lên từ lò sưởi, và những cửa kính nhỏ
rầm thượng hé mở trống hốc. Bỗng nhiên tôi cảm thấy mình có một sức mạnh thần
kỳ của những giấc mơ nên tôi luồn được qua những thanh sắt như một con ma. Lối
đi trải ra trước mặt tôi hình vòng cung quen thuộc, nhưng lúc tôi tiến vào lại
nhận thấy nó đã biến đổi hẳn, chật hẹp và bừa bãi, không còn là lối đi xưa kia
nữa.
Trước tiên tôi ngạc nhiên, nhưng khi cúi đầu xuống để tránh
một cành cây thấp, tôi chợt hiểu đã có vấn đề gì xảy ra. Thiên nhiên đã đòi lại
của cải của nó theo kiểu thâm hiểm là luồn sâu vào trong lối đi những móng dài
bền chặt. Rừng luôn luôn đe doạ, ngay cả từ trong thời quá khứ và cuối cùng
chúng thắng lợi. Chúng chen chúc, tối tăm và không trật tự vào hai bên lối đi.
Nhưng cây dẻ trơ trụi với những cành trắng xóa cùng nhau ngả xuống, đan vào
nhau một cách kỳ cục, xây thành một vòm nhà thờ trên đầu tôi. Cũng có những cây
khác nữa, những thứ cây mà tôi không nhớ, những cây sên xù xì, những cây du
ngoằn ngoèo sát cánh với những cây phong vươn từ dưới đất lên cùng với những
bụi to xù và những cây mà tôi không biết tên.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho
người yêu sách.]
Lối đi chỉ còn là một dải, một vệt của lối cũ, đá sỏi đã bị
cỏ lấp hết, rồi rêu và những rễ cây giống như móng vuốt những con mãnh cầm. Đó
đây trong rừng cây tôi còn nhận ra những bụi trước kia là những cây cảnh đẹp và
duyên dáng: cây thủy ngân có hoa xanh nổi tiếng. Không một bàn tay nào chăm sóc
chúng, chúng đã trở lên hoang dại, nhánh không có hoa, đen và xấu, vươn cao lên
một cách kỳ quái.
Lối đi tội nghiệp mà trước kia chúng tôi vẫn thường đi, bây
giờ vòng vèo và có đoạn còn biến mất nữa, nhưng rồi lại xuất hiện sau một thân
cây dẻ hoặc qua một vũng nước bùn do mưa dông để lại. Tôi không ngờ là lối đi
lại dài đến thế. Những km phải đươc nhân lên đồng thời với những cây cối, và
đường đi đó dẫn đến một mê cung, một thứ rừng hoang hỗn mang chứ không phải về
nhà. Nhưng rồi bỗng nhiên nó lại xuất hiện với tôi, xung quanh nó bị những cây
cối mọc um tùm và che lấp, và khi tôi đến trước mặt nó, tôi dừng lại, tim đập
mạnh, mắt cay sè nước mắt.
Đó là Manderley, Manderley của chúng tôi, bí mật và im lặng
như mọi khi với những hòn đá xám bóng dưới ánh trăng trong giấc mơ của tôi,
những miếng kính nhỏ ở cửa sổ phản chiếu thảm cỏ xanh và hàng hiên. Thời gian
chưa thể phá hủy sự cân đối hoàn hảo của kiểu kiến trúc ấy, cũng như vị thế nó
là một hòn ngọc trong lòng bàn tay.
Hàng hiên xuống đến tận thảm cỏ và thảm cỏ đên tận bể. Lúc
quay lại tôi trông thấy nó, chiếc lá bạc thanh bình dưới ánh trăng. Không một
làn sóng nào làm gợn mặt nước ấy trong giấc mơ, không một làn mây bị gió tây
thổi đến làm tối bầu trời xanh ấy.
Tôi lại quay lại nhìn ngôi nhà, và mặc dù nó vẫn y nguyên như
hôm qua lúc chúng tôi rời nó, tôi trông thấy khu vườn ấy cũng đã tuân theo luật
rừng. Những cây sơn lựu vươn dài ra đến nhiều mét và chúng hòa lẫn với những
bụi cây dại không tên. Một cây tử đinh hương cuốn nhau với một cây dẻ và để cho
chúng hợp nhất với nhau chặt chẽ hơn, một cây trường xuân hiểm độc, kẻ thù vĩnh
viễn của kiều diễm, cầm tù đôi cây ấy trong mạng lưới của nó. Cây trường xuân
đã chiếm được một chỗ lựa chọn trong khu vườn, những cành dài của nó vươn qua
thảm cỏ và bám cả vào tường nhà.
Tôi rời bỏ lối đi và bước vào hành lang liền bị những cây gai
ngăn giữ, nhưng vì tôi tiến lên trong thần kỳ của giấc mơ nên không gì có thể
ngăn cản được tôi. Tôi dừng lại đứng lặng lẽ dưới chân ngôi nhà và tôi có thể
thề rằng đó không phải là một cái vỏ rỗng, nó vẫn còn sống và còn thở như trước
kia.
Mọi cửa sổ đều được thắp sáng, những rèm cửa nhẹ nhàng lượn
sóng trong không khí ban đêm, và ở kia, trong thư viện mà cửa để hé mở, chiếc mùi
xoa của tôi hẳn là vẫn phải để trên bàn bên cạnh chiếc bình đầy hoa hồng mua
thu.
Những vật chứng cho sự có mặt của chúng tôi còn để dấu lại
trong phòng: tờ Thời báo nhàu nát, chiếc đựng tàn với những mẩu thuốc lá, những
chiếc gối còn in dấu đầu chúng tôi. Đống tro trong lò, và Jasper, con chó tinh
khôn với cặp mắt hiền lành và cái mõm lớn, nó phải đang nằm dài dưới đất, cái
đuôi vểnh lên mối khi có tiếng bước chân của chủ.
Một đám mây, cho đến lúc này vô hình, đi qua mặt trăng và
dừng lại một lúc như một bàn tay tăm tối trước bộ mặt. Ảo ảnh tan biến, ánh
sáng ở các cửa sổ tan biến mất. Tôi chỉ còn trước mặt những bức tường thầm lặng
và không có linh hồn.
Ngôi nhà là một ngôi mồ trong đó chôn chặt nỗi lo sợ và sự
đau đớn của chúng tôi. Không có vấn đề phục sinh. Lúc tỉnh dậy, tôi sẽ nghĩ đến
Manderley, mà không cảm thấy đắng cay. Tôi sẽ nhớ đến mùa hè trong vườn hồng và
tiếng thì thầm của biển cả đằng sau đường vòng của tấm thảm cỏ.
Tôi nghi đến cây tử đinh hương nở hoa và đến thung lũng hạnh
phúc. Những thứ đó là vĩnh cửu không thể tan biến mất được. Có những ký ức
không làm ta đau đớn. Tôi quyết định như vậy trong giấc mơ trong khi đám mây
bao phủ mặt trăng, bởi vì, như thường xảy ra trong giấc ngủ, tôi biết là tôi
nằm mơ. Thực tế là tôi ở cách xa đấy hàng trăm km trên một miền đất lạ, và tôi
tỉnh dậy trước một lúc trong căn phòng nhỏ của khách sạn trơ trụi. Tôi thở dài
một chút rồi mở mắt ra và ngạc nhiên thấy ánh sáng chói lọi của bầu trời gay
gắt và trong xanh khác hẳn với ánh trăng dịu hiền trong giấc mơ của tôi.
Trước mắt chúng tôi, ngày dài và tẻ nhạt, nhưng có một sự
bình tĩnh nào đó, một vẻ thanh tịnh đáng quý mà trước đây chúng tôi không biết
đến. Chúng tôi sẽ không nói đến Manderley, tôi sẽ không kể giấc mộng của tôi.
Bởi vì Manderley không còn là của chúng tôi, Manderley không còn nữa.
Chương 2
Chắc chắn là chúng tôi không trở về đấy được nữa. Quá khứ vẫn
còn quá gần. Những vấn đề mà chúng tôi cố gắng quên đi lại trở lại khuấy động,
và cảm giác lo âu ấy, cuộc đấu tranh chống lại một nỗi hãi hùng vô lý ấy – bây
giờ đã yên rồi, cảm ơn Chúa – có thể lại tái diễn mà chúng tôi không biết ra
sao và trở nên bạn đồng hành sinh động của chúng tôi.
Chàng bình tĩnh một cách kỳ diệu và không bao giờ phàn nàn,
ngay cả khi chàng nhớ đến… điều thường xẩy đến luôn, chàng không muốn để tôi
tin.
Tôi nhận ra điều đó qua thái độ bỗng nhiên trống rỗng, mất
mát, bộ mặt thân yêu của chàng thiếu hẳn mọi cảm giác như do một bàn tay vô
tình rửa sạch và trở nên một chiếc mặt nạ, một vật điêu khắc lạnh lùng, vẫn đẹp
nhưng không sinh động. Thế là chàng hút thuốc lá không ngừng và nói sôi nổi về
bất kỳ một vấn đề gì, nắm lấy đề tài đầu tiên của câu chuyện như để chuyển hóa nỗi
buồn của mình. Người ta nói con người thoát khỏi nỗi đau đớn một cách tốt nhất
và mạnh mẽ nhất, là để tiến triển trên đời này hoặc ở bất cứ đâu, đều cần phải
qua thử lửa. Cả hai chúng tôi đều đã biết sợ biết cô đơn và biết thống khổ. Tôi
cho là giờ thử thách đã điểm trong tất cả mọi sinh mạng. Tất cả chúng ta ai
cũng có con quỷ riêng biệt đè lên chúng ta, giày vò chúng ta và cuối cùng ta
phải chiến thắng nó. Chúng tôi đã chiến thắng con quỷ ấy của chúng tôi, hoặc ít
ra tôi cũng tin là như vậy.
Con quỷ không giày vò chúng tôi nữa. Chúng tôi thoát khỏi cơn
khủng hoảng, tất nhiên không phải không tổn thất, và tôi có thể nói chúng tôi
đã phải trả giá cho sự giải thoát của chúng tôi. Nhưng trên đời này tôi đã có
quá đủ những tấn bi hài kịch rồi. Hạnh phúc không phải là một vật để mà có, nó
là một đặc tính của tư duy, một trạng thái của tâm hồn. Tất nhiên chúng ta có
những lúc bị suy sụp, nhưng còn có những lúc khác, thời gian theo đồng hồ không
được đếm nữa mà chảy về nơi vô tận, mà nhìn thấy chàng cười, tôi biết là chúng
tôi thống nhất với nhau.
Giữa hai chúng tôi không có bí mật. Chúng tôi san sẻ vơi nhau
hết thảy. Tất nhiên khách sạn bé nhỏ của chúng tôi thiếu sự hào nhoáng, thức ăn
ở đây tầm thường, tất cả mọi ngày đều giống nhau, nhưng chúng tôi không đòi hỏi
gì khác. Ở những khách sạn lớn, chúng tôi gặp quá nhiều người quen. Cả hai
chúng tôi đều có những sở thích bình thường, và nếu xảy ra vấn đề gì làm chúng
tôi phải chán nản, chúng tôi thấy vẫn còn hơn là sợ hãi. Chúng tôi có những
thói quen và tôi phát hiện thấy tôi có khả năng lớn tiếng đọc sách. Chàng chỉ
sốt ruột khi thư tín từ nước Anh bị chậm trễ. Chúng tôi nghe vô tuyến, nhưng
tiếng ồn làm chúng tôi khó chịu và chúng tôi có thể chờ đợi niềm vui của chúng
tôi: kết quả một trận cricket tranh luận trước nhiều ngày vẫn làm chúng tôi
quan tâm đến.
Ôi! Những trận đấu đã cứu chúng tôi ra khỏi cơn buồn, những
trận đấm bốc, ngay cả đấu bida! Đôi khi vớ được tờ báo cũ, tôi cảm thấy mình
được đi ra khỏi cuộc sống dửng dưng này với thực tế của mùa xuân nước Anh.
Một hôm tôi vớ được một bài nói về những con chim bồ câu
rừng. Trong lúc tôi lớn tiếng đọc, tôi lại cảm thấy được ở trong rừng sâu
Manderley, những con chim câu bay lượn trên đầu tôi. Tôi nghe thấy những tiếng
gù của chúng rất tươi mát trong những buổi trưa hè. Chỉ một lát sau con Jasper
làm chúng bay mất vì nó chạy qua các bụi rậm đến chỗ tôi, mũi nó ẩm hít hít mặt
đất.
Lạ thay, một bài báo về con chim bồ câu rừng lại có thể gợi
lên quá khứ đến độ làm tôi lạc cả giọng! Chính vì vẻ mặt ưu sầu của chàng là
tôi phải ngừng đọc và giở sang những trang khác của tờ họa báo cho đến khi tìm
thấy một bài nói về cricket rất tẻ nhạt. Tôi thầm cảm ơn những vận động viên
chơi cầu, bởi vì chỉ sau vài phút, bộ mặt chàng đã bình tĩnh lại và có màu,
chàng chỉ trích đội Surrey một cách bực tức vô tư.
Chúng tôi đã thoát được một cuộc phải trở lại quá khứ và bài
học đã làm lơi cho chúng tôi. Hãy đọc cho chàng những tin tức về nước Anh,
vâng, về thể thao, về chính trị và về những nghi thức Anh, nhưng sau này phải
giữ riêng lại cho mình những vấn đề đem lại sầu thương… Những sắc màu, những
hương vị, những tiếng động, mưa và tiếng rì rào của nước, ngay cả sương mù của
mùa thu và mùi vị của thủy triều, bấy nhiêu kỷ niệm về Manderley không thể phủ
nhận được. Khuyết điểm của tôi có thể cũng kỳ cục như vậy. Tôi là một cái mỏ
tài liệu về cuộc sống nông thôn Anh. Tôi biết tên tất cả các điền chủ trên đất
Anh, tôi biết bao nhiêu con gà gô đã bị giết chết, bao nhiêu con đa đa, bao
nhiêu con hoẵng. Tôi biết ở đâu người ta nuôi cá hương và ở đâu người ta câu
được cá hồi. Tôi tham dự tất cả những bữa tiệc lớn, tôi theo dõi tất cả những cuộc
đua. Tôi ngấu nghiến những tin tức về mùa màng, về giá cả xúc vật và những bệnh
bí hiểm của lợn. Có lẽ là những trò giải trí nghèo nàn và chẳng trí thức, nhưng
đọc những vấn đề ấy tôi được thở không khí nước Anh và thấy được ở đấy đủ can
đảm để đương đầu với bầu trời sáng chói ấy.
Những vườn nho cằn cỗi và những con đường rải đá không còn
quan trọng gì đối với tôi nữa, bởi vì tôi có thể tùy theo trí tưởng tượng của
mình, tha hồ mà hái hoa mõm chó và hoa quả chuông dọc theo chiều dài hàng rào
ẩm ướt và đầy lá cây.
Nhờ đó tôi trở về tươi cười để có phần nghi thức vặtc ho bữa
quà trưa của chúng tôi. Thực đơn chẳng bao giờ thay đổi. Hai chén rượu pha bơ
cho mỗi người cùng với chén chè tàu. Trên bao lơn sạch sẽ, trắng trẻo và đã qua
mặt trời hàng thế kỷ, tôi nghĩ đến bữa trà ở Manderley và đến cái bàn đặt ở
trước mặt lò sưởi trong thư viện. Đến bốn giờ rưỡi, cánh cửa mở ra rất rộng,
xuất hiện nào khay bạc, nào ấm đun trà, nào khăn bàn trắng toát. Con chó Jasper
cụp tai lại làm ra vẻ thờ ơ lúc trông thấy bánh ngọt. Biết bao là của ngon vật
ngọt, nhưng sao mà chúng tôi ăn ít thế.
Tôi lại trông thấy bánh croatxăng phết đầy bơ, vành giòn tan
của những chiếc bánh rán nóng bỏng. Có những chiếc bánh kẹp với mùi vị tuyệt
diệu và một chiếc bánh làm bằng kẹo mứt thật kỳ lạ, một chiếc kẹo thần tiên bỏ
vào mồm là tan biến ngay, và một cái khác dày hơn làm bằng hạnh nhân và nho.
Thức ăn có đầy đủ cho một gia đình trong một tuần lễ. Tôi không hiểu người ta
giải quyết những thứ thừa ra sao, và nghĩ đến sự lãng phí đó, đôi khi lòng tôi
thấy băn khoăn.
Nhưng tôi không bao giờ dám bàn vấn đề đó với bà Danvers. Bà
ta sẽ khinh khỉnh nhìn tôi, mỉm cười với nụ cười giá lạnh và bề trên và nghe
thấy bà nói “Thời bà Winter còn sống, chưa bao giờ tôi nhận được những lời phê
bình ấy!”Bà Danvers…tôi tự hỏi bà ta ra sao, bà và cả Fawell nữa. Tôi cho là vẻ
mặt mà bà ta nhìn tôi đã cho tôi cảm giác đầu tiên là lo lắng. Theo bản năng
tôi tự nhủ: “Bà ta so sánh mình với Rebecca.” Và sắc như lưỡi dao, cái bóng
xuất hiện giữa chúng tôi…
Chính vào lúc tôi nhớ lại những vấn đề đó mà tôi trở lại nhẹ
nhõm trong lòng, nhìn phong cảnh trải rộng dưới bao lơn của chúng tôi. Không
một bóng mờ nào lơ lửng trên bầu trời đầy ánh sáng kia, những cành nho cứng lấp
lánh dưới ánh mặt trời và những cây bougainvillées trắng xóa những bụi. Có thể
một ngày nào đó tôi sẽ thích nhìn, còn bây giờ, chúng gây cho tôi nếu không
phải tình thương thì cũng là một cảm giác vững tin. Và vững tin là một đặc tính
mà tôi đánh giá cao mặc dù tôi đến hơi muộn. Tôi cho là cách mà ông bạn tôi
nhìn tôi đã làm tôi mạnh dạn hẳn lên. Nói tóm lại trước những người lạ tôi
không còn khó chịu và e lệ nữa. Tôi đã thay đổi hẳn kể từ ngày tôi đến
Manderley, đầy những hy vọng nóng bỏng và bị tê liệt vì một sự vụng về thảm hại
đồng thời lại muốn làm vui lòng mọi người. Chính sự thiếu vững tin đã làm tôi
có một cảm tưởng xấu về những người như bà Danvers. Tôi có vẻ gì để mà so
sánh với Rebecca?
Ký ức của tôi bước qua những năm như một cái cầu và tôi nhìn
thấy tôi với bộ tóc ngắn ngay đơ, bộ mặt trẻ con không phấn sáp, quần áo may
cắt vụng về với chiếc xăng đay đan lấy, lê bước trong vạt đi của bà VanHopper
như một con ngựa nòi rụt rè và khó chịu. Bà bước vào buồng ăn trước tôi, bóng
ngắn của bà khó giữ được thăng bằng trên đôi giày cao gót, tấm áo bluzơ làm dầy
thêm thân hình đẫy đà của bà với bộ mông uốn éo, chiếc mũ lật ra đằng sau để lộ
một cái trán rộng và trần như đầu gối một đứa học trò. Một tay bà cầm cái túi
đồ sộ theo kiểu dùng để đựng những tờ hộ chiếu, những quyển sổ thăm hỏi và
những ghi chép về bài lá, còn tay kia bà nghịch cái kính có cán, một vật thóc
mách.
Bà tiến đến chiếc bàn quen thuộc đặt ở góc buồng ăn bên cạnh
cửa sổ rồi đưa kính lên ngang tầm cặp mắt ti hí và bắt đầu quan sát xung quanh,
sau đó bà để kính rơi xuống theo chiều dài của sợi dây băng đen với một tiếng
khẽ thở dài khó chịu: “Không một người quen biết. Ta sẽ yêu cầu ban quản lý
giảm giá cho ta. Tại sao họ lại nghĩ đến chuyện đưa ta đến đây? Để mà nhìn
những chú tiểu đồng chăng?”
Tiệm ăn nhỏ chúng tôi ăn hôm nay khác hẳn với phòng ăn rộng
lớn và lộng lẫy của khách sạn Côted’Azur ở Monte Carlo, và người bạn hiện nay
của tôi đang bóc vỏ một quả cam bằng đôi tay bình tĩnh và khéo léo, thỉnh
thoảng lại ngước mắt mỉm cười nhìn tôi, khác hẳn với bà Van Hopper, bà đưa đôi
bàn tay mập mạp đeo đầy nhẫn ra ôm lấy cái đĩa đầy món ăn ngon và bằng cặp mắt
hoài nghi xem tôi có được phục vụ thức ăn tốt bằng của bà không! Lo ngại như
thế là vô ích bởi vì người phục vụ đã từ lâu biết được địa vị thấp kém của tôi
nên đã đặt trước mặt tôi một đĩa thịt nguội mà cách đấy nửa giờ đã bị một người
khách từ chối bởi vì nhìn nó không ngon mắt.
Tôi nhớ lại chiếc đĩa đó đựng jăm bông và lưỡi, loại thức ăn
khô khan và kém ngon, nhưng tôi không đủ can đảm để từ chối.
Chúng tôi lặng lẽ ăn. Bà Van Hopper ăn rất ngon lành, tôi
biết vậy theo cách nước sốt chảy xuống cằm bà. Tôi quay mặt đi để trách cảnh
tượng chẳng thú vị ấy do đó tôi chợt nhận thấy ở bàn bên cạnh, đã từ ba bốn
ngày nay trống không, bây giờ có một người mới đến. Ông chủ khách sạn, với một
kiểu chào đặc biệt dành riêng cho khách có tầm cỡ, đã đưa đến đấy một ông khách
mới.
Bà Van Hopper bỏ cái dĩa ăn ra để cầm kính lên. Tôi đỏ mặt vì
thấy bà nghiêng ngó ông khách mới, ông không quan tâm đến cử chỉ của bà, chỉ
thấy ông đưa mắt nhìn đĩa thức ăn. Bà Van Hopper đóng cặp kính lại rồi nghiêng
sang phía tôi với cặp mắt long lanh. Bà nói với tôi hơi to một chút:
- Đó là ông Max đờ Winter, chủ nhân ông của Manderley, chắc
cô đã có lần nghe nói đến. Mặt ông ta nom khó chịu làm sao ấy nhỉ! Có lẽ ông
chưa nguôi được về cái chết của vợ ông.