David Copperfield - Chương 5
Chương 5
Con gái ông Spenlow
Tôi không biết là tôi buồn bã hay hài lòng khi sắp đến lúc phải chia tay
tiến sĩ Strong và kết thúc việc học tập của tôi. Tôi thật sung sướng ở nhà ông,
và tôi thực sự gắn bó với ông, nhưng mặt khác, tôi muốn trở thành một thanh
niên tự do hoạt động.
Cô tôi thường bàn bạc với tôi về tương lai của tôi và bảo tôi đi du lịch
ít ngày rồi hãy haỵ Trước tiên tôi đến Canterbury chào từ biệt Agnès và ông
Wickfield, cùng ngài tiến sĩ Strong tốt bụng. Rồi tôi đi Luân Đôn tìm gặp lại
Steerforth bạn cũ của tôi nay đã trở thành sinh viên ở Oxford.
Anh
đi cùng tôi đến Yarmouth nơi tôi lưu lại ít ngày tại nhà chị Peggotty chung
thủy của tôi.
Sau
đó tôi gặp lại cô tôi. Giá như tôi có được đi vòng quanh thế giới thì cũng
không thể thỏa lòng hơn là ngày chúng tôi hội ngộ. Cô tôi khóc hết nước mắt
trong lúc ôm hôn tôi.
-
Này! Trot, - lát sau bà nói, - cháu đã nghĩ đến đề nghị của bà về việc cháu làm
biện lý chưa?
Hay
là cháu chưa nghĩ tới?
-
Cháu đã nghĩ nhiều đến việc ấy, bà thân yêu của cháu ạ. Cháu đã trao đổi nhiều
lần với Steer-forth. Cháu thích việc ấy không sao kể xiết.
-
Vậy thì bà rất vui, - cô tôi nói.
-
Cháu chỉ thấy một trở ngại, thưa bà.
-
Trở ngại gì, Trot?
-
Nghiệp đoàn ấy, theo cháu gồm rất ít thành viên, liệu điều kiện nhận vào có quá
khắt khe không?
-
Việc này trọn gói tốn tới một ngàn bảng. - Cô tôi nói.
-
Vậy, thưa bà thân mến, - vừa nói tôi vừa lại gần bà, - chính đó là điều cháu
băn khoăn. Đó là một khoản tiền rất lớn và bà đã chi tiêu nhiều cho việc ăn học
của cháu rồi.
-
Trot, cháu yêu quý của bà, cái đích của đời bà chính là gây dựng cho cháu nên
người có đạo đức, biết lẽ phải và sung sướng. Đó là tất cả nguyện ước của bà,
và ông Dick cũng đồng ý như vậy.
Bà
ngừng một lát để nắm lấy bàn tay tôi, rồi nói tiếp:
-
Từ khi cháu về nhà này, cháu đã làm vinh dự cho bà. Cháu đã là lý do để bà kiêu
hãnh và hài lòng, không ai có quyền hơn cháu về tài sản của bà và cháu là con
nuôi của bà. Bà chỉ yêu cầu cháu hãy là một đứa con giàu yêu thương đối với bà,
hãy chịu đựng những ý ngông và tính khí thất thường của bà. Vậy là chúng ta đã
đồng ý và thỏa thuận như thế. Trot, thôi đừng nói về chuyện ấy nữa. Hãy ôm hôn
bà đi và ngày mai, sau khi ăn sáng, chúng ta đến Pháp viện.
Hôm
sau chúng tôi làm cuộc hành trình đi Luân Đôn.
Qua
chiếc cửa vòm hơi thấp là vào đến Pháp viện. Qua những chiếc sân tối và buồn,
những lối đi hẹp dẫn chúng tôi đến thẳng văn phòng được hắt ánh sáng từ trên
xuống của các ông Spenlow và Jorkins. Trong tiền sảnh, hai ba viên thư ký bận
viết sổ sách giấy tờ. Người đàn ông gầy gò có bộ tóc giả màu nâu nom như chiếc
bánh mật ngồi một mình trong góc, đứng dậy tiếp bà cô tôi và đưa chúng tôi vào
văn phòng ông Spenlow.
Ông
Spenlow là một người đàn ông tóc vàng đi đôi bốt không chê vào đâu được, thắt
cà vạt trắng và áo sơ mi cổ cồn cứng đờ. Ông đeo dây đồng hồ to bằng vàng.
Bà
cô tôi giới thiệu tôi với ông Spenlow, ông tiếp tôi rất lịch sự. Rồi ông nói:
-
Vậy là ông Copperfield có ý định theo nghề của chúng tôi. Hôm trước được gặp cô
Trotwood, tôi đã tình cờ nói rằng tại văn phòng tôi còn trống một chỗ. Cô
Trotwood đã cho tôi biết bà có một cháu trai bà nhận làm con nuôi và bà đang
tìm cho cậu ta một địa vị tốt.
Tôi
cúi chào tỏ lòng biết ơn.
-
Và tiền bảo hiểm kể cả đăng ký là một ngàn bảng, như tôi đã thưa với cô
Trotwood, - Ông Spen-low nói tiếp. - Tôi không quan tâm lắm đến tiền bạc. Những
người cộng tác với tôi, ông Jorkins có ý kiến về việc này, và tôi buộc phải tôn
trọng ý kiến của ông ta. Tóm lại, Jorkins cho rằng một ngàn bảng chẳng đáng là
bao.
Tôi
rất hoảng sợ khi nghĩ đến cái nhà ông Jorkins khủng khiếp ấy, nhưng sau này tôi
phát hiện ra đó là một con người hiền lành, hơi trì độn và vai trò của ông ta
trong nghiệp đoàn là bao giờ cũng ở phía sau, là cho người ta mượn tên để đưa
ông ra như là một con người cứng rắn nhất, khe khắt nhất.. Thỏa thuận là tôi
làm thử một tháng.
Bà
cô tôi cũng đã cắt một mẩu tin đăng trên báo để tìm thuê cho tôi một căn nhà.
Căn hộ ở tầng trên ngôi nhà, gồm một phòng đợi có cửa sổ cao lắp kính, một
phòng khách nhỏ và một phòng ngủ. Đồ đạc hơi cũ, nhưng tôi không khó tính, và
từ cửa sổ ngôi nhà nhìn thấy con sông chảy qua.
Tôi
rất thích thú. Cô tôi và bà Crupp chủ nhà rút vào gian bếp để thảo luận các
điều kiện trong khi tôi ngồi lại trên ghế tràng kỷ tại phòng khách.
Sau
một cuộc "đấu" khá lâu, hai "đấu thủ" xuất hiện và tôi vui
mừng thấy rằng công việc đã xong xuôi qua nét mặt bà Crupp cũng như nét mặt cô
tôi.
Sau
hai ngày hai đêm, tôi có cảm tưởng như đã ở cả năm trong căn nhà này.
Một
buổi sáng, lúc tôi chuẩn bị ra khỏi nhà thì nhận được tấm thiếp như sau:
"Anh
Trotwood thân mến, em đang ở nhà người lo toan công việc cho ba em, ông
Water-brook, tại Elyplace, Holborn. Hôm nay anh có đến thăm em được không? Em
sẽ có nhà vào giờ anh hẹn đến.
Em
của anh, rất quý mến.
Agnès."
Khoảng
bốn giờ tôi tới nơi. Người ta đưa tôi vào một phòng khách nhỏ, hơi ngột ngạt, ở
đó tôi thấy Agnès đang đan chiếc túi lưới.
Tôi
luôn nghĩ rằng nàng là thiên thần phúc hậu của tôi, tôi đã nói điều đó với nàng
và cảm thấy còn phải nói với nàng thêm nữa.
-
Đúng, Agnès ạ, em là thiên thần phúc hậu của anh.
-
Nếu đúng là như vậy, - nàng nói. - Em muốn anh hãy cảnh giác với vị ác thần của
anh. Đó là chuyện em hết sức quan tâm.
-
Agnès thân mến, có phải em định nói đến Steerforth...
-
Vâng, anh Trotwood ạ,- Nàng đáp.
-
Thế thì, Agnès, em đã lầm to, anh sẽ tha thứ cho em khi nào em đối xử công bằng
với Steerforth và yêu quý anh ấy như anh quý mến anh ta.
-
Không tha thứ trước đó ư?
Tôi
thoáng thấy như có một cái bóng lướt qua gương mặt nàng, nhưng nàng mỉm cười
với tôi ngay và chúng tôi trở lại tin nhau như xưa.
Than
ôi! Sau này tôi mới thấy Agnès đúng.
Steerforth
làm đau khổ những người vô tội, cuối cùng bất hòa với mẹ mình, bỏ đi du lịch để
lánh xa bà và chết trong một vụ đắm tàu. Agnès hỏi tôi có gặp Uriah không.
-
Uriah Heep ấy à? - Tôi nói, - Không, hắn ở Luân Đôn à?
-
Ngày nào hắn cũng đến đây tại văn phòng ở tầng trệt. Trotwood ạ, em e rằng hắn
đang chạy chọt vụ việc mờ ám nào đó.
-
Vụ việc đó làm em lo ngại, Agnès, anh thấy rõ như thế. Việc gì vậy?
-
Em cho là hắn sắp trở thành cộng sự của ba em.
-
Ai kia? Uriah! Liệu tên khốn nạn đó có thể lọt vào vị trí tốt đẹp đến thế bằng
những điều đê tiện quỷ quyệt của hắn hay không? - Tôi bất bình kêu lên. - Chặn
đứng ngay lại, Agnès, nếu còn kịp.
-
Ba em muốn em tin rằng đó là một việc do chính ba em lựa chọn, nhưng hôm nọ khó
khăn lắm mới không giấu được em là ông bị ép buộc. Em lo quá.
-
Bị ép buộc! Agnès! Ai đã ép buộc ba em?
-
Uriah, - nàng đáp sau một lát lưỡng lự. - Uriah đã tìm cách để hắn trở nên vai
trò cần thiết đối với ba em. Hắn đoán đúng những điểm yếu của ba em, hắn thúc
đẩy thêm và lợi dụng được những nhược điểm ấy. Anh Trotwood ạ, em cho là ba em
sợ hắn.
-
Sợ hắn! Một tên lang sói! - Tôi kêu lên.
Xưa
nay ba em luôn yêu thương ân cần với em, - Agnès cố giấu nước mắt nói tiếp. -
Em biết ba đã chịu mọi sự thiếu thốn vì em. Ôi! Nếu em có thể vực được ba em
lên.
Tôi
chưa thấy nàng khóc bao giờ. Tôi bối rối đến nỗi chỉ tìm ra được những lời trẻ
con vớ vẩn để an ủi nàng.
Nét
mặt nàng trở lại thanh thản.
-
Có lẽ rồi ra chúng ta không gặp riêng nhau được lâu, - Agnès nói với tôi, - và
giờ đây em đang có cơ hội, anh Trotwood ạ, em khẩn khoản yêu cầu anh hãy tỏ
lòng khoan dung với Uriah. Chung quy làm vậy có lẽ chỉ là thừa nhận tư cách của
hắn mà thôi, vì ta chẳng có điều gì phản đối hắn được. Dù sao anh hãy nghĩ đến
ba em và đến em.
Agnès
không kịp nói thêm nữa, vì cánh cửa mở ra và bà Waterbrook bước vào. Bà mời tôi
đến dự bữa ăn tối hôm sau.
Hôm
sau lúc tôi đến, khi mở cửa ra mặt đường phả đầy hơi đượm mùi thịt cừu khiến
tôi biết là khách mời không phải chỉ riêng tôi.. Tôi làm quen với ông
Waterbrook và bày tỏ lòng tôn kính của tôi với bà Waterbrook.
Tôi
thấy Uriah Heep mặc đồ đen giữa đám người cùng bọn. Sau khi bắt tay tôi, hắn
chỉ làm mỗi một việc là lảng vảng quanh tôi và mỗi lần tôi nói với Agnès một
lời, tôi lại thoáng thấy trong một xó khóe mắt lờ đờ và bộ mặt như xác chết của
hắn. Những khách mời khác cho tôi cảm giác họ đã được ngâm trong nước đá, y như
rượu sâm banh vậy. Do tương phản, tôi sung sướng gặp lại giữa đám người lạnh
ngắt ấy gương mặt đôn hậu của người bạn cũ Tommy Trađles của tôi. Ông Waterbrook
thấy chúng tôi quen nhau liền nói với tôi về anh chàng Tommy tội nghiệp như thể
một luật gia thật tầm thường không đáng kể, sáng nay mới mời cậu ta nhằm lấp
một ghế trống mà thôi.
Tôi
giới thiệu Agnès với Trađles. Anh rất rụt rè nhưng đồng thời rất hòa nhã đáng
mến và vẫn luôn tốt bụng như xưa. Anh ra về sớm vì sáng hôm sau anh phải đi
vắng một tháng. Chúng tôi hẹn khi anh trở về sẽ gặp lại nhau.
Vài
ngày sau Agnès quay về Canterbury. Tôi tiễn nàng ra xe. Uriah Heep cũng đi chuyến xe
đó.
Ở
cửa xe hắn như con diều hâu háu đói quanh quẩn không rời chúng tôi, nuốt lấy
nuốt để mỗi lời chúng tôi trao đổi với nhau.
Sau
khi Agnès ra về, tôi rất băn khoăn về tất cả những gì nàng đã thổ lộ.
Tuy
nhiên ngày lại ngày, tuần lại tuần cứ trôi đi. Tôi đã làm việc hẳn tại văn
phòng các ông Spen-low và Jorkins. Bà cô tôi cho tôi tám mươi bảng mỗi năm trả
tiền thuê nhà và nhiều khoản chi khác cho tôi.
Nửa
tháng sau khi tôi làm việc hẳn chỗ các ông Spenlow và Jorkins, tôi được ông
Spenlow mời ngày thứ bảy về căn nhà thôn quê của ông ở Norwood.
Trên
đường đi ông cho tôi biết rằng ông có một người con gái tốt nghiệp một trường
nội trú tại Pháp đang ở Norwood.
Một
khu vườn rất đẹp trải dài trước ngôi nhà.
Thảm
cỏ duyên dáng, tôi nhác thấy trong bóng tối những đám cây và những giàn cây
hình vòm theo mùa xuân về phủ đầy hoa và cây leo.
Chúng
tôi vào trong nhà và ông Spenlow nói với tôi:
-
Xin giới thiệu với anh Copperfield con gái Dora của tôi và bà cô đây là người
bạn tin cẩn của Dora.
-
Tôi đã gặp ông Copperfield rồi. - Một giọng nói rất quen cất lên, giữa lúc tôi
lí nhí chào vài tiếng... Không phải Dora nói, không! Đó là người bạn tin cẩn,
cô Murdstone!
-
Cô có khỏe không, thưa cô Murdstone? -Sau khi định thần lại tôi hỏi khẽ. - Hi
vọng là cô vẫn khỏe chứ?
-
Rất khỏe, - Bà ta đáp.
-
Còn ông Murdstone có khỏe không ạ?
-
Sức khỏe em tôi khá lắm, xin cảm ơn cậu.
-
Tôi rất hài lòng được thấy - Ông Spenlow nói với vẻ hơi ngạc nhiên, - rằng cô
Murdstone và cậu lại đã quen biết nhau.
-
Cậu Copperfield và tôi là thông gia đấy, - Cô Murdstone nói giọng thản nhiên và
nghiêm nghị. - Chúng tôi có quen biết nhau chút ít, ngày xưa, lúc cậu ấy còn ít
tuổi. Do hoàn cảnh đưa đẩy chúng tôi xa nhau từ dạo ấy; tôi không nhận ra cậu
ấy nữa.
Tôi
đáp là tôi có thể nhận ra bà ở bất kỳ nơi nào, đúng là như vậy.
-
Con gái Dora của tôi bất hạnh, thiếu tình mẫu tử - Ông Spenlow nói tiếp, - và
cô Murdstone rất vui lòng bầu bạn bảo vệ cho nó.
Tôi
nhìn Dora và dường như qua cung cách hơi bướng bỉnh và khó chiều của cô, tôi
thấy cô chưa hẳn đã sẵn sàng đặt niềm tin cậy vào cô Murđstone trong vai trò
làm bạn và người bảo trợ.
Tôi
đi vận y phục để dự bữa tối. Lúc quay xuống nhà tôi gặp cô Murdstone.
-
Chúng ta chưa bao giờ đồng tình với nhau, - bà nói với tôi, - và tôi không thay
đổi ý kiến của tôi đối với cậu, nhưng vì hoàn cảnh cuộc đời đẩy chúng ta gặp
lại nhau, vậy không cần thiết phơi bày những điều xung đột khiến mọi người chú
ý đến chúng ta.
-
Cô Murdstone ạ, - tôi đáp, - tôi thấy ông Murdstone và cô, các vị đã đối xử độc
ác với mẹ tôi và tôi. Tôi sẽ giữ ý kiến ấy suốt cuộc đời tôi. Nhưng tôi hoàn
toàn tán thành đề nghị của cô.
Suốt
buổi tối, tôi chỉ chú ý đến Dora. Lúc chia tay nàng mỉm cười và chìa bàn tay
nhỏ xinh cho tôi.
Hôm
sau, nàng hỏi tôi:
-
Anh không quan hệ với cô Murdstone có phải không?
-
Không, không có gì hết, - tôi đáp.
-
Cô ấy chán lắm, - Nàng nhăn mặt nói tiếp, - Jip là một kẻ bảo vệ còn tốt hơn cô
Murdstone nhiều, có phải không hả Jip. Jip là con chó nhỏ yêu thích của nàng.
Nó chỉ hờ hững nhắm mắt lại trong lúc nàng đặt một nụ hôn lên đầu nó.
Suốt
cả ngày, tôi chỉ nghĩ đến Dora. Không may chúng tôi phải chịu đựng sự có mặt
thường xuyên của cô Murdstone.
Sáng
sớm hôm sau bọn tôi lên đường. Dora dậy sớm không kém gì bọn tôi và đã có mặt ở
bàn để pha trà cho chúng tôi, và tôi đã được hưởng niềm thú vị gượng gạo đáng
buồn là nhấc mũ chào nàng từ trên xe ngựa bốn bánh, trong khi nàng đứng ở
ngưỡng cửa bế Jip trong tay. Từ đó trở đi tôi rất khó tính trong việc chọn cà
vạt, tôi mang găng màu sáng và những đôi giày rõ thật khít vào chân.
Vài
tuần sau, tôi nghĩ rằng Trađles có thể đã về và tôi quyết định đến địa chỉ anh
đã dặn. Khu phố nơi anh ở có phần kém vui. Tôi đến trước ngôi nhà có một chị
đầy tớ đang tranh luận với người bán sữa về một chỗ ghi sổ chưa thanh toán.
-
Đây có phải là nhà ông Trađles không ạ?
-
Tôi hỏi.
Ở
tận cùng hành lang có tiếng đáp:
-
Phải.
Thế
là tôi bước vào rồi leo cầu thang lên phía trên theo sự chỉ dẫn của người tớ
gái. Tôi gặp Trađ dles ở chiếu nghỉ. Nhà chỉ có một tầng lầu và anh thân tình
mời tôi vào căn phòng ở phía trước.
Phòng
khá sạch sẽ tuy đồ đạc sơ sài. Tôi thấy rằng toàn bộ nơi anh ở chỉ gồm mỗi
phòng này, một chiếc tràng kỷ làm giường nằm; bàn chải và xi giấu giữa đám
sách, sau cuốn tự điển, trên chiếc giá cao nhất. Bàn của anh đầy giấy tờ; anh
mặc bộ áo quần cũ.
Sau
khi an tọa, tôi bắt tay anh lần thứ hai và nói:
-
Tôi rất mừng được gặp anh, Trađles ạ.
-
Chính tôi mới mừng được gặp anh thì có.
Tôi
nhận thấy ở nhà Waterbrook anh bao giờ cũng vẫn là một chàng trai tốt bụng, vì
thế tôi cho anh địa chỉ nhà ở chứ không phải văn phòng làm việc của tôi.
-
Anh có một văn phòng luật sư?
-
Tôi có một phần tư văn phòng và hành lang, cũng như một phần tư người thư ký, -
Trađles nói tiếp, - nghĩa là bốn người chúng tôi chung nhau thuê một văn phòng
luật sư, một thư ký để có cái vẻ tiến hành các dịch vụ.
Trong
nụ cười tiếp sau lời giải thích ấy, tôi thấy lại tính cách giản dị của anh và cái
số anh thường ít gặp may mắn. - Ông Waterbrook nói với tôi anh định theo nghề
luật sư?
-
Vâng, tôi học nghề luật sự Nhưng phải trả một trăm bảng, đó là chuyện rất to
lớn. Anh nói thêm kèm theo cái nhăn mặt như thể anh vừa nhổ mất chiếc răng vậy.
-
Anh có ông bác giúp đỡ trong việc học kia mà?
-
Đúng vậy, nhưng ông bác mình đã mất ít lâu sau ngày mình ra khỏi ký túc xá.
-
Thật đáng tiếc!
-
Phải, ông là lái buôn dạ đã về nghỉ và ông cho mình quyền thừa kế, nhưng lớn
lên mình không hợp ý ông.
-
Ý anh nói gì vậy? - Tôi hỏi.
-
Ông ta trông đợi ở tôi những điều khác hẳn, - anh nói, - và vì hờn dỗi tôi ông
kết hôn với chị giúp việc trong nhà.
-
Và lúc ấy anh làm thế nào?
-
Ồ! Chẳng thế nào cả. Tôi ở lại với họ ít lâu trong khi chờ đợi ông giúp đẩy tôi
lên tí chút trong xã hội, nhưng không may bệnh thống phong của ông chạy lên dạ
dày và ông mất. Bấy giờ cô nàng lấy một anh chàng trẻ tuổi và tôi chẳng có địa
vị gì.
-
Nhưng cuối cùng chẳng lẽ ông ta không để lại chút gì cho anh?
-
Ồ! Có chứ, sự thực, - Trađles nói, - Ông để cho năm mươi ghi nê đủ trả tiền
nhập học của tôi.
Anh
cũng giải thích với tôi là anh làm vài việc vặt, đặc biệt là làm ở một nhà xuất
bản đang tiến hành xuất bản bộ bách khoa thư. Anh cho tôi biết rằng anh là
chồng chưa cưới của cô con gái một vị mục sư ở Devonshire có mười người con. Họ
còn phải đợi lâu mới lấy được nhau, nhưng họ kiên nhẫn chờ.
-
Thường ngày, - anh nói tiếp, - tôi ăn cùng với những người ở tầng trệt, họ là
những người rất đáng mến. Ông và bà Micawber hiểu đời và là những người rất tử
tế.
-
Anh Trađles thân mến, - tôi kêu lên, - anh vừa nói gì vậy? Tôi rất quen ông bà
Micawber.
Đúng
lúc đó có tiếng gõ dồn dập hai tiếng một ở cánh cửa mở ra đường, tôi biết ngay
là tiếng gõ của ông Micawber. Tôi bảo Trađles mời chủ nhà của anh lên. Trađles
vừa cúi xuống tay vịn cầu thang để gọi thì ông ta đã lên đến nơi. Nom ông chẳng
có gì thay đổi; chiếc quần bó sát, chiếc can, áo sơ mi cổ cồn và kính kẹp mũi
vẫn như cũ. - Xin lỗi, thưa ông Trađles, - Ông Micawber nói, - quả tình tôi
không ngờ lại gặp trong chỗ ở riêng của ông một người khách lạ.
Ông
Micawber khẽ chào tôi và chỉnh cổ áo sơ mi.
-
Ông có khỏe không? Thưa ông Micawber, - Tôi hỏi ông ta.
-
Thưa ông, - Ông Micawber nói, ông thật tốt bụng. Tôi vẫn được như cũ.
-
Còn bà nhà, thưa ông? - Tôi hỏi tiếp.
-
Thưa ông, - Ông Micawber nói, - bà nhà tôi cũng vẫn bình thường.
-
Và các cháu nữa, thưa ông Micawber?
-
Tôi rất vui mừng thưa với ông rằng chúng đều khỏe cả. - Ông Micawber nói.
Đến
lúc ấy, ông Micawber dù đang đứng trước mặt tôi, thế mà chưa nhận ra tôi. Nhưng
khi thấy tôi mỉm cười, ông quan sát tôi kỹ hơn, lùi lại một bước, rồi kêu lên:
-
Sao lại thế này? Có đúng là Copperfield mà tôi may mắn được gặp lại hay không?
Và
ông xiết thật chặt hai bàn tay tôi.
-
Ơn chúa! Thưa ông Trađles, - Ông Micawber nói, - thật không ngờ ông lại chơi
với người bạn thời trẻ tuổi của tôi, anh bạn tín cẩn của tôi từ thuở xa xưa.
Dường
như Trađles rất sửng sốt trước tất cả những lời xưng hô ấy. Ông Micawber cúi xuống
tay vịn cầu thang gọi vợ ông lên phòng của Trađles.
-
Copperfield à, ông tiến sĩ Strong của chúng ta có khỏe không, - Ông Micawber
nói, - cả các bạn chúng ta ở Canterbury nữa?
-
Tôi chỉ nhận được những tin tức tốt lành về họ.
-
Tôi rất vui về điều ấy.
Bà
Micawber xuất hiện, tay đi găng màu nâu.
-
Bà yêu quý ơi, - Ông Micawber vừa nói vừa dắt bà lại chỗ tôi, - đây là một quý
công tử có tên là Copperfield muốn làm quen lại với bà.
Bà
ta ngạc nhiên đến nỗi như muốn xỉu đi, mọi người phải đi lấy nước lạnh tại vòi
nước ngoài sân cho bà.
Ông
Micawber năn nỉ mời tôi ở lại dùng bữa tối. Đáng lẽ tôi sẵn lòng nhận lời nếu
không đọc được trong ánh mắt bà Micawber chút băn khoăn khi bà nhẩm tính số
lượng thịt ướp lạnh còn lại trong tủ. Tôi tuyên bố rằng tôi đã nhận lời chỗ
khác, và khi nhận thấy bà Micawber nhẹ người như trút được gánh nặng, tôi liền
khước từ mọi lời khẩn khoản của chồng bà. Nhưng tôi nói với các bạn rằng tôi sẽ
không đi nếu các bạn không hứa sẽ cùng đến ăn bữa tối ở nhà tôi. Vậy là thỏa
thuận xong. Tiễn tôi về, ông Micawber nói:
-
Copperfield thân mến, lúc này tôi đang bận làm công việc ủy thác lúa mì. Công
việc này không có lãi, nói cách khác, nó chẳng mang lại lợi lộc gì hết. Do vậy
tôi bị túng bấn tạm thời. Tuy nhiên tôi vui mừng nói với cậu rằng tôi đang mong
đợi cơ may gặp được chuyện gì đó giúp tôi gỡ được khó khăn, tôi cũng như anh
bạn Trađles của cậu, tôi quan tâm thực sự đến anh ấy.
Ông
Micawber bắt tay tôi lần nữa và chúng tôi chia tay.