Đừng nói một ai - Chương 20 + 21 + 22
20
Lúc 2:00 A.M, tôi bò được lên giường và nằm ngửa ra. Trần nhà bắt đầu tạo ra những cú
xoay tròn nốc-nhiều-quá-mức. Tôi bám chặt lấy cạnh giường và tì người lên đó.
Shauna
trước đó hỏi tôi có từng ham muốn ngoại tình sau khi kết hôn không. Cô thêm
đoạn sau - đoạn “sau khi kết hôn” - bởi vì cô biết một vụ khác.
Theo lý
thuyết mà nói, tôi thực sự có lừa dối Elizabeth một lần, mặc dù lừa dối nghe
không đúng cho lắm. Lừa dối có nghĩa là làm điều hại cho người khác. Nhưng việc
đó không gây tổn hại Elizabeth - tôi chắc chắn thế - năm thứ nhất đại học, tôi
có dự vào một bước ngoặt đáng khinh được gọi là mối-tình-sinh-viên-một-đêm. Vì
tò mò, tôi nghĩ thế. Thử nghiệm hoàn toàn và xác thịt thuần túy. Tôi không
thích chuyện đó lắm. Tôi sẽ tránh cho bạn cái sáo ngữ cũ rích tình-dục-không-tình-yêu-là-vô-nghĩa.
Không phải vậy. Nhưng trong khi tôi nghĩ khá dễ dàng để quan hệ tình dục với
một ai đó mà mình không biết hay thích một cách đặc biệt, thì ở lại qua đêm là
cả một khó khăn. Sự ham muốn như nó là thế, thuần túy sinh lý. Một khi sự, e
hèm, bức xúc được giải tỏa, tôi muốn biến luôn. Tình dục là cho tất cả mọi
người; hậu tình dục thì chỉ cho người tình mà thôi.
Biện minh
khá ổn, phải không?
Nếu nó
quan trọng, tôi ngờ Elizabeth chắc hẳn cũng làm việc gì đó tương tự. Chúng tôi
đều đồng ý cả hai nên thử “gặp gỡ” - “gặp gỡ” là một từ thật mập mờ, hàm chứa
tất cả - những người khác khi chúng tôi mới vào đại học. Bất cứ sự không chú ý
nào, vì thế sẽ được đưa thêm vào cuộc thử nghiệm sự ràng buộc trong mối quan
hệ. Mỗi lần nói đến chuyện đó, Elizabeth đều chối chưa từng có một ai khác.
Nhưng rồi lại một lần nữa, tôi cũng thế.
Cái
giường cứ xoay tròn khi tôi băn khoăn: Mình làm gì bây giờ?
Việc đầu
tiên, tôi đợi đến năm giờ chiều ngày mai. Nhưng tôi không thể chỉ ngồi không
cho đến lúc đó. Tôi đã ngồi không đủ rồi, cám ơn rất nhiều. Sự thật là - một sự
thật tôi không thích thú nhận ngay cả với chính mình - tôi đã do dự ở chỗ cái
hồ. Bởi vì tôi sợ. Tôi lên khỏi nước và ngập ngừng. Việc đó tạo cơ hội cho kẻ
kia đánh tôi. Và tôi không đánh trả sau cú đập đầu tiên. Tôi không đâm bổ vào
kẻ tấn công mình. Tôi không túm chặt hắn, thậm chí tung một cú đấm cũng không.
Tôi chỉ gục xuống. Tôi che người và đầu hàng và để kẻ mạnh hơn kia mang vợ mình
đi.
Không
phải một lần nữa.
Tôi suy
xét việc hỏi chuyện bố vợ tôi một lần nữa - rõ mồn một là Hoyt không hồ hởi
giúp đỡ mấy khi tôi đến thăm lần trước - nhưng làm vậy có ích gì không? Hoyt
hoặc đang nói dối hoặc... hoặc tôi không biết gì. Nhưng lá thư rất rõ
ràng. Đừng nói một ai. Cách duy nhất tôi có thể làm để khiến ông
nói ra là nói cho ông biết tôi nhìn thấy cái gì đó ở camera trên phố. Nhưng tôi
vẫn chưa sẵn lòng làm thế.
Tôi ra
khỏi giường và nhảy đến chỗ máy tính. Tôi lại bắt đầu lướt mạng. Đến sáng, tôi
đã gần lên được kế hoạch.
Gary
Lamont, chồng Rebecca Schayes, không hoang mang ngay lập tức. Vợ anh thường làm
việc khuya, rất khuya, thỉnh thoảng còn ngủ qua đêm trên một cái võng ở góc xa
bên phải của studio. Vì vậy khi đã đến bốn giờ sáng và Rebecca vẫn chưa về nhà,
anh chỉ hơi lo chứ không hoang mang.
Ít nhất
đó là điều anh thầm nghĩ.
Gary gọi
đến studio, nhưng máy tự động trả lời. Một lần nữa, chuyện đó không phải là
hiếm. Khi đang làm việc, Rebecca ghét bị làm phiền. Cô thậm chí không đặt điện
thoại phụ trong phòng tối. Anh để lại tin nhắn và ra giường nằm lại.
Giấc ngủ
đến chập chờn. Gary suy tính làm thứ gì khác, nhưng việc đó sẽ chỉ khiến
Rebecca phát cáu. Cô là người tinh thần tự do, và nếu có tình trạng căng thẳng
trong mối quan hệ trọn vẹn của họ, thì đó hẳn là do kiểu sống khá “truyền
thống” của anh “chặt đứt” đôi cánh tự do sáng tạo của cô. Từ của cô.
Vì vậy
anh tạo không gian cho cô. Để không chặt cánh của cô hay bất cứ thứ gì.
Vào lúc
bảy giờ sáng, lo lắng cất cao lên thành thứ gì đó gần với nỗi sợ hãi thực sự.
Gary gọi điện đánh thức Arturo Ramirez, tay trợ lý gầy nhẳng vận đồ đen của
Rebecca.
“Tôi vừa
mới về nhà,” Arturo chệnh choạng than phiền.
Gary giải
thích tình huống. Arturo, ngủ quên mặc nguyên quần áo, chẳng buồn thay đồ. Anh
ta lao ra khỏi cửa. Gary hứa sẽ gặp anh ta tại studio. Anh vội đi xuống khu
trung tâm A.
Arturo
đến trước và thấy cửa studio mở hé. Anh ta đẩy mở rộng ra.
“Rebecca?”
Không có
tiếng trả lời. Artuno gọi tên cô một lần nữa. Vẫn không có tiếng trả lời. Anh
ta bước vào và lướt mặt nhìn khắp studio. Cô không có ở đó. Anh ta mở cửa phòng
tối. Mùi axit tráng phim gắt như mọi khi vẫn còn nồng nặc, nhưng có thứ gì khác
nữa, một thứ mờ mờ và cảm thấy được rõ ràng, vẫn có khả năng khiến anh ta dựng
tóc gáy.
Thứ gì đó
mang tính người rõ rệt.
Gary rẽ
qua góc đường vừa kịp nghe tiếng hét.
21
Buổi sáng, tôi chộp vội một miếng bánh mì và đi về hướng Tây trên Đường 80
trong vòng bốn mươi lăm phút. Đường 80 ở New Jersey là một tuyến đường khá nhàm
chán. Một khi bạn qua khỏi Saddle Brook hay cỡ đó, nhà cửa biến sạch và bạn
được đối mặt với những hàng cây giống hệt nhau cả hai bên đường. Chỉ những biển
báo hiệu giữa các tiểu bang là phá vỡ cái trạng thái đơn điệu nhàm chán đó.
Khi rẽ
khỏi Đường 163 ở một thị trấn tên là Gardensville, tôi cho xe chạy chậm lại và
nhìn ra đám cỏ cao. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch. Tôi không bao giờ đến đây
- tôi cố tình tránh cái đoạn đường nối giữa hai tiểu bang này trong tám năm qua
- nhưng tại đây, chưa đầy một trăm mét cách chỗ xe tôi bây giờ, họ đã tìm thấy
thi thể Elizabeth.
Tôi xem
hướng đi mà tôi đã in ra tối qua. Văn phòng điều tra những vụ chết bất thường
Hạt Sussex có trên trang Mapquest.com, vì vậy từ cách đó trăm mét tôi đã biết
đường đến chỗ này thế nào. Văn phòng là một dạng nhà kho có rèm che kín, không
bảng hiệu hay chữ viết trên cửa sổ, một khối chữ nhật bằng gạch trơn không
khung bảo vệ, nhưng mà này, bạn có cần những thứ như thế ở một nhà chứa xác
không? Tôi đến trước tám rưỡi và dịch xe ra sau một chút. Văn phòng vẫn khóa im
ỉm. Càng hay.
Một chiếc
Seville Cadillac vàng ánh xanh chạy vào ô ghi Timothy Harper, Nhân viên giám
định pháp y Hạt. Người đàn ông trong xe dập điếu thuốc lá trước khi bước ra -
việc có bao nhiêu nhân viên giám định pháp y hút thuốc chưa bao giờ thôi đeo
đẳng tôi. Harper cao bằng tôi, chưa tới 1,8 mét, da màu ô liu và tóc mỏng, màu
xám. Ông ta thấy tôi đứng ở cửa và nghiêm mặt lại. Không ai muốn nghe tin tốt
lành mà mới đầu buổi sáng đã đến nhà xác.
Ông ta
chậm rãi tiến lại phía tôi. “Tôi giúp gì được ông?” ông ta nói.
“Bác sĩ
Harper?”
“Phải,
tôi đây.”
“Tôi là
bác sĩ David Beck.” Bác sĩ. Vậy chúng tôi là đồng nghiệp. “Tôi xin ông một chút
thời gian.”
Ông không
phản ứng gì khi nghe tên tôi. Ông lấy ra một chìa khóa và mở cửa. “Sao chúng ta
không vào văn phòng của tôi nhỉ?”
“Cám ơn
ông.”
Tôi theo
ông đi dọc hành lang, Harper bật các công tắc đèn. Những bóng đèn huỳnh quanh
trên trần nhà miễn cưỡng sáng lên từng cái một. Sàn nhà sột soạt lớp lót sàn.
Nơi này trông giống một trung tâm y tế vô danh hơn là nhà của cái chết, nhưng
có lẽ đó mới là mục đích của nó. Tiếng bước chân của chúng tôi dội lại, hòa lẫn
với tiếng vo vo của bóng đèn như thể đang theo nhịp. Harper nhặt một chồng thư
lên và mau chóng phân loại chúng trong lúc chúng tôi bước đi.
Phòng
riêng của Harper cũng không có khung chắn bảo vệ. Phòng được trang bị loại bàn kim
loại bạn có thể thấy giáo viên dùng tại trường tiểu học. Ghế gỗ được đánh
véc-ni hơi quá tay, thiết kế đơn giản. Một vài văn bằng treo trên một bức
tường. Ông cũng học y ở Columbia, tôi nhìn thấy, tuy nhiên tốt nghiệp trước tôi
khoảng hai mươi năm. Không có ảnh người thân trong gia đình, không cúp đánh
golf, không bằng khen trong khung kính, không gì riêng tư. Khách đến văn phòng
này không phải để trò chuyện thân mật. Thứ cuối cùng mà họ cần thấy là ảnh
thằng cháu nội đang mỉm cười của ai đó.
Harper
gập tay lại và đặt trên bàn. “Tôi có thể làm gì cho ông, bác sĩ Beck?”
“Tám năm
trước,” tôi bắt đầu, “vợ tôi được đưa đến đây. Cô ấy là nạn nhân của một tên
giết người hàng loạt tên là KillRoy.”
Tôi không
giỏi mấy ở khoản đọc nét mặt. Giao tiếp bằng mắt chưa bao giờ là sở trường của
tôi. Với tôi, ngôn ngữ cơ thể có rất ít ý nghĩa. Nhưng khi nhìn Harper, tôi
không thể ngăn mình tự hỏi điều gì khiến một nhân viên giám định pháp y lão
luyện, một người luôn ngụ trong thế giới của cái chết, tái nhợt đi như vậy.
“Tôi
nhớ,” ông khẽ nói.
“Ông đã
khám nghiệm tử thi?”
“Phải.
Một phần.”
“Một
phần?”
“Phải.
Cảnh sát liên bang cũng có tham gia. Chúng tôi hợp tác trong vụ đó, tuy nhiên
FBI không có nhân viên điều tra những cái chết bất thường, vì vậy chúng tôi
tiến hành trước.”
“Gượm
đã,” tôi nói. “Nói cho tôi ông nhìn thấy gì khi họ đưa thi thể vào đây lần đầu
tiên.”
Harper
nhấp nhổm trên ghế. “Tôi có thể hỏi vì sao ông muốn biết điều đó không?”
“Tôi là
một người chồng đang đau đớn.”
“Chuyện
đó đã qua tám năm rồi.”
“Tất thảy
chúng ta đều đau đớn theo cách riêng của mình, bác sĩ ạ.”
“Phải,
tôi biết chắc chắn là vậy, nhưng...”
“Nhưng
sao?”
“Nhưng
tôi muốn biết ông muốn gì ở đây.”
Tôi quyết
định vào đề trực tiếp. “Ông chụp ảnh tất cả tử thi được đưa vào đây, phải
không?”
Ông lưỡng
lự. Tôi cảm nhận thấy. Ông thấy tôi nhận ra và hắng giọng. “Phải, hiện tại,
chúng tôi dùng kỹ thuật số. Nói cách khác, một máy ảnh số. Nó cho phép chúng
tôi lưu giữ ảnh và nhiều hình khác nhau trên máy tính. Chúng tôi thấy nó hữu
ích cho cả việc chuẩn đoán và lên danh mục thống kê.”
Tôi gật
đầu, không quan tâm. Ông đang huyên thuyên. Khi ông dừng, tôi nói, “Ông có chụp
ảnh vợ tôi khi khám nghiệm tử thi không?”
“Đương
nhiên là có. Nhưng... ông nói cách đây bao lâu rồi?”
“Tám
năm.”
“Khi ấy
chúng tôi dùng máy ảnh chụp lấy ngay.”
“Và những
tấm ảnh lấy ngay đó giờ phút này đang ở đâu, bác sĩ?”
“Trong hồ
sơ.”
Tôi nhìn
cái tủ cao đựng hồ sơ đứng trong góc phòng như một anh lính gác.
“Không
phải ở đó,” ông nhanh miệng nói thêm. “Vụ vợ ông đã đóng. Kẻ giết cô ấy đã bị
bắt và kết án. Hơn nữa cách đây hơn năm năm.”
“Vậy nó ở
đâu?”
“Phòng
lưu trữ. Ở Layton.”
“Tôi muốn
xem những tấm ảnh đó, nếu có thể.”
Ông viết
vội thứ gì đó và cúi đầu xuống mảnh giấy. “Tôi sẽ xem kỹ.”
“Bác sĩ?”
Ông ngước
lên.
“Ông nói
ông nhớ vợ tôi.”
“Phải, ý
tôi là, một chút. Chúng tôi không có nhiều vụ án mạng ở đây, đặc biệt là những
vụ nghiêm trọng quá mức.”
“Ông có
nhớ tình trạng cơ thể cô ấy?”
“Không
nhớ lắm. Ý tôi là, không nhớ chi tiết hay bất cứ thứ gì.”
“Ông có
nhớ ai đã nhận dạng cô ấy không?”
“Không
phải ông ư?”
“Không.”
Harper
gãi gãi thái dương. “Cha cô ấy, phải không?”
“Ông có
nhớ ông ấy mất bao lâu để nhận dạng được không?”
“Bao lâu
ư?”
“Ngay lập
tức à? Hay mất một vài phút? Năm phút, mười phút?”
“Tôi thực
sự không nói được.”
“Ông
không nhớ là ngay lập tức hay không à?”
“Tôi xin
lỗi, tôi không nhớ.”
“Ông vừa
nói đây là một vụ lớn.”
“Phải.”
“Có lẽ vụ
lớn nhất của ông?”
“Chúng
tôi có vụ giết người đưa bánh pizza tàn bạo một vài năm trước,” ông ta nói.
“Nhưng, đúng vậy, tôi nói đây là một trong những vụ lớn nhất.”
“Vậy mà
ông không nhớ cha cô ấy có gặp khó khăn gì khi nhận dạng thi thể không ư?”
Ông không
thích thế. “Bác sĩ Beck, với tất cả sự kính trọng, tôi không hiểu ông đang muốn
gì.”
“Tôi là
một người chồng đang đau đớn. Tôi đang hỏi một vài câu hỏi đơn giản.”
“Giọng
điệu của ông,” ông ta nói. “Nó có vẻ hung hăng.”
“Có một
lý do nào cho chuyện đó không?”
“Nghĩa là
thế quái nào?”
“Làm thế
nào ông biết cô ấy là nạn nhân của KillRoy?”
“Tôi
không biết.”
“Vậy làm
thế nào mà FBI lại có liên đới?”
“Có những
dấu vết nhận dạng...”
“Ý ông là
cô ấy bị đánh dấu bằng chữ cái K?”
“Phải.”
Hiện giờ
tôi đang trên đà lăn, và thấy nó đúng một cách kỳ quặc. “Vậy là cảnh sát đưa cô
ấy vào đây. Ông bắt đầu khám nghiệm cô ấy. Ông phát hiện thấy chữ cái K...”
“Không,
họ đến đây ngay lập tức. Ý tôi là cảnh sát liên bang ấy.”
“Trước
khi thi thể được đưa vào đây?”
Ông ngước
lên, hoặc đang nhớ lại hoặc đang phịa ra. “Hoặc sau đó ngay lập tức. Tôi không
nhớ.”
“Làm thế
nào họ biết về thi thể nhanh đến vậy?”
“Tôi
không biết.”
“Ông
không có chút ý tưởng nào ư?”
Harper
khoanh tay trước ngực. “Tôi phỏng đoán rằng một trong những nhân viên tại hiện
trường vụ án đã phát hiện thấy chữ đóng dấu và gọi FBI. Nhưng đó chỉ là một ước
đoán hơi có chút cơ sở thôi.”
Máy nhắn
tin trên hông tôi lại rung lên. Tôi mở ra xem. Phòng khám có một ca cấp cứu.
“Tôi rất
lấy làm tiếc cho mất mát của ông,” ông nói bằng một giọng đầy kinh nghiệm. “Tôi
hiểu nỗi đau ông phải trải qua, nhưng hôm nay lịch làm việc của tôi rất bận. Có
lẽ ông có thể hẹn vào ngày khác...”
“Ông phải
mất bao lâu để lấy được hồ sơ của vợ tôi?” tôi hỏi.
“Tôi thậm
chí không chắc mình có thể làm vậy được. Ý tôi là, tôi sẽ phải kiểm tra...”
“Quyền tự
do được biết thông tin.”
“Xin thứ
lỗi, ông nói gì cơ?”
“Tôi đã
tra cứu về nó sáng nay. Vụ vợ tôi hiện giờ đã đúng. Tôi có quyền xem hồ sơ của
cô ấy.”
Harper
phải biết điều đó - tôi không phải là người đầu tiên yêu cầu xem hồ sơ khám
nghiệm tử thi - và ông ta bắt đầu gật đầu nhiệt tình hơn. “Tuy nhiên, vẫn có
một vài việc ông phải thực hiện theo đúng quy tắc, điền một số giấy tờ.”
“Ông đang
muốn trì hoãn?” tôi nói.
“Thứ lỗi
cho tôi, sao kia?”
“Vợ tôi
là nạn nhân của một tội ác khủng khiếp.”
“Tôi hiểu
điều đó.”
“Và tôi
có quyền xem hồ sơ của vợ tôi. Nếu ông dính mũi vào chuyện này, tôi sẽ tự hỏi
tại sao. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với báo chí về vợ tôi hay kẻ giết cô ấy.
Bây giờ tôi sẽ rất vui mừng làm việc này. Và tất cả chúng tôi sẽ tự hỏi tại sao
một nhân viên giám định pháp y địa phương lại làm khó tôi quá mức với một yêu
cầu đơn giản đến như vây.”
“Nghe như
một lời đe dọa, bác sĩ Beck.”
Tôi đứng
dậy. “Tôi sẽ quay lại đây sáng mai,” tôi nói. “Xin vui lòng chuẩn bị sẵn hồ sơ
của vợ tôi.”
Tôi đang
hành động. Cảm giác thích thú khủng khiếp.
22
Thanh tra Roland Dimonte và Kevin Krinsky của bộ phận phụ trách những vụ án
mạng của Sở cảnh sát thành phố New York đến hiện trường đầu tiên, thậm chí
trước cả cảnh sát mặc đồng phục. Dimonte, một người đàn ông tóc dầu đam mê bốt
da rắn gớm guốc và tăm xỉa răng bị nhai nát, tiến lên trước. Anh ta hét lên ra
lệnh. Hiện trường tội ác ngay lập tức được khoanh lại. Một vài phút sau, các kỹ
thuật viên phòng lab từ Đơn vị Hiện trường Tội ác đến và tản ra làm việc.
“Cách ly
nhân chứng,” Dimonte nói.
Chỉ có
hai người: một ông chồng và một kẻ lập dị bí ẩn vận đồ đen. Dimonte nhận thấy
người chồng có vẻ quẫn trí, mặc dù có thể là giả vờ. Nhưng cái gì quan trọng
thì làm trước.
Dimonte,
vẫn nhai tăm, dẫn kẻ lập dị bí ẩn - tên hắn, chẳng lấy gì làm lạ, Arturo - sang
một bên. Tên nhóc xanh mét. Thông thường, Dimonte sẽ đoán là ma túy, nhưng hắn
đã nôn ra mật xanh mật vàng khi tìm thấy thi thể.
“Cậu ổn
chứ?” Dimonte hỏi. Như thể anh ta quan tâm.
Arturo
gật đầu.
Dimonte
hỏi nó có gì bất thường xảy ra liên quan đến nạn nhân gần đây không. Có, Arturo
trả lời. Việc gì? Hôm qua, Rebecca có nhận một cú điện thoại khiến cô bị xáo
trộn. Ai gọi? Arturo không rõ, nhưng một giờ sau, có thể chưa đến, Arturo không
chắc - một người đàn ông ghé đến gặp Rebecca. Khi người đó đi rồi, Rebecca
khủng hoảng tột độ.
“Cậu có
nhớ tên người đàn ông đó không?”
“Beck,”
Arturo nói. “Cô ấy gọi anh ta là Beck.”
Shauna bỏ
tấm ga trải giường của Mark vào máy sấy. Linda đến sau cô.
“Nó lại
đái dầm,” Linda nói.
“Chúa ơi,
em thật am tường.”
“Đừng xấu
tính thế.” Linda bước đi. Shauna mở miệng xin lỗi, nhưng không nói được gì. Khi
cô chuyển đi lần đầu tiên - lần duy nhất - Mark đã phản ứng
rất tồi tệ. Bắt đầu đái dầm. Khi cô và Linda tái hợp, việc đái dầm chấm dứt.
Cho đến bây giờ.
“Nó biết
chuyện gì đang xảy ra,” Linda nói. “Nó có thể cảm nhận thấy sự căng thẳng.”
“Thế em
muốn tớ làm thế nào, hả Linda?”
“Bất cứ
điều gì cần phải làm.”
“Tớ sẽ
không chuyển đi nữa đâu. Tớ hứa.”
“Rõ ràng
như thế chưa đủ.”
Shauna
ném một miếng làm mềm vải vào máy sấy. Nỗi mệt mỏi hằn lên khuôn mặt cô. Cô
không cần cái này. Cô là một người mẫu kiếm bộn tiền. Cô không thể đến chỗ làm
mà dưới mắt sưng húp thâm quầng hay tóc không óng mượt được. Cô không cần cái
thứ phải gió này.
Cô chán
ngấy tất cả rồi. Chán việc nội trợ không hợp với cô chút nào. Chán sức ép do
những tay cải cách xã hội khốn nạn gây ra. Quên đi sự cố chấp, điều đó thì dễ.
Nhưng sức ép lên một cặp đồng tính nữ với một đứa trẻ - do những kẻ ủng hộ được
cho là có thiện chí đặt ra - còn quá mức ngạt thở. Nếu mối quan hệ này tan vỡ,
nó sẽ là sự thất bại cho toàn bộ chủ nghĩa đồng tính hay thứ gì đó chết tiệt
như vậy, như thể mấy cặp đôi không đồng tính chả bao giờ chia tay nhau ấy.
Shauna không phải là một chiến sĩ tham gia thập tự chinh. Cô biết điều đó. Ích
kỷ hay không, hạnh phúc của cô sẽ không bị hy sinh trên bệ thờ của “điều thiện
vĩ đại hơn”.
Cô tự hỏi
không biết Linda có cảm thấy thế không.
“Em yêu
cậu,” Linda nói.
“Tôi cũng
yêu em.”
Họ nhìn
nhau. Mark lại đang đái dầm. Shauna không thể hy sinh bản thân vì điều thiện vĩ
đại hơn. Nhưng cô sẽ hi sinh vì Mark.
“Vậy mình
làm gì đây?” Linda hỏi.
“Mình sẽ
giải quyết được.”
“Cậu nghĩ
mình có thể ư?”
“Em có
yêu tớ không?”
“Cậu biết
em có mà,” Linda nói.
“Em có
vẫn nghĩ tớ là sinh vật tuyệt vời, thú vị nhất trên hành tinh xanh của Chúa
không?”
“Ồ, vẫn
ạ,” Linda nói.
“Tớ cũng
thế.” Shauna mỉm cười với cô. “Tớ là cái gai ở mông bị chứng ái kỷ.”
“Ừ, đúng
thế.”
“Nhưng tớ
là cái gai ở mông bị chứng ái kỷ của em.”
“Quá
chuẩn.”
Shauna
dịch lại gần hơn. “Tớ không dành cho một cuộc đời với những mối quan hệ dễ
dàng. Tớ hay thay đổi.”
“Cậu gợi
cảm chết đi được khi thay đổi,” Linda nói.
“Và ngay
cả khi tớ không thế.”
“Ngậm
miệng lại và hôn em đi.”
Chuông
cửa ở dưới kêu. Linda nhìn Shauna. Shauna nhún vai. Linda nhấn nút trên máy
điện đàm nội bộ và nói, “Vâng?”
“Đó có
phải là Linda Beck?”
“Ai đấy?”
“Tôi là
đặc vụ Kimberly Green của Cơ quan điều tra Liên bang. Tôi đi cùng đồng sự, đặc
vụ Rick Peck. Chúng tôi xin phép lên trên và hỏi cô vài câu.”
Shauna
vươn người tới trước khi Linda kịp trả lời. “Luật sư của chúng tôi tên là
Hester Crimstein,” cô hét vào máy điện đàm nội bộ. “Ông có thể gọi cho bà ấy.”
“Cô không
bị tình nghi phạm tội gì cả. Chúng tôi chỉ muốn hỏi cô vài câu hỏi...”
“Hester
Crimstein,” Shauna ngắt lời. “Tôi chắc là ông có số của bà ấy. Một ngày thực sự
tốt lành nhé.”
Shauna nhả
nút nhấn ra. Linda nhìn cô. “Cái quái gì thế?”
“Em trai
em gặp rắc rối.”
“Sao cơ?”
“Ngồi
xuống nào,” Shauna nói. “Chúng mình cần nói chuyện.”
Raisa
Markov, nữ y tá chăm sóc ông nội của bác sĩ Beck, mở cửa sau tiếng gõ mạnh. Đặc
vụ Carlson và Stone, giờ đây liên kết làm việc với thanh tra Dimonte và Krinsky
của Sở cảnh sát thành phố New York, đưa cho cô ta tờ giấy.
“Lệnh của
liên bang,” Carlson tuyên bố.
Raisa
bước qua một bên không phản ứng. Cô đã lớn lên ở Xô viết. Sự hung hăng của cảnh
sát không khiến cô sợ hãi.
Tám tay
nhân viên của Carlson ùa vào nơi ở của Beck và tản ra.
“Tôi muốn
tất cả mọi thứ được ghi lại,” Carlson hét lớn. “Không sai sót.”
Họ nhanh
tay hy vọng đi trước Hester Crimstein nửa bước. Carlson biết rằng Crimstein,
giống như nhiều luật sư biện hộ đỏm dáng trong thời đại hậu OJ Simpson này, như
một bên nguyên liều mạng, sẽ bám lấy những luận chứng về sự kém cỏi và/hoặc
hành vi sai trái của cảnh sát. Mọi bước đi/di chuyển/hơi thở sẽ được ghi chép
lại và được đưa ra làm chứng.
Khi
Carlson và Stone đầu tiên xông vào studio của Rebecca Schayes, Dimonte không
vui vẻ gì mấy khi nhìn thấy họ. Đã có trò vật tay thường lệ giữa những đấng nam
nhi hàng xóm cảnh-sát-địa-phương-đối-đầu-với-FBI. Rất ít thứ hợp nhất được lực
lượng FBI và cảnh sát địa phương, đặc biệt trong một thành phố lớn như New
York.
Nhưng
Hester Crimstein là một trong những thứ đó.
Cả hai
bên biết rằng Crimstein là một mụ che đậy lão luyện và chó săn trong công
chúng. Cả thế giới sẽ theo dõi. Không ai muốn bị loại ra vì kém cỏi. Đó chính
là lực đẩy ở đây. Vì vậy họ thành lập một liên minh bằng tất cả sự tin tưởng
của một cái bắt tay Palestine-Israel, bởi vì cuối cùng, cả hai bên biết họ cần
chụm đầu lại và neo chặt được bằng chứng thật nhanh - trước khi Crimstein làm
đục nước.
FBI đã có
được lệnh khám nhà. Với họ đây chỉ là chuyện đơn giản, đi qua Tòa nhà Liên bang
tới tòa án liên bang ở quận phía Nam. Nếu Dimonte và Sở cảnh sát thành phố New
York muốn có một cái lệnh, họ phải đi đến trụ sở tòa án của Hạt ở New Jersey -
quá mất thời gian trong khi Hester Crimstein ẩn náu ngay dưới gót chân họ.
“Đặc vụ
Carlson!”
Tiếng hét
gọi cất lên từ góc phố. Carlson chạy hết tốc lực ra ngoài, Stone lạch bạch theo
sau. Dimonte và Krinsky chạy theo. Tại chỗ gờ đường, một đặc vụ liên bang trẻ
đứng cạnh một thùng đựng rác đang mở ra.
“Cái gì
thế?” Carlson hỏi.
“Có thể
không phải thứ gì, thưa ngài, nhưng...” Tay đặc vụ liên bang trẻ chỉ xuống một
thứ trông giống như một đôi găng tay bằng nhựa bị vứt bỏ vội vã.
“Gói
chúng lại,” Carlson nói. “Tôi muốn ngay lập tức kiểm tra xem có vân tay dùng
súng hay không.” Carlson quay sang Dimonte. Thời điểm để hợp tác hơn nữa - lúc
này, bằng cách cạnh tranh. “Sẽ mất bao lâu để tiếng hành xong lại phòng lab chỗ
anh?”
“Một
ngày,” Dimonte nói. Bây giờ anh ta ngậm một cây tăm mới trong miệng và lại bắt
đầu nhá nó khá nhiệt tình. “Có thể hai.”
“Không
được. Chúng tôi sẽ phải đưa mẫu này ngay xuống phòng lab của chúng tôi tại
Quantico.”
“Anh sẽ
làm dở hơi như thế,” Dimonte cắm cảu bác lại.
“Chúng ta
đã đồng ý theo cái gì nhanh nhất.”
“Ở lại
đây là nhanh nhất,” Dimonte nói. “Tôi sẽ chịu trách nhiệm.”
Carlson
gật đầu. Như anh ta đã mong đợi. Nếu bạn muốn cảnh sát địa phương ưu tiên hàng
đầu một vụ, hãy đe dọa tước nó đi khỏi tay họ. Cạnh tranh. Mọi thứ đều tuyệt
vời.
Nửa giờ
sau, họ nghe thấy một tiếng hét khác, lần này đến từ gara. Một lần nữa họ chạy
hết tốc lực theo hướng đó.
Stone
huýt sáo khe khẽ. Dimonte nhìn chằm chằm. Carlson cúi xuống để nhìn kỹ hơn.
Ở đó,
dưới những tờ báo trong một sọt rác, có một khẩu súng ngắn 9 ly. Hít qua một
phát, họ biết khẩu súng vừa mới được dùng.
Stone
quay sang Carlson. Anh ta chắc chắn để nụ cười của mình không bị máy quay bắt
được.
“Bắt được
hắn rồi,” Stone khẽ khàng nói.
Carlson
không nói gì. Anh ta nhìn kỹ thuật viên gói khẩu súng lại. Rồi, khi đã nghĩ
xong xuôi, anh ta bắt đầu cau mày.