Sự Hiền Hòa Của Sói - Phần 35
Nỗi chán chường vì suy tư cật lực
Nhiều năm về trước, trong khi truy tìm Amy
Seton và Eve Seton, Sturrock ngồi trong một quán bar rất giống nơi đây, uống
cocktail whisky với một người đàn ông trẻ mà ông vừa được giới thiệu. Trước đây
ông đã nghe nói đến Kahon’wes, và cảm thấy tự mãn khi người đàn ông trẻ tha
thiết muốn gặp mình. Kahon’wes là người Mohawk có vóc người cao, gây ấn tượng,
đang tạo tên tuổi trong ngành báo chí. Tuy hoạt bát và thông minh, ông bị vướng
víu giữa hai thế giới và dường như không biết rõ mình phải ở đâu. Điều này hiện
rõ qua trang phục của ông, vốn trong dịp này đúng là thời trang cho đàn ông trẻ
- áo choàng đuôi tôm, nón cao, giày ủng thắt nút, và đại loại như thế. Thậm chí
ông còn trông bảnh bao đúng mốt nữa. Nhưng trong những lần gặp gỡ kế tiếp, ông
mặc áo da hoẵng, hoặc pha trộn giữa hai kiểu. Ngữ âm của ông cũng thay đổi qua
lại giữa tiếng Anh lưu loát và có giáo dục - như trong lần gặp gỡ đầu tiên - và
cái chất “Da Đỏ”; ngữ âm chủ yếu tùy thuộc vào người ông đang đối diện,
Sturrock vui khi nói về ngành báo chí, nhưng ông hy vọng Kahon’wes cũng giúp
ích trong cuộc nghiên cứu của mình. Kahon’wes quen biết rộng vì ông luôn đi đây
đi đó, trò chuyện với nhiều người, nhưng lại bị các nhà chức trách cho là kẻ
nhiễu sự. Vì Sturrock cũng là kẻ nhiễu sự, nên hai người thân thiết với nhau.
Sturrock kể về việc mình đi tìm hai cô gái bị
mất tích, ông đã bỏ phần lớn thời giờ trong năm cho việc ấy, và đến lúc này thì
không còn hy vọng bao nhiêu. Cũng như nhiều người ở Canada Thượng, Kahon’wes đã
nghe qua vụ việc.
“À… hai cô con gái đã bị người Da Đỏ xấu xa
bắt cóc.”
“Hoặc bị chó sói ăn thịt, mà tôi bắt đầu tin
như vậy. Tuy nhiên, người cha vẫn muốn nỗ lực hết mình để tìm kiếm khắp nơi
trong cả Bắc Mỹ.”
Sturrock kể cho Kahon’wes nghe mình đã thăm
viếng các bộ tộc ở hai bên đường biên giới, đến gặp những người quen biết và
người có quyền lực vốn trước kia đã giúp đỡ ông. Nhưng ông không nhận được tin
tức gì có ích.
Kahon’wes im lặng nghe, rồi nói rằng ông sẽ
hỏi han những người mình quen biết: như Sturrock hẳn phải nhận ra, có những lúc
mà một câu trả lời (giống như ngữ âm và trang phục của ông) tùy thuộc vào người
tiếp chuyện ông.
Vài tháng sau, Sturrock nhận được tin tức của
ông nhà báo. Ông đang đi ngang qua Hồ Forest và được nghe Kahon’wes đang ở cách
ông chỉ ít dặm. Vào dịp này, Kahon’wes đang mặc theo kiểu Da Đỏ; cách ăn nói
cũng thay đổi. Ông đang nản chí vì các bài viết của mình không được đăng tải
trên báo chí của người da trắng. Sturrock nhận ra một phong thái bốc đồng mà
nếu không được khuyến khích đúng cách có thể trở thành hoang mang. Ông ngỏ ý
đọc giúp một số bài báo của Kahon’wes, nhưng bây giờ có vẻ như ông này không
quan tâm nhận sự giúp đỡ.
Trong dịp này, hai người nói đến một nền văn
hóa Da Đỏ cổ đại, còn lớn lao và tiến bộ hơn là nền văn hóa kế tục sau đó.
Kahon’wes say sưa mô tả nền văn hóa ấy, và cho dù nhất thời Sturrock không tin,
dần dà ông bị lừa dối bởi tầm nhìn của Kahon’wes. Sau đó ông chỉ gặp lại
Kahon’wes có một lần, vài tháng sau, ở Kingston, nơi họ không trao đổi với nhau
nhiều, và Sturrock có cảm tưởng là Kahon’wes uống rượu quá nhiều. Tuy nhiên,
trong cuộc gặp gỡ cuối cùng này ông nhận được tin tức. Kahon’wes đã trao đổi
với tù trưởng một bộ tộc Chippewa sống chung quanh Thác Burke’s, người cho biết
tin tức về một phụ nữ da trắng đang sống với người Da Đỏ. Chỉ có thế, nhưng
không tệ hại hơn là những tin tức Sturrock đã nhận được khi theo đuổi việc tìm
kiếm.
Vài tuần sau, Seton và Sturrock đi đến một
ngôi làng nhỏ, ở đây sau nhiều mặc cả họ được dẫn đến một trại Da Đỏ để gặp cô
gái. Đã sáu năm trôi qua từ khi hai cô gái mất tích, ba năm từ khi Bà Seton qua
đời vì một chứng bệnh bí ẩn, thường được cho là vì quá đau khổ. Sturrock luôn
cảm thấy tội nghiệp cho Charles Seton với nỗi buồn triền miên như là vết thương
kinh khủng dưới lớp mô sẹo mỏng nhất. Nhưng sự mong chờ lần này tệ hại, như thể
không gì tệ hại hơn nữa. Seton hầu như không cất lên tiếng nào từ khi lên đường
đến ngôi làng, mặt ông trắng như tờ giấy. Ông trông như người ốm yếu bệnh hoạn.
Trước đó, ông không rõ đó là đứa con gái nào: bây giờ Eve mười bảy tuổi, Amy
mười chín, nhưng không ai biết cô gái kia bao nhiêu tuổi. Không ai nói ra được
cái tên, hoặc đúng hơn, hiện giờ cô mang một tên Da Đỏ.
Sturrock cố gợi chuyện cho Seton mở miệng,
nhắc cho ông nhớ rằng nếu quả thực cô kia là con gái ông thì bây giờ sẽ thay
đổi nhiều.
Seton nhất quyết cho rằng mình sẽ nhận ra cô,
cho dù sự thể ra sao. Nhìn đăm đăm về phía trước, ông nói: “Cho đến khi chết
tôi vẫn không thể nào quên được những chi tiết nhỏ nhặt nhất trên gương mặt
chúng nó.”
Sturrock nhẹ nhàng nói: “Nhưng ông sẽ thấy
chúng thay đổi ra sao. Tôi đã từng thấy cha mẹ không nhận ra con mình, dù chỉ
sau một thời gian ngắn con họ sống với người Da Đỏ. Đó không chỉ là vấn đề
gương mặt... mà là mọi khía cạnh. Cách chúng ăn nói, cách chúng đi đứng, cách
hành xử.”
Seton nói: “Dù sao vẫn thế, tôi sẽ nhận ra
chúng.”
Họ xuống ngựa bên ngoài các căn lều hình nón
của người Da Đỏ, để cho các con vật gặm cỏ. Người dẫn đường đi vào căn lều lớn
nhất, rồi một ông già tóc hoa râm bước ra, lắng nghe khi người dẫn đường nói
với tiếng Chippewa.
Người dẫn đường thông dịch câu trả lời: “Ông
ấy nói cô gái tự nguyện đến với họ. Bây giờ cô là người của họ. Ông ấy muốn
biết có phải ông đến để mang cô gái đi không?”
Sturrock chen vào trước khi Seton có thể cất
tiếng: “Chúng tôi sẽ không thúc ép cô làm gì mà cô không muốn, nhưng nếu cô là
con gái ông này, thì ông muốn nói chuyện với cô. Ông đã tìm kiếm trong nhiều
năm.”
Ông già gật đầu, rồi dẫn họ đến một căn lều
khác. Sau một lúc, ông ra dấu cho Sturrock và Seton theo mình đi vào.
Thoạt đầu, khi đã ngồi xuống họ không thể nào
phân biệt được gì cả. Không gian bên trong kín mít, tối đen và đầy khói. Chỉ
dần dần họ mới nhận ra có hai bóng người ngồi đối diện: một đàn ông và một phụ
nữ, đều là người Chippewa. Charles Seton thốt lên một tiếng nghe như mèo kêu,
trân trối nhìn người phụ nữ trông như một cô gái trẻ.
Cô có làn da sậm, đôi mắt đen, mái tóc đen dài
trông óng ánh. Cô mặc một chiếc áo ngoài chùng bằng da thú, quấn thêm một tấm
chăn có sọc cho dù thời tiết ấm áp, và cô nhìn xuống đất. Thoạt nhìn, Sturrock
chỉ nghĩ cô là người Chippewa. Ông đoán anh trai trẻ ngồi bên cô là chồng cô,
cho dù họ không được giới thiệu với nhau. Sau tiếng kêu thảng thốt ấy, Seton
không nói gì. Đó như thể ông bị nghẹn họng, miệng mở ra nhưng không thốt được
nên lời.
Sturrock bắt đầu: “Xin cảm ơn đã đồng ý gặp
chúng tôi.” Ông nghĩ trong đời mình chưa từng thấy điều gì tàn nhẫn như là nỗi
đau trên gương mặt Charles Seton lúc ấy. “Xin cô vui lòng nhìn lên, để ông
Seton nhìn rõ mặt cô, được không?”
Ông mỉm nụ cười có ý khuyến khích hai người
trẻ ngồi đối diện. Anh trai trẻ nhìn lại ông, không tỏ lộ cảm xúc, rồi vỗ lên
bàn tay cô gái. Cô ngẩng đầu, nhưng đôi mắt vẫn nhìn xuống. Tiếng thở của Seton
nghe rộn ràng trong không gian eo hẹp. Sturrock hết nhìn Seton đến cô gái, chờ
người này nhận ra người kia. Có lẽ chỉ là vô vọng. Một phút chầm chậm trôi qua,
rồi thêm một phút.
Cuối cùng, Seton hít một hơi thở sâu: “Tôi
không biết cô ấy là ai. Nếu tôi nhìn đôi mắt… thì tôi có thể nhận ra có phải là
con gái tôi hay không...”
Sturrock kinh ngạc. Ông nhìn cô gái, vẫn giống
như một bức tượng tạc, vẫn dùng tên Da Đỏ. Ông nhìn đôi mắt, mà trong ánh sáng
lờ mờ ông thấy có vẻ như màu nâu.
Seton hít một hơi thở đau đớn: “Eve.” Một giọt
lệ âm thầm chảy xuống má ông. Nhưng đó là một lời phát biểu. Sau sáu năm tìm
kiếm, ông đã tìm ra một trong hai cô con gái thất lạc của mình.
Cô gái nhìn ông một lúc, rồi đôi mắt lại nhìn
xuống. Đó có thể là cử chỉ gật đầu.
“Eve...”
Seton muốn nghiêng mình tới trước mà ôm lấy cô
trong vòng tay. Sturrock có thể nhận ra điều này, nhưng cô gái vẫn bất động
khiến cho Seton không dám có động thái gì. Ông chỉ gọi tên cô lần nữa, một hoặc
hai lần, rồi cố trấn tĩnh: “Cái gì... Cha không biết làm thế nào... Con khỏe
không?”
Đầu cô cử động lên xuống.
Bây giờ người đàn ông già lại cất tiếng, và
người thông dịch nói: “Đây là chồng cô ấy. Ông già là bác cô. Ông đã nuôi nấng
cô trong gia đình ông từ lúc họ tìm thấy cô.”
“Tìm thấy cô? Ở đâu? Lúc nào vậy? Cùng với Amy
phải không? Amy đâu? Con bé có ở đây không? Ông biết không?”
Người đàn ông già nói gì đấy mà Sturrock nhận
ra là tiếng chửi rủa.
Rồi Eve cất tiếng, lúc nào đôi mắt cũng nhìn
xuống một điểm trên sàn: “Đó là năm, sáu, bảy năm về trước. Tôi không nhớ.
Dường như là rất lâu rồi. Một thời gian khác. Sau khi đi dạo, chúng tôi lạc
đường. Chúng tôi cứ đi và đi. Rồi chúng tôi mệt mỏi nên nằm xuống ngủ. Khi tỉnh
dậy, tôi chỉ có một mình. Tôi không biết mình đang ở đâu, hai người khác đang ở
đâu. Tôi sợ hãi và nghĩ mình sẽ chết. Rồi Bác ở đó, dẫn tôi đi theo ông, rồi
ông cho tôi thức ăn và chỗ ở.”
“Còn Amy? Chuyện gì xảy ra với nó?”
Eve không nhìn qua ông: “Tôi không biết chuyện
gì xảy ra. Tôi nghĩ chị ấy đã bỏ tôi. Tôi nghĩ chị ấy giận tôi và về nhà một
mình.”
Seton lắc đầu: “Không. Không. Cha mẹ không
biết chuyện gì xảy ra với hai con. Cathy Sloan trở về, nhưng không có dấu vết
gì của con hoặc của Amy. Cha mẹ tìm kiếm và tìm kiếm. Từ ngày đó cha vẫn không
bao giờ ngưng tìm kiếm, con phải tin như vậy.”
Sturrock nói qua bầu không gian im lặng: “Đúng
vậy. Ngoại trừ khi ngủ, cha cô đã bỏ ra từng phút, và mọi thứ ông có, để tìm
kiếm cô và chị cô.”
Seton nuốt nước bọt - tiếng nghe vang vọng
trong căn lều nhỏ: “Cha phải cho con biết, cha lấy làm buồn rằng mẹ con đã qua
đời ba năm trước vào tháng Tư. Mẹ con không bao giờ phục hồi được sau khi hai
con mất tích. Bà ấy không chịu nổi.”
Cô gái nhìn lên, và Sturrock nghĩ mình đã thấy
dấu hiệu đầu tiên - và cuối cùng - cảm xúc trên khuôn mặt cô. “Ma-man đã chết.”
Cô thấu hiểu điều này, và nhìn qua chồng mình, nhưng Sturrock không thể đoán ra
như thế có nghĩa là gì. Tuy là chai đá khi nói ra, đó là điều không may - sự
hiện diện của Bà Seton, cho dù ở khoảng cách, hẳn sẽ tạo ra khác biệt cho những
gì diễn ra kế tiếp.
Seton lau một giọt lệ trên khuôn mặt. Có một
khoảnh khắc khi Sturrock nghĩ mình muốn tỏ lời, để giải thoát tình trạng căng
thẳng kinh khủng mà ông vẫn mang nặng, và rồi sẽ có cách đi tới. Ông đang tự
hỏi mình nên để sự việc diễn tiến trong bao lâu trước khi kết thúc cuộc gặp gỡ,
trước khi mọi người trở nên bức xúc. Và rồi, đã là quá muộn.
Giọng nói của Seton nghe gay gắt và quá lớn
tiếng trong căn lều kín mít: “Cha không màng sự việc ra sao, nhưng cha cần biết
chuyện gì đã xảy ra với Amy. Con phải biết! Con vui lòng nói cho cha nghe.”
“Con đã nói rồi, con không biết. Con không bao
giờ trông thấy chị con còn sống.”
Câu từ nghe có vẻ kỳ lạ, thậm chí đối với
Sturrock.
Giọng của Seton căng thẳng nhưng kiềm chế: “Ý
con nói... con thấy chị con đã chết?”
“Không! Con không bao giờ gặp lại chị ấy còn
sống. Ý con nói vậy.”
Bây giờ, cô gái ủ rũ, rơi vào vị thế chống chế.
Sturrock ước gì Seton bỏ ra ngoài vấn đề Amy; chẳng ích gì mà cứ truy vấn cô
mãi về đứa con gái kia.
Đôi mắt Seton nhìn xa xăm, long lanh: “Con nên
trở về với cha. Con phải trở về. Chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm.”
Sturrock nghiêng người qua Seton, đặt bàn tay
lên cánh tay ông để làm ông dịu đi. Ông thấy Seton chẳng nhận biết.
Sturrock nói với mọi người: “Xin vui lòng, tôi
nghĩ chúng ta cần... Tôi xin lỗi. Đó là do đầu óc căng thẳng. Quý vị không thể tưởng
tượng ra trong mấy năm gần đây ông ấy đã khổ sở đến thế nào. Ông ấy không nhận
thức được mình nói gì...”
“Trời đất! Ông à, dĩ nhiên là tôi biết mình
nói gì!” Seton giơ bàn tay ra trong một cử chỉ mạnh bạo: “Con bé phải trở về.
Nó là con gái tôi. Không có cách nào khác...”
Rồi ông đưa tay về phía cô trên ngọn lửa, và
cô né lùi ra sau. Với cử động này, cô cho thấy điều mà tấm chăn có sọc cho đến
giờ vẫn che giấu: cô mang thai đã nhiều tháng.
Anh trai trẻ đứng dậy, chặn ngang giữa Seton
và cô vợ: “Các ông phải về đi.” Anh nói tiếng Anh giỏi, nhưng rồi nói tiếng bản
địa với người thông dịch.
Seton đang vừa thở gấp gáp vừa thổn thức, cảm
thấy sốc, nhưng cương quyết: “Eve! Không cần biết. Cha tha thứ cho con! Chỉ cần
về với cha. Hãy trở về với cha! Con yêu quý nhất! Con phải...”
Sturrock và người thông dịch lôi kéo Seton ra
khỏi căn lều và đi đến chỗ các con ngựa. Họ cố đưa ông ngồi lên yên. Ký ức của
Sturrock đã phai mờ về vụ việc, nhưng ông nhớ họ đã thuyết phục được Seton quay
về. Ông này không ngừng gọi đến cô.
Một năm sau, Seton qua đời vì một cơn đột quỵ,
hưởng thọ năm mươi hai tuổi. Trước đó, ông không bao giờ gặp lại Eve, và dù tìm
kiếm thêm họ vẫn không có manh mối nào về Amy. Có nhiều lúc Sturrock nghĩ cô
này chưa từng hiện hữu trên đời. Ông cảm thấy xấu hổ về vai trò của mình trong
vụ việc: ông đã muốn dừng cuộc tìm kiếm, bởi vì không thể đáp ứng với nỗi ám
ảnh của Seton; cuộc gặp gỡ với Eve đã cho ông thấy điều đó. Tuy thế, ông vẫn
không đành lòng dứt ra: Seton đã quá đau khổ. Thế là Sturrock bất đắc dĩ phải
tiếp tục tìm kiếm, mà không hữu ích và cũng không giúp nguôi ngoai được. Sau
đó, ông nghĩ mình có người khác để làm thay cho ông. Nhưng không hiểu sao buổi
chiều ở Thác Burke’s đã gắn kết hai người đàn ông trong mối liên minh thầm
lặng, bởi lẽ điều lạ lùng nhất là như thế này: Seton không thừa nhận mình đã
gặp Eve; ông cho biết đó là thông tin sai lạc, đó là một cô gái khác, ông
thuyết phục Sturrock cũng giữ kín vụ việc, và Sturrock bất đắc dĩ phải nghe
theo. Chỉ có Andrew Knox được biết về bí mật này, và đó là do tình cờ.
Một, hai lần Seton nói đến việc quay lại Thác
Burke’s để cố thuyết phục Eve trở về, nhưng có vẻ ông không quyết tâm lắm.
Sturrock nghi ông sẽ không chịu đựng được. Một tuần sau, Sturrock quay lại để
nói chuyện với cô một mình mà không báo cho Seton biết, nhưng không thấy họ ở
đâu cả. Ông nghĩ nếu có gặp họ lần nữa thì cũng chẳng ích gì.
***
Mọi người bị thu hút theo đường đi về hướng
bắc dọc theo con sông. Có lời đồn đại rằng bây giờ có thêm nhiều người đang
chuẩn bị lên đường. Người tìm kiếm này tiếp nối người tìm kiếm kia. Dĩ nhiên là
cô không ở trong số này. Nhưng cô cũng cảm thấy bị thu hút - chính vì thế mà cô
đang ở đây. Một cơn gió sắc lẻm cắt vào mặt Maria khi cô đi theo con đường mòn
dọc bờ sông. Cây cối thưa thớt; lá rụng trên đường biến thành sình lầy, lớp
tuyết dơ bẩn. Cô nhìn thấy khu đất lõm xuống của Ghềnh Đầu ngựa phía trước,
phía dưới dòng nước chảy cuộn. Vào mùa hè, cô và Susannah thường đến đây bơi
lội, nhưng vài năm trước việc này đã chấm dứt. Maria không còn bơi lội nữa kể
từ khi cô nhìn thấy nó trong nước.
Cô không phải ở trong số người tìm ra nó - đó
là một nhóm những anh trai trẻ đến câu cá, nhưng tiếng la thét của họ khiến cho
Maria và anh bạn thân nhất của cô lúc ấy là David Bell phải chú ý. David là một
học sinh ở trường đã đặc biệt chú ý đến cô; hai người không phải là đôi tình
nhân, nhưng là hai người lạc lõng chơi thân với nhau trong thái độ chống đối cả
thế gian còn lại. Họ đi thơ thẩn trong rừng, hút thuốc và bàn luận về chính
trị, sách báo và những nhược điểm của giới đồng lứa. Maria không thích hút
thuốc lắm nhưng chỉ muốn làm việc bị cấm đoán, nên cô phải cố làm.
Khi nghe tiếng kêu khẩn cấp, hai người chạy
lên theo bờ sông, và thấy các anh trai trẻ đang nhìn xuống dòng nước. Bọn họ
đang cười cợt, trái ngược với tiếng kêu đánh động lúc đầu. Một anh quay sang
nói với David: “Tới xem này! Bạn chưa từng thấy cái gì như vậy!”
Hai người bước đến bờ sông, nụ cười đã nở trên
khuôn mặt háo hức, và rồi họ thấy hiện diện trong dòng nước là cái gì.
Maria lấy hai bàn tay che mặt trong cơn sốc.
Dòng sông đang chơi khăm họ. Từ làn nước sâu
màu nâu, hai bàn tay nhô lên cử động lượn lờ, da trắng nhạt và hơi trương phù.
Rồi cô nhìn ra cái đầu phía dưới, lúc quay mặt về phía họ, lúc quay mặt đi. Ký
ức cô vẫn còn nhớ rõ gương mặt lúc bấy giờ, nhưng cô không thể diễn tả được:
đôi mắt đang nhắm hay mở, miệng như thế nào cô cũng không rõ. Có một vẻ khủng
khiếp lạ lùng trong chuyển động lờ đờ của thi hài bị vướng trong dòng nước
xoáy; qua ngẫu nhiên kỳ dị mà thi hài quay tròn ở một chỗ, đôi tay giơ cao khỏi
đầu như đang trong một điệu vũ quay theo truyền thống, và cô cũng như những
người khác không thể ngưng nhòm ngó. Cô biết người này đã chết, nhưng không
nhận ra đó là ai. Ngay cả sau này, khi được cho biết đó là Bác sĩ Wade, cô
không thấy gương mặt chìm trong nước tương đồng với ông già Scotland mà cô nhớ
lúc còn sống.
Ngay cả bây giờ, trong cả mấy năm sau này, cô
phải thu can đảm nhìn xuống vực nước sâu thẳm. Để biết chắc là không có gì.
Khi hai người rời khỏi con sông, David cầm lấy
tay cô trên đường về nhà. Anh im lặng, là điều bất thường đối với bản chất của
anh, và trước khi hai người đi ra khỏi khu rừng cây, anh kéo cô đến gần một
thân cây và hôn cô. Có một vẻ vô vọng trong ánh mắt anh khiến cho cô sợ hãi; cô
không biết ý nghĩa của ánh mắt ấy là gì. Tê cứng người, không thể đáp ứng và
không hiểu sao lại cảm thấy khó chịu, cô rời xa anh rồi bước đi về nhà trước
anh. Sau đó, tình bạn giữa hai người không bao giờ thân thiết như trước, và mùa
hè năm sau gia đình anh trở về miền đông. Anh là đứa con trai duy nhất muốn hôn
cô, cho đến lúc sau này là Robert Fisher.
Sau gần một tiếng đồng hồ, cô đến ngôi nhà gỗ
của Jammet và xuống ngựa. Cô bước qua lớp tuyết thối rữa để đi vòng đến cửa
trước. Mái nhà lạnh lẽo vẫn còn có tuyết bên trên; ngôi nhà gỗ trông nhỏ nhoi,
buồn nản. Có lẽ vụ án mạng sẽ khiến cho không ai muốn mua ngôi nhà, trong khi
vụ chết đuối thì không thế.
Có nhiều vết chân vòng quanh ngôi nhà gỗ, phần
lớn là của trẻ con chơi trò thách thức nhau. Nhưng ngay phía trước cánh cửa,
mặt đất trơn tru - gần đây không có ai bước vào. Maria cả quyết tiến đến. Một
sợi dây kẽm giữ cánh cửa đóng lại. Cô tháo sợi dây kẽm ra, làm sướt một ít da
trên ngón cái. Cô chưa từng đi vào đây; người ta vẫn nghĩ con gái gia đình danh
giá không nên làm bạn với Jammet. Cô thì thầm lời xin lỗi hương hồn anh, hoặc
đại khái như thế, vì tội xâm nhập. Cô đang tự nhủ mình chỉ đến kiểm tra để đảm
bảo tấm thẻ xương không bị bỏ sót trong một góc kẹt nào đó. Người ta dễ dàng
không để ý đến một vật nhỏ như tấm thẻ. Cô cũng đang thu can đảm để làm việc mà
cô sợ, tuy là chính xác sợ cái gì thì cô không rõ.
Chỉ có ánh sáng yếu ớt chiếu qua khung cửa sổ
bằng tấm da hoẵng; cả không gian tạo cảm tưởng kỳ quái như là được phủ dưới một
tấm màn the. Vô cùng yên ắng. Không có gì bên trong, ngoại trừ một tủ chè và
chiếc lò trong gian bếp, đang chờ bàn tay mới để hồi sinh. Và bụi bặm, trông
như một lớp tuyết mỏng trên sàn nhà. Hai bàn chân cô đang in dấu vết bước đi
trên đó.
Hóa ra là khi bạn nhìn rõ thì mới thấy một
ngôi nhà dù xem trống vắng vẫn còn phô bày nhiều thứ: những món vật dụng nhà
bếp cũ kỹ, những trang giấy báo, một dúm đinh, một nùi tóc đen (khiến cho cô
rùng mình), một sợi dây cột giày ủng... Tất cả những thứ mà người ta không màng
mang đi bởi vì chẳng có giá trị gì cả; bởi vì không ai cần đến, ngay cả người
đã ở đây.
Chúng ta đã để lại quá ít.
Bây giờ không có cách gì biết được con người
Laurent Jammet là như thế nào; cô lại càng không biết. Cô đi xem xét kỹ càng
trên lầu, nơi có vài chiếc hộp bằng gỗ đựng nửa đầy các món. Không có gì trông
giống như tấm thẻ xương, nhưng cô tìm ra một thứ gì khác, một cái gì đó được
nhét vào cái khe giữa khung cửa và bức tường (điều gì đã khiến cho cô tìm kiếm
ở đây?).
Một mẩu giấy màu nâu, giống như thứ bạn thấy
để gói hàng ở cửa hàng của Scott, mà ai đó đã phác họa Laurent Jammet bằng viết
chì. Maria thẹn đỏ mặt: trên bức họa, Jammet nằm trên giường, hẳn là đang ngủ,
khỏa thân. Lúc ấy hẳn là mùa hè, vì một tấm chăn mỏng quấn quanh chân anh, như
thể trong đêm anh đã đạp nó ra. Nhà họa sĩ không giỏi nhưng có hoa tay, và cho
cảm tưởng về sự thân mật giữa người này và Jammet. Khi nhìn sự thể hiện một
người đàn ông khỏa thân, Maria cảm thấy không những xấu hổ nóng bừng, mà còn ân
hận như thể cô đã xâm phạm cõi riêng tư, được ẩn giấu sâu kín nhất trong tâm tư
ai đó. Bởi vì cô tin chắc rằng người phác thảo bức họa, dù người phụ nữ này là
ai, đã đem lòng yêu Jammet. Rồi cô nhận ra nét gì đó trông giống chữ ký, viết
nguệch ngoạc. Trông giống như Françoise. Cô tin chắc không có chữ cái “e”.
Không phải là Francoise.[63]
[63] François - Françoise: trong tiếng Pháp, François là tên của phái nam,
còn Françoise là tên
của phái nữ.
Và rồi lập tức cô nghĩ đến Francis Ross.
Cô đứng đó nắm lấy mẩu giấy, không nhận ra là
trời đã gần tối. Cô hoảng hốt nhìn thấy máu của mình đã bết thành một vệt trên
mảnh giấy. Ý tưởng mạch lạc đầu tiên của cô là nên đốt mảnh giấy này, kẻo người
khác tìm thấy và đi đến cùng kết luận. Rồi với ít xúc động trong con tim, cô
nhận ra rằng nên trao bức họa cho Francis, bởi vì nếu là cô thì cô sẽ muốn nhận
lại (nếu đôi má cô không còn cháy bỏng). Cô có cảm nhận kỳ lạ, xốn xang một
cách sâu sắc, rồi cẩn thận gấp mảnh giấy lại, mặt bức họa bên trong, trước khi
cho vào túi áo. Rồi cô lại rút ra, mường tượng em gái mình thò bàn tay vào túi
mà tìm thấy. Thay vào đó, cô nhét mảnh giấy bên trong áo lót, nơi chỉ có mình
cô chạm đến. Ở đó, kế bên quả tim, mảnh giấy cháy bỏng như than hồng, khiến cô
cảm thấy một luồng hơi nóng vì hổ thẹn lan đến cổ họng. Cuối cùng, cô vội vàng
nhét mảnh giấy vào một bên chiếc giày ủng, nhưng ngay cả từ nơi đó những tia
nóng tỏa lan lên chân khi phi ngựa quay về Caulfield trong bóng tối đang ập
xuống.
***