Sự Hiền Hòa Của Sói - Phần 22
Những đồng sự mùa đông
Bác sĩ Watson là mẫu người giám đốc dám nghĩ
dám làm ở bệnh viện tâm thần. Anh mơ đến việc tạo tên tuổi cho mình, viết bài
chuyên môn và rồi được mời trình bày ở những hội nghị chuyên đề, nơi có nhiều
phụ nữ mến mộ anh vây quanh. Tuy nhiên, tạm thời, những phụ nữ duy nhất gần anh
đã mất trí không ít thì nhiều, và trong số này anh đã chọn tôi để giết thời giờ
trong khi chờ đến ngày anh đủ nổi tiếng để ra đi.
Tôi ở trong bệnh viện tâm thần được ít tháng
thì anh đến, và suốt thời gian này người ta râm ran đồn đại về vị giám đốc mới.
Cuộc sống trong bệnh viện tâm thần nói chung là vô cùng chán ngán, nên bất kỳ
thay đổi nào cũng là đầu đề cho mọi người tranh luận sôi nổi, như là việc thay
đổi món cháo yến mạch trong bữa ăn sáng, hoặc việc dời giờ may vá từ ba đến bốn
giờ chiều. Vì thế mà vị giám đốc mới là biến cố quan trọng, thổi ngọn lửa cho
các cuộc đồn đại và suy đoán kéo dài nhiều tuần. Và khi anh đến, người ta không
lấy làm thất vọng. Trẻ trung và đẹp trai, anh có khuôn mặt tươi sáng, hiền hòa
và giọng nói cao trầm dễ nghe. Chỉ trong vòng nửa tháng, tất cả phụ nữ đều đem
lòng yêu anh. Tôi phải nói mình không phải là hờ hững hoàn toàn, nhưng quả là
buồn cười khi thấy một số phụ nữ tự làm đẹp cho mình bằng mấy dải ruy băng và
hoa lá cành để mong thu hút sự chú ý của anh. Watson lúc nào cũng tỏ ra nịnh
đầm và có sức quyến rũ, thích cầm lấy tay họ mà tỏ lời khen ngợi, khiến cho họ
cười khúc khích và đỏ bừng mặt. Mùa hè năm ấy, các phòng ngủ của phụ nữ đều
vang tiếng thở dài trong đêm.
Vì tôi không thích trò tôn thờ thần tượng, thế
nên tôi ngạc nhiên khi được gọi đến văn phòng của Watson và thắc mắc liệu mình
đã làm gì sai trái. Tôi thấy anh đang cúi mình trên một chiếc máy trông kỳ lạ
đặt ở giữa phòng. Lập tức tôi đoán đấy là một chiếc máy đặt giữa các ống nước
vòi tắm hoa sen, được thiết kế để tạo cho bệnh nhân tâm thần một cảm giác mạnh nào
đấy, nhưng tôi không rõ chi tiết nó vận hành như thế nào, và cảm thấy khá lo
lắng.
Watson nhìn lên và mỉm cười: “À, chào Cô Hay[40].”
Anh trông rất lấy làm vui với chính mình. Thật ra, tôi lại kinh ngạc hơn do sự
thay đổi trong căn phòng, vì với người tiền nhiệm thì căn phòng tối tăm và
trông buồn thảm, lại có mùi hơi khó chịu. Đấy là một căn phòng đẹp (cả bệnh
viện tâm thần gây ấn tượng tốt với cung cách tân cổ điển); trần cao, với cửa sổ
vòm rộng nhìn ra sân vườn. Watson đã cho lấy đi các tấm màn nặng nề treo từ các
cửa sổ, và bây giờ ánh sáng từ hướng nam tràn ngập. Các bức tường được sơn màu
hồng nhạt, có hoa đặt trên bàn, và đá cùng dương xỉ được xếp đặt một cách nên
thơ dọc một chân tường.
[40] Hay: họ của Bà Ross khi
còn độc thân.
Tôi nói mà không thể ngăn nụ cười: “Xin chào.”
“Cô thích văn phòng của tôi không?”
“Vâng, rất thích.”
“Tốt. Sở thích của cô giống tôi. Tôi nghĩ điều
quan trọng là làm cho khung cảnh của mình trông hấp dẫn. Nếu con người sống
trong cảnh xấu xí thì làm thế nào họ được hạnh phúc?”
Tôi nghĩ anh không nghiêm túc hoàn toàn, và lí
nhí lời lẽ gì đấy vô nghĩa, nghĩ rằng anh may mắn mà có quyền thay đổi khung
cảnh cho hợp với sở thích của mình.
Anh tiếp: “Dĩ nhiên là căn phòng càng trở nên
hấp dẫn hơn khi có cô ở đây.”
Dù đã biết cung cách của anh, tôi vẫn cảm thấy
hơi đỏ mặt, nhưng cố giấu giếm bằng cách nhìn những bệnh nhân khác qua khung
cửa sổ, lúc này đang đi dạo hoặc đang bị nhân viên lôi tuột đi.
Chúng tôi vẩn vơ trò chuyện một lúc, và tôi
đoán anh đang cố tìm hiểu tình trạng yếu đuối tinh thần của tôi và liệu tôi có
xu hướng lên cơn bạo lực hay không. Xem dường anh hài lòng với những gì tôi
nói, bởi vì anh bắt đầu giảng giải về chiếc máy. Về cơ bản đấy là một chiếc hộp
để tạo ra hình ảnh, và anh nói mình muốn nghiên cứu bệnh nhân. Anh nghĩ việc
này sẽ giúp tìm hiểu thêm về bệnh tâm thần và cách chữa trị, cho dù tôi không
hề hiểu rõ làm thế nào đạt kết quả này.
Đặc biệt là hình như anh muốn tạo ra hình ảnh
của tôi: “Cô có gương mặt rất thích hợp cho máy chụp ảnh, sáng sủa và diễn cảm,
đấy chính là điều cần thiết.”
Tôi lấy làm vui với ý nghĩ là anh đã đặc biệt
chú ý đến mình, và như thế là sự thay đổi hay hay so với các công việc hàng
ngày. Như tôi đã nói, cuộc sống trong bệnh viện tâm thần là cực kỳ tẻ nhạt,
ngoại trừ các cơn co giật kỳ lạ hoặc hành động muốn tự tử.
Đôi mắt nhìn xuống bàn, anh giải thích: “Điều
tôi đang suy nghĩ là một loạt những nghiên cứu về, à... cô, trong những tư thế
biểu trưng cho vài điều kiện tinh thần. À, lấy ví dụ... có triệu chứng mà chúng
tôi gọi là mặc cảm Ophelia[41],
được gọi theo tên của một nhân vật bị ảnh hưởng, trong một vở kịch nổi tiếng...”
Anh nhìn tôi để xem tôi có hiểu không.
[41] Ophelia: nhân vật nữ
chính trong vở kịch Hamlet của
Shakespeare, bị giằng xé giữa một bên là tình yêu, một bên là lòng thù hận.
Tôi nói: “Tôi biết câu chuyện này.”
“À, tốt lắm... Thế thì... cô xem, một minh họa
cho triệu chứng này sẽ là... tư thế đau khổ, với một vòng hoa trên đầu và đại
khái như thế. Cô hiểu ý tôi nói chứ?”
“Tôi nghĩ tôi hiểu.”
“Việc này sẽ giúp ích cho tôi rất nhiều với
một bài chuyên môn tôi đang viết. Các bức ảnh sẽ minh họa tiền đề của tôi, đặc
biệt đối với những người chưa bao giờ bước chân đến một bệnh viện tâm thần và
thấy khó mà mường tượng được.”
Tôi gật đầu một cách lễ độ, và khi anh không
nói rõ thêm, tôi hỏi: “Tiền đề của anh là gì?”
Anh có vẻ hơi ngạc nhiên: “À. Tiền đề của tôi
là, à... rằng có một số mẫu hình đối với bệnh tâm thần; một số dáng vẻ và hoạt
động thể chất thường diễn ra đối với những mẫu hình khác nhau, để chỉ ra tình
trạng tâm thần của họ. Rằng, tuy mỗi bệnh nhân có tiền sử riêng, họ đều ở trong
những nhóm có chung các đặc điểm và dáng vẻ. Và rằng...” anh ngưng lại, hiển
nhiên là đang suy tư, “... qua việc nghiên cứu lặp đi lặp lại và tập trung,
chúng ta có thể khám phá thêm nhiều cách để chữa trị cho những người vô phúc
tội nghiệp này.”
“À.” Tôi nói mà tự hỏi mình - là một trong
những người vô phúc ấy - có những dáng vẻ gì đặc biệt hay không. Có vài hình
ảnh không phù hợp tự hiện ra.
Anh nói tiếp: “Và cô có thể vui lòng dành cho
tôi chút thời giờ để ăn trưa cùng với tôi trong mấy ngày này, được không?”
Chỉ nghĩ đến việc này là tôi đã phát thèm.
Thức ăn trong bệnh viện tâm thần thì đủ bổ dưỡng nhưng nhạt nhẽo, khó nuốt và
nhàm chán. Tôi nghĩ có một giả thuyết (có lẽ thậm chí là một tiền đề) cho rằng
một vài hương vị có tính kích thích nguy hiểm, nói ví dụ quá nhiều thịt hoặc
quá nhiều mỡ hoặc quá cay sẽ làm dấy lên tính mẫn cảm tinh tế, gây ra náo động.
Tôi đã thấy vui vì được làm người mẫu, nhưng chỉ sự hứa hẹn về thức ăn hợp khẩu
vị cũng đủ làm cho tôi xiêu lòng.
“Thế thì,” anh mỉm cười, và tôi nhận ra anh
thật sự bồn chồn, “cô chấp nhận việc này không?”
Tôi cảm thấy băn khoăn vì anh bồn chồn - đối
với tôi? Hoặc đối với điều khả dĩ là tôi sẽ từ chối? Rồi tôi gật đầu. Có lẽ
trọn đời tôi chẳng bao giờ hiểu được làm thế nào xuất hiện trong các bức ảnh
với vòng hoa trên đầu sẽ chữa được bệnh tâm thần, nhưng tôi là ai mà lại từ
chối?
Hơn nữa, anh là người đẹp trai, tử tế và trẻ
trung, trong khi tôi là đứa con gái mồ côi trong một bệnh viện tâm thần không
có người bảo hộ và không thấy có triển vọng sẽ được xuất viện. Tuy tình huống
này có khác thường đến đâu thì cuộc đời tôi vẫn không thể nào tệ hại hơn được
nữa.
Chuyện diễn ra như thế. Khởi đầu, tôi đến văn
phòng anh khoảng một hoặc hai lần mỗi tháng. Watson thu thập một số kiểu trang
phục và cùng các món trang trí để tạo ra khung cảnh. Anh bắt đầu với khung cảnh
được gọi là u uất, mà tôi cảm thấy mình rất phù hợp để diễn tả. Anh sắp đặt một
chiếc ghế bên khung cửa sổ, rồi tôi ngồi với một bộ áo màu ảm đạm, tay cầm một
quyển sách và nhìn xa xăm ra ngoài như thể - theo cách anh nói - tôi đang mơ
đến người yêu đã mất. Đáng lẽ tôi có thể nói với anh rằng trong đời còn có
những nỗi khổ tồi tệ hơn là mất người yêu, nhưng tôi giữ mồm giữ miệng mà nhìn
ra ngoài khung cửa sổ, lại mơ đến các món thịt rừng nấu rượu poóc-tô, cà ri gà,
và nấm trifle[42] nấu
với nhục đậu khấu.
[42] Nấm trifle: cách viết
thông dụng hơn là “truffle”: nấm hương củ có mùi thơm đặc biệt, mọc hoang trong
lòng đất gần cây sồi hay cây dẻ ở châu Âu, nhưng rất hiếm, giá rất cao, thường
được sử dụng với lượng ít như là gia vị, để làm tăng hương vị các món thịt hầm,
bánh ngọt...
Bữa ăn trưa có các món ngon lành như tôi đã
tưởng tượng ra. Tôi lo lắng vì mình ăn uống với tất cả vẻ thanh nhã của một
nông nô, và anh mỉm cười nhìn tôi khi tôi xúc miếng bánh nhân đào và quế lần
thứ hai và thứ ba. Tôi ăn đến căng bụng, không phải vì thiếu chất trầm trọng,
mà chỉ vì từ lâu đã không được ăn ngon, ăn món cay nồng và ngọt dịu. Lần đầu
tiên trong bốn năm (trừ dịp Giáng sinh) được nếm lại các món nhiều gia vị cùng
phó mát xanh cùng rượu vang quả là thần tiên. Tôi đã nói như thế, và anh cười
lớn, và có vẻ rất vui. Khi anh tiễn tôi ra cửa văn phòng, anh nắm lấy hai tay
tôi và nhìn sâu vào mắt tôi mà thốt lời cảm ơn.
Như tôi đã đoán trước, tôi được gọi đến văn
phòng anh thường xuyên hơn, và khi chúng tôi đã quen biết với nhau hơn thì việc
ngồi làm mẫu cũng kém nghiêm túc. Ý tôi nói là dần dà tôi ăn mặc ít đi, rồi đến
lúc tôi ngả người dựa vào đám dương xỉ với một tấm vải muxơlin mỏng quấn quanh.
Tôi nghĩ rằng còn quá sớm để từ bỏ việc giả vờ đóng góp vào tiến bộ của y khoa.
Watson - hoặc Paul theo tên bây giờ tôi gọi anh - tiến hành các nghiên cứu theo
ý anh thích, đôi lúc tỏ vẻ như có lỗi, mắt chớp chớp quay đi để tránh ánh mắt
tôi như thể anh bối rối khi yêu cầu tôi làm những việc như thế.
Anh tỏ ra tử tế và chín chắn, quan tâm đến ý
kiến của tôi, trong khi nhiều người đàn anh quen biết tôi bên ngoài bệnh viện
tâm thần đã không quan tâm như thế. Tôi mến anh, rồi một ngày lúc dùng bữa
xong, tôi cảm thấy hạnh phúc khi anh nắm lấy bàn tay tôi, run rẩy. Anh dịu
dàng, khát khao, tỏ ra sợ hãi vì sai trái, và mỗi lần chúng tôi gặp nhau anh
đều ngỏ ý xin lỗi vì đã tuân theo bản năng của anh mà lợi dụng tôi. Tôi không
hề bận tâm. Đối với tôi, đấy là một bí mật tràn đầy xúc cảm, một nỗi khao khát
ngọt ngào, cho dù anh luôn bồn chồn và hoảng hốt khi chúng tôi thành thân với nhau,
một cách vội vã, sau một bữa ăn trưa thịnh soạn, trong văn phòng khóa kín cửa.
Và anh tỏa mùi nhà kính, mùi lá cà chua và đất
ẩm, mà tôi thấy nồng nồng và thỏa mãn. Cho đến bây giờ, mỗi khi nhớ về mùi
hương ấy là tôi nghĩ đến bánh nhân trái cây với kem hoặc bít tết trong rượu
cô-nhắc. Thậm chí một đêm nọ, nhiều năm sau, trong căn lều lạnh lẽo giữa rừng,
khi tôi ngửi mùi hương ấy từ Parker tôi lại nhớ đến món bánh sô cô la đăng đắng.
Tôi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ biết được
chuyện gì đã xảy ra. Vì lý do nào đấy, Watson bị thất thế. Theo tôi được biết
thì không phải là do tôi, chắc chắn là không ai nói ra gì cả, nhưng một buổi
sáng y tá trưởng thông báo Bác sĩ Watson phải ra đi thình lình, và trong vòng
ít ngày sẽ có người thay thế. Một ngày anh còn ở đấy, ngày kế đã ra đi. Hẳn anh
đã mang theo chiếc máy cùng các tấm hình. Một vài tấm trông đẹp; những bóng màu
tối trên nền kính, tỏa ánh lung linh như bạc khi tôi nghiêng ra phía có ánh
sáng. Khi cảm thấy u uất - thường khi như thế bây giờ - tôi tự nhắc nhở rằng
anh đã run rẩy khi chạm đến tôi; rằng có thời tôi đã là niềm hứng khởi cho ai
đó.
Chúng tôi đã đi băng qua vùng bình nguyên
trong ba ngày mà không thấy quang cảnh thay đổi gì cả. Cơn mưa kéo dài trong
hai ngày làm lớp tuyết tan chảy, khiến cho bước đi trở nên khó khăn. Bùn ngập
đến mắt cá chân, và nếu nói như thế nghe ra chẳng có gì nhiều thì tôi phải nhấn
mạnh là khá tồi tệ. Mỗi bước chân bị dính theo hàng cân bùn đất, còn chiếc váy
của tôi trĩu nặng vì thấm nước. Vì không bị nặng nề với váy như phụ nữ Parker
và Moody đi trước cùng với chiếc xe trượt tuyết.
Mưa tạnh vào cuối ngày thứ hai, và khi tôi vừa
thầm cảm ơn bất kỳ đấng linh thiêng nào còn phù hộ cho mình, thì một đợt gió
bắt đầu và vẫn thổi mãi từ lúc ấy. Gió làm cho mặt đất khô lại và việc đi đứng
được dễ dàng hơn, nhưng nó thổi từ hướng đông-bắc nên rất lạnh, đến nỗi tôi
kinh qua một hiện tượng mà trước đây mình chỉ nghe nói, đấy là nước mắt đóng
băng ở khóe mắt. Sau một tiếng đồng hồ, mắt tôi đã đỏ nhừ.
Bây giờ Parker và hai con chó dừng lại để chờ
cho tôi theo kịp. Ông đứng trên một gò nhô lên một tí, và khi chúng tôi loạng
choạng bước đến bên ông, tôi thấy tại sao ông đứng đợi: cách vài trăm mét phía
trước là cụm tòa nhà - vật thể đầu tiên do con người xây nên mà chúng tôi trông
thấy kể từ lúc rời Himmelvanger.
“Chúng ta đi theo đúng con đường,” Parker nói,
tuy rằng “con đường” là từ ngữ mà tôi thấy không đúng.
Moody đang nhìn qua đôi tròng kính: “Đó là nơi
chốn nào vậy?” Thị lực của anh kém cỏi, càng kém thêm vì ánh sáng xám lờ mờ
xuyên qua trần mây.
“Đó là một thương điếm trước kia.”
Từ đây, tôi nhìn thấy có điều gì đấy không ổn;
nó có tính sát khí của một tòa nhà trong cơn ác mộng.
“Ta nên đến xem. Phòng trường hợp hắn đã đến
đây.”
Khi đến gần hơn, tôi nhận biết chuyện gì đã
xảy ra. Thương điếm đã bị đốt trụi; mấy chiếc bè nằm chỏng chơ nổi bật trên nền
trời, mấy cây xà gãy đổ chĩa lên qua các góc cạnh sai lệch. Những bức tường còn
sót lại đều thành than màu đen, và võng xuống. Nhưng điều kỳ lạ nhất là các cấu
trúc gần đây bị bao phủ trong tuyết tan chảy ban ngày và đông cứng ban đêm,
từng lớp này qua lớp khác nước tan chảy rồi đông lại nên bộ khung trần trụi
phồng to lên và được băng tráng lớp ngoài. Đấy là một quang cảnh khác thường:
đen đúa, phồng rộp, lóng lánh; các tòa nhà phủ băng như thể đã bị một sinh vật
dị dạng nuốt chửng. Tôi - và tôi nghĩ cả Moody nữa - cảm thấy như là một chuyện
kinh dị.
Tôi chỉ muốn thoát khỏi nơi này.
Parker đi giữa các bức tường, xem xét mặt đất.
Ông chỉ tay đến một đống không hình thù rõ rệt trên nền đất ở một góc: “Ai đó
đã để lại quần áo.”
Tôi không hỏi ông ai lại làm như thế. Tôi có
linh cảm mình không muốn biết.
“Đây là Chỏm Elbow. Bà có nghe nói tới bao giờ
chưa?”
Tôi lắc đầu, tin chắc đây là thêm một chuyện
tôi không biết thì tốt hơn.
“Công ty XY đã xây nên nơi này. Công ty Vịnh
Hudson không ưa việc họ xây một thương điếm ở đây, nên đã đốt rụi nó.”
“Làm thế nào ông biết được?”
Parker nhún vai: “Ai cũng biết. Mấy chuyện như
vậy đã xảy ra.”
Tôi nhìn về hướng Moody, cách tôi gần ba mươi
mét, qua một cánh cửa đã biến mất, mò mẫm giữa một đống đổ nát mà lúc trước có
lẽ là đàn dương cầm.
Tôi nhìn ngoái lại Parker để xem ông có mưu đồ
gì xấu không, nhưng khuôn mặt ông vẫn không biểu lộ cảm xúc gì cả. Ông đã nhặt
lên một mảnh vải cứng, đóng băng và căng nó ra - từng mảnh băng vỡ vụn phát ra
âm thanh phản đối - để cho thấy hình thù một chiếc áo sơ mi, có lẽ lúc trước là
màu xanh lam nhưng bây giờ đã quá dơ bẩn nên khó mà biết màu gì. Mảnh áo đã
ngấm nước, lem luốc và để mặc ở đây cho thối rữa.
Thình lình, tuy muộn màng, tôi nhận ra tầm
quan trọng: “Đấy có phải là máu không?”
“Tôi không biết. Có lẽ vậy.”
Ông sục sạo thêm chung quanh, và thốt lên một
tiếng kêu thỏa mãn. Lần này, chính tôi cũng hiểu tại sao - có những dấu vết của
một đống lửa, đen đủi và phủ bồ hóng, gần một chân tường.
“Mới đây phải không?”
“Cách đây khoảng một tuần. Thế là người của ta
đã đến đây, và nghỉ qua đêm. Nếu không bắt chước hắn thì ta còn bị tồi tệ hơn
nữa.”
“Nghỉ đêm ở đây à? Nhưng còn sớm. Ta nên đi
tiếp, đúng không?”
“Nhìn lên trời xem.”
Tôi nhìn lên; trần mây, bị chia ra thành bốn
khung bởi những cây xà, xuống thấp và xám xịt. Nhuốm màu trận bão tuyết.
Khi nghe qua dự tính, Moody vẫn tỏ ra lạc
quan: “Nhưng chuyện gì thế - thêm hai ngày để đi tới Nhà Hanover hay sao? Tôi
nghĩ ta nên đi tiếp.”
Parker bình tĩnh trả lời: “Sẽ có cơn bão tuyết.
Ta sẽ vui mà có chỗ trú.”
Tôi có thể thấy đầu óc của Moody quay cuồng:
không rõ có nên phản đối hay không hoặc Parker có chịu nghe anh hay không.
Nhưng gió đã thổi đến, và anh nhụt chí; bầu trời đã trở nên xấu xí và hung hãn.
Dù cho thương điếm bị bỏ phế trông xa lạ và huyền bí, vẫn còn tốt hơn là không
có gì cả.
Theo đó, chúng tôi dựng lều giữa chốn hoang
tàn. Parker dựng nên một chái trú thân rộng dựa vào một trong các bức tường còn
sót lại, rồi gia cố bằng những thanh gỗ đen đủi. Tôi lo âu vì trông nó vững
chắc hơn là chỗ trú thân tôi thấy ông làm lúc trước, nhưng vẫn theo chỉ dẫn của
ông và đem đồ đạc từ chiếc xe trượt tuyết xuống. Trong mấy ngày qua, tôi đã
quen dần với những công việc cần thiết cho tiện nghi và sự sinh tồn; tôi chất
thức ăn bên trong (ông có thật sự nghĩ chúng tôi sẽ bị giam hãm trong nhiều
ngày?), trong khi Moody đi kiếm củi - ít nhất thì đầy rẫy chung quanh - và cậy
phiến băng trên những bức tường để đun nước. Chúng tôi làm việc nhanh nhẹn vì
lo màn đêm buông xuống nhanh và gió thổi mạnh thêm.
Khi chúng tôi đã xong xuôi các bước chuẩn bị
thì tuyết đang thổi phần phật chung quanh, châm chích vào mặt như đàn ong.
Chúng tôi bò vào chái trú thân; Parker đốt lửa để đun nước. Moody và tôi ngồi
đối mặt với cửa ra vào đã được giằng với những cây xà lớn, nhưng những cây xà
này bắt đầu ngả nghiêng như thể có người đang cố chui vào. Trong một tiếng đồng
hồ kế tiếp, gió càng lúc càng mạnh cho đến lúc mỗi người không thể nghe người
khác nói gì. Âm thanh gầm rú nghe kỳ quái, cùng với tiếng vải bạt đập phành
phạch và tiếng các súc gỗ của bức tường kêu răng rắc nghe kinh khiếp. Tôi không
rõ cái chái trú thân có chịu đựng được hay không, hoặc sẽ đổ sụp dưới sức mạnh
và trọng lượng của tuyết và băng bên trên. Parker không có vẻ lo lắng, dù tôi
dám đánh cược là Moody cũng sợ hãi như tôi; mắt anh mở rộng sau tròng kính, và
anh luôn giật nẩy người vì âm thanh chung quanh.
Moody hỏi: “Hai con chó ở bên ngoài ổn chứ?”
“Ổn. Chúng sẽ nằm sát bên nhau mà giữ hơi ấm
cho nhau.”
“À. Ý tưởng hay.” Moody cười, nhìn qua tôi,
rồi hạ tầm mắt khi thấy tôi không cười theo làm bạn đồng hành của anh.