Rừng Răng-Tay - Chương 23

23

Những
ngôi nhà trú ẩn tồn tại như thể những người xây dựng nên ngôi làng đã lường
trước nỗi đe dọa luôn xuất hiện phía bên kia hàng rào. Trong khi nơi trú ẩn
làng tôi nhỏ nhắn và được xây dựng bằng các vật liệu sơ sài thì khu vực nhà trú
ẩn trên cây ở đây cũng giống như một ngôi làng nữa. Nhà nào cũng to như cái nơi
mà tôi đang ẩn nấp. Chúng giống những cái tổ khổng lồ trên chạc cây to. Có cả
các cầu dây nối liền từ nhà này sang nhà kia. Cho dù vậy, chúng tôi vẫn không
thể giao tiếp từ khoảng cách mà tôi đang đứng ngoại trừ vẫy tay ra hiệu. Nhưng
rõ một điều rằng các thành viên còn lại trong đoàn vẫn đang vui vẻ, khỏe mạnh
trong những ngôi nhà trên cây của họ.

Chúng tôi
cũng thế, cho dù nơi bất khả xâm phạm nhỏ bé này có đang bị các sinh vật Vùng
vô định cứng đầu bao vây, thì trước mắt bên trong vẫn an toàn. Các cửa chớp rất
dày còn được gia cố thêm bằng những thanh gỗ ở tầng một. Trong khi lũ sinh vật
ngoài kia vẫn không ngừng xô đẩy tường và cửa vào thì ở bên trong, chúng tôi sẽ
không hề hấn gì cho tới khi sự ngoan cố của chúng có thể húc đổ cái công sự
kiên cố này.

Có cảm
giác như ngôi nhà đã được xây dựng để đề phòng một cuộc tấn công như vậy và
điều đó làm tôi tự hỏi vì sao làng tôi lại chuẩn bị mọi thứ kém đến thế. Tại
sao ngôi làng này lại khác nơi tôi ở nhiều đến thế. Tại sao những ngôi nhà ở
đây lại to và đẹp đến như vậy.

Tầng trệt
chỉ có một phòng khổng lồ duy nhất dành cho bếp, khu vực ăn và phòng khách.
Ngay giữa phòng có một lò sưởi bằng gỗ lớn. Và choán gần hết bức tường là cái
bếp lò to đến nỗi tôi còn có thể chui lọt bằng cách đứng vào trong đó.

Phòng ăn
có một bàn dài với những chiếc ghế băng xung quanh đủ để một gia đình đông đúc
và vô số khách mời ngồi vừa. Bức tường cuối khu vực phòng khách treo kín vũ
khí. Có vài chiếc giáo dài, vài cái rìu cán dài và một số loại vũ khí mà tôi
chưa được nhìn thấy bao giờ. Tất cả đều có lưỡi rất sắc. Còn cả những chiếc nỏ
và ống đựng tên. Và ở một vị trí trang trọng ngay phía trên lò sưởi treo hai
thanh kiếm lưỡi cong với chiếc cán được khảm những hình thù khó hiểu.

Ở phần
sau ngôi nhà, ngay dưới gầm cầu thang là một phòng nhỏ ngăn nắp chứa đầy thực
phẩm. Sâu bên trong ngồn ngộn ba bốn giá đỡ dài rộng với đầy những vại chứa rau
và hoa quả. Thảo quả khô và thịt khô treo lúc líu trên trần nhà. Còn có cả
những thùng đựng bột mì và ngô to tướng kê dọc tường.

Cái kho
dự trữ này dường như đủ nuôi sống chúng tôi trong vòng vài năm. Tôi chưa bao
giờ nhìn thấy một lúc nhiều thực phẩm như thế và đột nhiên tôi chợt băn khoăn
rằng không biết nhà thờ của chúng tôi có một cái kho chứa đồ như thế này hay
không.

Ngay
ngoài cánh cửa bên kia của kho chứa có một khoảnh sân nhỏ khép kín được bao
quanh bởi những bức tường gạch rất dày. Một vài chậu đất men sẵn sàng cho việc
trồng cây. Một cái bơm đặt ngay chính giữa để bơm nước sạch vào trong nhà và
khu vườn. Argos hoàn toàn có thể ra đây ngủ trưa dưới ánh nắng mặt trời.

Hiển
nhiên là chủ nhân của ngôi nhà đã dự tính trước điều này, dự tính trước một vụ
đột nhập hàng rào vô cùng khó tin và điều đó sẽ khiến họ bị cô lập như trên một
hòn đảo giữa Vùng vô định.

Khu vực
trên gác có tất cả bốn phòng: ba phòng ngủ khép kín và một phòng trẻ. Chúng tôi
vẫn để nguyên những cánh cửa đóng kín như thế từ ngày đầu tiên đến đây và cho
đến giờ vẫn chưa mở ra. Giống như ngôi nhà cũ của tôi ở làng, cái nhà rộng lớn
này cũng có một cầu thang bắt vào tường phía cuối hàng lang. Tôi trèo lên và
đẩy chiếc cửa sập dẫn lên một căn phòng rộng lớn chạy suốt chiều dài ngôi nhà.

Ở trên
này cũng có thực phẩm dự trữ sắp hàng dọc bức tường và thêm rất nhiều vũ khí
chất thành đống gọn gàng. Tôi nhìn thấy mấy chiếc hòm dựng phía cuối phòng
nhưng cũng không bận tâm mở nó ra làm gì. Đằng đó có một cánh cửa nhỏ màu
trắng. Tôi kéo cái chốt và cố mở nó ra. Cuối cùng cánh cửa cũng lay chuyển rồi
mở ra một ban công nhỏ với những chấn song dày bên trái và bên phải, còn phía
đối diện trống huếch. Khi bước vào khoảng không gian tràn ngập ánh sáng mặt
trời này, tôi chạm tay vào bậu cửa bên phải theo thói quen vẫn thường làm khi
miết tay vào những vần thơ trong Kinh thánh khảm trên tường.

Nhưng bức
tường ở đây trần trụi và trơn nhẵn. Chẳng có gì được viết trên mặt gỗ, không có
sự nhắc nhở đến Chúa Trời và những lời răn dạy của Người. Tôi nhớ lại lúc bước
qua các bậu cửa trong làng này và nhận ra rằng chúng đều như thế cả.

Tôi không
biết tại sao các xơ trong làng lại không bắt buộc mọi người phải khắc in lời
Kinh thánh. Rồi cũng ngay tức thì tôi nhận ra rằng trong ngôi nhà này không hề
có ghế băng để cầu nguyện. Cũng không có những tấm thảm ghi lời răn của Người
treo trên tường. Trong ngôi nhà này chẳng có gì liên quan đến Chúa. Điều này
khiến tôi phải tự hỏi rằng tại sao nơi này lại cho phép một sự báng bổ và tự do
đến như vậy?

Chẳng lẽ
các xơ ở đây không điều hành mọi thứ một cách nghiêm khắc hay sao. Hoặc có lẽ
họ không điều hành tất cả.

Tôi tựa
vào những chấn song và nhìn xuống đám sinh vật Vùng vô định qua hai tầng gác.
Tôi nhận ra rằng không kẻ nào trong số bọn chúng mặc trang phục của các xơ cả,
không kẻ nào mặc áo choàng đen. Tôi quan sát những ngôi nhà xung quanh: không
ngôi nhà nào trang trí những hình ảnh liên quan đến Chúa. Và cho đến giờ phút
này tôi cũng chưa nhìn thấy cái nhà thờ nào.

Đầu óc
tôi quay cuồng khi cố gắng cắt nghĩa được nơi này, cố gắng nghĩ xem liệu có thể
tồn tại một nơi không có Chúa Trời và các xơ hay không.

Chóng
mặt, tôi ngồi phệt xuống đất, chân tôi gác lên rìa ban công và chìa ra ngoài
khoảng không. Hành động này càng khiến tôi cảm thấy mất trọng lượng. Tôi chưa
bao giờ quen với một cuộc sống mà lại không có các xơ, không có sự giám sát
thường trực mọi nơi mọi lúc của họ. Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ xem liệu có phải
Chúa được phân tách ra từ chính các xơ hay không, rằng Chúa và các xơ là một
mối quan hệ khăng khít và người này khó có thể tồn tại nếu thiếu người kia.

Những ý
nghĩ rõ dần, làm hơi thở tôi trở nên gấp gáp.

Rồi chợt
có cái gì đó thoáng qua góc mắt khiến tôi phần nào nhãng đi phát hiện vừa rồi.
Tôi nhận ra Harry đang đứng ở rìa ngôi nhà trú ẩn trên cái cây cách đó không
xa.

Tôi đứng
vụt dậy khiến mắt hoa lên, và tôi phải đưa một tay lên che ánh nắng mặt trời
thì mới có thể nhìn rõ vạn vật.

Cái cây
khổng lồ đó nằm ngay phía bên kia con đường đất ở mặt trước ngôi nhà. Nghĩa là
con đường chắn ngang giữa nơi trú ẩn của Harry và chỗ ban công tôi đang đứng.
Tôi nhận ra rằng cái ban công này cũng đã từng là một phần của hệ thống nhà
trên cây được thiết kế vô cùng công phu và ngay dưới chân tôi cũng vẫn còn
những sợi dây thừng treo vắt vẻo. Chúng đu đưa trên rìa ban công ở phần không
có chấn song và thõng xuống tận mặt đất tới chỗ mà các sinh vật kia vẫn đang đi
lại.

Trông có
vẻ như những sợi dây này đã từng là một phần của cây cầu bắc ngang qua khoảng
không trước mặt. Và tôi ngẫm ra rằng ngôi nhà này, ngôi nhà của chúng tôi, có
thể là cái neo của toàn bộ hệ thống trú ẩn. Và giờ thì, vì một vài lý do tự
nhiên hoặc phi tự nhiên, chúng tôi bị cô lập một mình.

Tôi ngẫm
nghĩ xem tôi và Travis có cách nào đi được sang bên kia hoặc tìm cách cho họ
sang được bên này hay không. Liệu có cách nào đó để sửa chữa được cây cầu bị
đứt. Tim tôi đập rộn lên vì ý nghĩ này, bởi vì tôi vẫn chưa sẵn sàng rời bỏ
không gian tự do bên Travis sớm như thế.

Harry vẫy
tôi và tôi vẫy lại. Chúng tôi đứng đó và nhìn nhau trong giây lát, trước khi
tôi nhận ra rằng mình đang miết lên chỗ cổ tay mà lúc trước sợi dây Gắn ước đã
chà xát khiến giờ vẫn để lại một lớp vẩy.

Anh cố
gắng nói với tôi điều gì đó nhưng khoảng cách quá xa và những tiếng rên rỉ ầm ĩ
không ngớt của lũ sinh vật Vùng vô định làm tôi không luận ra được. Tôi nhún
vai và đưa tay lên tai. Anh lại hét lên, bàn tay khum lên miệng. Tôi lại tiếp
tục lắc đầu. Anh phẩy tay, hàm ý rằng những gì anh nói cũng không quan trọng
lắm đâu.

Một lúc
sau, anh quay trở lại ngôi nhà trú ẩn mà Cass, Jed và Jacob đang đợi sẵn ở đó.
Tôi có thể nhìn thấy những chùm khói bay lên từ ống khói và tôi phân vân không
biết họ đã ổn định được mọi thứ hay chưa.

Nếu họ
cảm thấy hạnh phúc với cái nơi ở mới này thì tôi và Travis cũng vậy.

Tôi quay
trở lại tầng áp mái, lòng bàn tay tôi lại miết lên bức tường nhẵn thín ở bậu
cửa. Thói quen khó bỏ và sự trống rỗng nơi bức tường vẫn không khiến ngón tay
tôi ngừng tìm kiếm.

Vài ngày
đã trôi qua, tôi và Travis bắt đầu thuộc về một thế giới khác. Phần lớn thời
gian, chúng tôi ở trên ở gác, những ô cửa sổ trên này có thể rộng mở để ánh
sáng và không khí tràn vào. Những tiếng rên rỉ triền miên của Vùng vô định lại
hòa nhập với đời sống thường ngày. Âm thanh không bao giờ ngớt ấy giờ chỉ còn
là tiếng vo ve trong óc chúng tôi. Chỉ thảng hoặc, lúc tôi trèo lên ban công để
ngắm nhìn anh trai, ngắm nhìn người mà tôi đã hứa hôn và cô bạn thân nhất thì
tôi mới tự hỏi lòng rằng liệu họ có đang trải qua một cuộc sống giống như tôi
hay không, trong một sự yên tĩnh nội tại đối lập với mối đe dọa thường trực bên
ngoài cánh cửa.

Một lần
tôi đã suýt hỏi Travis rằng tại sao anh không đến với tôi lúc chúng tôi còn ở
trong làng. Lúc ấy tôi đang ngồi bên bàn ăn đối diện với Travis và có một
khoảng lặng giữa cuộc nói chuyện. Tôi đã vô cùng muốn biết câu trả lời, muốn
biết rằng nếu không có thảm họa kia thì cuộc sống tiếp theo của tôi sẽ như thế
nào. Tôi vun những ý nghĩ lại, nỗi đau khi mòn mỏi chờ đợi vẫn còn tươi nguyên
trong cổ họng. Nhưng rồi anh mỉm cười cầm lấy tay tôi, lòng bàn tay anh cọ ráp
lên da thịt tôi và tôi chợt nhận ra rằng điều đó đã chẳng thành vấn đề nữa. Bởi
vì giờ phút này chúng tôi đang ở bên nhau. Và tôi không muốn làm hỏng giây phút
mà chúng tôi vừa tìm thấy.

Hàng ngày
chúng tôi lặp đi lặp lại lịch trình thế này. Argos ngủ gà ngủ gật hết chỗ nọ
đến chỗ kia. Travis kiểm tra lại xem có điểm nào không chắc chắn không, còn tôi
thì nấu ăn. Thế giới bên ngoài dừng lại ở bậu cửa ra vào và điều này đồng nghĩa
với việc cách li chúng tôi khỏi những người khác. Ở đấy, trong ngôi nhà này,
chỉ có chúng tôi, cuộc sống của chúng tôi và nhiều lúc tôi cũng cho đó là niềm
hạnh phúc.

Cho đến
một ngày, khi tôi từ ban công đi vào gian áp mái và nhìn thấy những hòm gỗ xếp
dọc tường. Lần đầu tiên tôi bị chúng gây sự chú ý. Tôi miết tay lên mặt gỗ trơn
láng, mùi gỗ tuyết tùng choán hết đầu óc tôi.

Cho dù
biết chắc rằng chẳng có ai đứng đằng sau vì Travis không thể leo lên thang
được, nhưng tôi vẫn nhìn quanh để chắc chắn không bị người theo dõi. Sau đó tôi
thận trọng nâng cái chốt của hòm gỗ đầu tiên.

Bên trong
đầy quần áo và tôi không nén được nụ cười, vui sướng vì đã có thứ để giải trí
trong suốt buổi trưa. Tôi lấy ra từng thứ đồ được thêu móc phức tạp và tinh
xảo. Thứ nào cũng gấp gọn ghẽ. Chúng có nhiều màu khác nhau, vài cái sáng màu,
vài cái sẫm màu và có những màu tôi chưa nhìn thấy bao giờ. Chất vải mềm và
mỏng như tơ. Các mắt lưới móc tinh xảo trên bề mặt khiến những chiếc váy thêm
phần dày dặn và chắc chắn.

Tôi ướm
thử một chiếc vào người và băn khoăn không biết mình mặc thứ đồ đẹp đẽ này vào
thì sẽ ra sao. Cuối cùng tôi cũng không thể cưỡng lại ham muốn được khoác chúng
lên người. Đầu tiên tôi cảm thấy choáng váng và phấn khích khi chất vải lạ lùng
kia phủ lên da thịt. Nhưng rồi sau đó tôi lại tự hỏi người đàn bà nào đã từng
mặc những thứ này. Nhiều ngày sống trong ngôi nhà, tôi vẫn thường tự cấm mình
hình dung ra những người chủ cũ. Kể từ lúc thả đứa bé qua cửa sổ, tôi đã tránh
nghĩ đến những đứa trẻ đã từng ngồi ăn bên chiếc bàn ở tầng trệt, không nghĩ
đến những người đàn ông cầm vũ khí, những người đàn bà tích trữ rau quả một
cách kỹ lưỡng để phòng ngừa một vụ tấn công mà cuộc sống của họ đã không thể
kéo dài để mà chứng kiến nó.

Và giờ
thì tôi đang mặc những chiếc áo của người đàn bà ấy. Tôi bị những hình ảnh về
người đàn bà chủ nhà hành hạ. Tôi biết chắc rằng cô ta cao hơn tôi bởi chiếc
váy ngủ rủ xuống quá chân và quét lê lên trên sàn nhà đầy bụi bặm. Tôi cũng
biết rằng ngực cô ta lớn hơn ngực tôi, có lẽ là vì cô ta đã sinh con rồi. Cánh
tay cô ta cũng to hơn vì ống tay áo đã trùm kín cả cổ tay tôi.

Nhưng tôi
không biết cô mơ thấy gì khi hàng đêm vùi mình trong chiếc váy này. Và người
đàn ông nào đã choàng cánh tay ấm áp lên eo lưng, khiến da thịt cô run rẩy và
bờ mi cô bối rối.

Đột nhiên
tôi thấy chóng mặt. Mọi ý nghĩ xung đột bên trong và tôi thấy rằng mình cần
phải biết hết những điều này. Tôi chạy ra ban công, trên mình vẫn mặc chiếc váy
của người đàn bà chủ nhà. Tôi quỳ gối quan sát những sinh vật bên dưới, chăm
chú xem xét những cánh tay, khuôn ngực, mái tóc và cổ tay của từng người phụ
nữ.

Người nào
trong số họ đã từng chui đầu qua chiếc váy này? Người nào trong số họ đã suông
tay lên lớp vải? Người nào đã từng có con, đã nuôi lớn lũ trẻ và ngủ trong
chiếc giường mà tôi đang ngủ?

Rất khó
phân biệt lũ sinh vật Vùng vô định qua lớp da chùng dãn, những đôi mắt vô cảm
và cơn đói triền miên không dứt.

Chẳng có
người đàn bà nào bên dưới đúng như trong hình dung của tôi cả. Tôi bèn chạy về
chỗ cầu thang, trèo xuống phòng ngủ và thò đầu qua từng ô cửa sổ. Nhưng vô cùng
khó khăn. Bọn chúng đông đúc và đứng ken kín nhau. Chúng còn bò lổm ngổm lên
người nhau, chân đá tung đám bụi trong khi cố tìm cách lọt được vào bên trong ngôi
nhà để tấn công tôi và Travis.

Không
màng vén cao chiếc váy lòe xòe, tôi bổ nhào xuống dưới nhà và vớ lấy một chiếc
mác cán dài khiến Travis giật nảy mình. Tôi không nghe thấy anh nói gì vì còn
vội leo trở lại thang gác, chiếc mác đập nẩy vào tường hành lang. Tôi lao ra
cửa sổ. Đầu mác gỉ sắc kéo lê đằng sau, cào xước mặt sàn gỗ sần sùi. Tôi nhoài
người ra bên ngoài, cố vươn cái mác ra xa hết cỡ khiến chiếc váy căng ra. Từ
cửa sổ tầng hai, tôi thúc cái mác vào đám sinh vật bên dưới, cố lùa chúng dãn ra
để có thể nhìn cho rõ từng khuôn mặt đàn bà.

Giống như
một cơn đói ngấu chưa được thỏa mãn hay cơn khát không thể dập tắt, tôi khát
khao muốn biết xem ai đã từng sống trong ngôi nhà này, và tôi đang thay thế
cuộc sống của ai đây. Người nào đã là người vợ, người mẹ? Tôi gần như tin chắc
rằng mình có thể xác định được điều đó khi nhìn vào đôi mắt của kẻ đang cố xô
đẩy cánh cửa để tìm kiếm lối vào nơi ở cũ. Nơi ở mà tôi đã đánh cắp của cô ta.

Tôi gần
như điên cuồng, cứ thế ủi chiếc mác vào đám sinh vật hỗn loạn trong khi đôi mắt
mờ lệ. Cuối cùng thì Travis cũng khập khiễng đi vào phòng, hơi thở nặng nhọc vì
đã phải nỗ lực leo lên thang.

Anh đặt
tay lên vai nhưng tôi nguẩy người ra. Tôi cứ chọc bừa vào từng thân hình, miệng
hét lên.

- Người
nào? Người nào trong số bọn mi?

Cuối cùng
thì anh cũng giằng cây mác khỏi tay tôi và kéo tôi tránh xa ô cửa sổ. Nhưng lúc
này trí óc tôi chỉ luẩn quẩn với những khả năng và giả thuyết.

- Có khi
cô ấy đi chỗ khác rồi. - Tôi bảo anh. - Có khi cô ấy không trở về nhà được nên
đã đi ra ngoài cánh cổng. Biết đâu cô ấy cũng giống như Gabrielle.

Tôi đưa
tay lên ôm mặt. Trong khoảnh khắc, mọi thứ lại dồn tụ trong đầu tôi. Biết đâu
cô ta đã trốn thoát, biết đâu những chủ nhân ngôi nhà này đều ở cả ngoài đó và
đang tìm kiếm. Biết đâu tôi chính là người sẽ tìm ra họ, nhận ra họ và đưa họ
đi. Tôi bắt đầu đi đi lại lại, trí óc tôi rộn lên vì điều đó.

- Em phải
ra ngoài cổng! - Tôi nói, giọng hổn hển đầy phấn khích. - Em phải tìm được cô
ấy.

- Ai cơ?
- Travis hỏi tôi. Anh lớn giọng gay gắt trong khi bàn tay túm chặt lấy vai tôi.
- Em định tìm ai?

- Cô ấy!
- Tôi bảo anh, chỉ vào người mình, chỉ chiếc váy mà tôi đang mặc.

- Em định
nói gì, Mary? Anh chẳng hiểu gì cả.

Anh giữ
chặt khiến tôi không thể đi đi lại lại được nhưng chân vẫn giậm lên mặt sàn,
những ngón chấn ấn sâu vào mặt gỗ nhấp nhổm muốn chạy đi làm cái điều mà tôi
đang khao khát.

- Anh
không thấy gì hay sao? Rất có thể một người nào đó giờ cũng đang ở trong làng
chúng ta, ở ngôi nhà của chúng ta. Họ cũng tìm thấy quần áo của em và nghĩ rằng
em đã thuộc về Vùng vô định, nhưng có phải thế đâu. Em vẫn đang ở đây và họ
không bao giờ biết được điều đó.

Tôi giằng
ra và tiếp tục đi lại. Tôi lùa tay vào tóc và cuộn chúng lại với nhau trong lúc
suy nghĩ, cố gắng tập trung vào những suy luận đang quay cuồng trong óc.

Chúng tôi
là ai nếu như không có tất cả những câu chuyện này? Điều gì sẽ xảy ra nếu không
còn ai sống sót để lưu giữ và lắng nghe mọi ký ức? Sẽ còn ai biết sự tồn tại
của tôi nào? Biết đâu chúng tôi là những người duy nhất còn sót lại trên thế
gian này thì sao, vậy thì còn ai biết những chuyện này nữa? Và nếu như còn
những câu chuyện khác, của những người khác thì sao? Và ai sẽ nhớ đến chúng
đây?

- Chẳng
còn ai trong làng mình đâu, Mary! - Anh bảo tôi. - Và người đàn bà đã từng sống
trong ngôi nhà này, tại sao lại phải quan tâm đến cô ta? Cô ta không còn ở đây
nữa. Nếu như cô ta trốn thoát và còn sống, thì cô ta cũng không đi vào con
đường mòn mà chúng ta đã đi.

Tôi giơ
tay lên chặn ngang.

- Anh nói
đúng! - Mọi ý nghĩ trong đầu tôi đã trở nên rõ ràng. - Hẳn là cô ấy đã đi rồi.
Hẳn là cô ấy đã đi theo một con đường mòn khác và giờ vẫn đang tiếp tục đi
tiếp.

Travis
lắc đầu.

- Mary! -
Anh níu tay tôi lại. - Nói cho anh biết tại sao điều đó lại quan trọng với em
đến thế. Giờ thì em nói đi, tại sao đột nhiên mọi thứ lại trở nên quan trọng
nào?

Tôi dừng
bước và nhìn sâu vào mắt anh, đôi mắt điềm tĩnh, đẹp đến không thể tin được.

- Bởi vì
sẽ không ai biết về cô ấy cả, và điều đó cũng có nghĩa là sẽ không ai biết về
em nữa. - Tôi thì thầm. - Khi người ta đi vào làng mình, có ai biết gì về em
đâu cơ chứ.

- Có anh
biết, Mary. - Anh đặt tay lên má tôi, rồi lần những ngón tay xuống cằm, và tôi
buộc phải nhắm mắt lại để anh không thể đọc được những ý nghĩ đang neo chắc
trong đầu mà tôi không thể nói ra thành lời, rằng như thế này là vẫn chưa đủ.

Rằng tôi
sợ rằng ngay cả chính anh cũng là chưa đủ đối với tôi.

Cổ họng
tôi nghẹn lại khi anh kéo tôi ấp vào ngực.

- Anh
biết em là đủ, Mary. - Anh nhắc lại. Giọng nói của anh làm tôi run rẩy. Môi anh
ở trên tai tôi như thể anh đã đọc được những suy nghĩ trong đầu tôi rồi. - Ngay
cả cuộc sống với anh cũng chưa đủ hay sao, Mary?

Tôi đành
gật đầu với sự trống rỗng trong lòng vì tôi không dám nói cho anh nghe sự thật,
cho dù có đọc được ý nghĩ trong đầu tôi, cho dù có chứng minh với tôi rằng anh
hiểu tôi đến như thế nào, cho dù anh biết rõ câu trả lời của tôi. Và bởi vì tôi
vẫn còn hy vọng anh sẽ lấp đầy sự trống rỗng và những khao khát trong lòng tôi,
rằng sáng ngày mai, tôi vẫn có thể thức giấc trong vòng tay của anh và như thế
cũng đã là đủ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3