Máu Lạnh - Phần I - Chương 3
“Tớ biết, cậu
đang gặm móng tay,” Susan nói, đoán đúng. Dù cố mãi, Nancy vẫn không bỏ được cái thói quen cắn
móng tay, cứ hễ lúng túng là cô lại nhấm cho tới tận phần thịt mềm. “Kể đi. Xảy
ra chuyện gì không?”
“Không.”
“Nancy. C’est moi, là tớ đây nhá...” Susan đang
học tiếng Pháp.
“Được
thôi - là bố ấy mà. Ba tuần qua ông già nổi cơn đáng sợ. Đáng sợ. Ít nhất là
quanh quẩn chuyện của tớ. Đêm qua khi tớ về nhà, ông già lại bắt đầu chuyện đó.”
“Chuyện đó” không cần phải luận ra
nhiều; đó là một vấn đề hai cô bạn đã thảo luận toàn diện với nhau và tán
thành. Tóm tắt vấn đề từ quan điểm của Nancy,
Susan đã có lần nói, “Cậu yêu Bobby lúc này, và cậu cần hắn ta. Nhưng trong
thâm tâm Bobby cũng biết việc này rồi chẳng có tương lai gì. Sau này, khi chúng
mình rời đây đi Manhattan,
mọi cái lại sẽ có vẻ như một thế giới mới.” Đại học Bang Kansas
nằm ở Manhattan,
và hai cô dự định vào học nghệ thuật tại đó, ở chung phòng. “Cậu muốn hay không
thì mọi sự cũng đều sẽ thay đổi. Nhưng bây giờ thì cậu không thay đổi được tình
hình đâu, nếu cứ sống ở Holcomb này, ngày ngày gặp Bobby, ngồi cùng một lớp -
mà chẳng có lý do nào
để phải thay đổi. Vì cậu với Bobby là một chuyện rất vui. Và nó sẽ là một cái
gì vui vui để mà nghĩ lại - nếu cậu bị bỏ lại một mình. Cậu không làm cho ông
già hiểu được cái đó à?” Không, cô không làm được. “Vì,” như cô giải thích với
Susan, “cứ lúc nào tớ sắp sửa nói gì
thì ông già lại nhìn tớ như kiểu tớ chắc là không yêu ông già. Hoặc như kiểu tớ
đã bớt yêu đi. Thế
là thình lình lưỡi tớ cứng cả lại; tớ chỉ còn muốn là con gái ông già và làm
như ông già mong muốn thôi.” Susan không đối đáp lại được điều này; nó bao gồm
những xúc cảm, một mối quan hệ vượt ra ngoài trải nghiệm của cô. Cô sống một
mình với bà mẹ dạy nhạc ở Trường Holcomb, và cô không nhớ rõ ông bố lắm vì
nhiều năm trước đây, ở quê nhà California, một hôm ông Kidwell đã bỏ nhà đi và
không trở lại nữa.
“Mà
dầu sao thì mình cũng không chắc là tại mình,”
Nancy nói tiếp.
“Cái đó đang làm cho ông già thành ra bẳn tính. Một cái gì đó khác cơ - bố đang
lo một cái gì đó thật.”
“Mẹ
cậu chăng?”
Không
người bạn nào khác của Nancy
dám cho rằng, mình được phép gợi ý một điều tương tự. Nhưng Susan là người được
biệt đãi. Khi cô mới xuất hiện lần đầu tiên ở Holcomb, một đứa bé buồn rầu, có
óc tưởng tượng, mảnh dẻ, xanh xao và đa cảm, lúc đó lên tám, kém Nancy một
tuổi, nhà Clutter đã nồng nhiệt đón nhận cô đến mức cô bé California không cha
mau chóng đi tới chỗ xem mình là một thành viên của gia đình. Trong bảy năm
ròng, hai cô bạn không thể rời nhau, không ai thay được cho ai, do chỗ thật
hiếm khi tìm được người có những xúc cảm tương tự và đồng điệu như vậy. Nhưng
rồi tháng Chín vừa qua, Susan đã được chuyển từ trường địa phương lên một
trường rộng hơn và nghe bảo là cao cấp hơn ở Garden City. Đây là thủ tục quen
thuộc đối với những học sinh ở Holcomb có ý học tiếp cao đẳng, nhưng ông
Clutter, vốn là người ủng hộ cộng đồng đến chết, lại coi việc bỏ đi như vậy là
xúc phạm tới tinh thần cộng đồng; Trường Holcomb đủ tốt cho con cái ông và
chúng sẽ ở lại đây. Vậy nên hai cô gái không thể lúc nào cũng bên nhau nữa, và
Nancy thấu cảm sâu xa sự vắng mặt của cô bạn lúc ban ngày, người bạn mà khi ở
cạnh bên, cô không cần phải tỏ ra gan dạ hay giữ kẽ.
“Được.
Nhưng cả nhà mình rất mừng về việc mẹ cậu đã nghe thấy những tin tuyệt vời
đấy.” Rồi Nancy nói, “Này,” ngập ngừng tựa như lấy tinh thần để đưa ra một nhận
xét ghê gớm. “Tại sao mình
lại ngửi thấy mùi khói thuốc lá chứ nhỉ? Thật tình là mình nghĩ mình lẩm cẩm
mất rồi. Mình lên xe hơi, mình đi vào một gian phòng, thì y như rằng có ai đó
vừa mới ở đấy hút thuốc lá. Đó không phải mẹ, không thể là Kenyon. Kenyon không
dám đâu...”
Càng
không phải ông khách nào đến nhà Clutter, ở đây thẳng thừng không bày gạt tàn
thuốc lá. Từ từ, Susan nắm được cái ẩn ý, nhưng nó hơi lố bịch. Bất kể những
mối lo riêng tư của ông Clutter là thế nào, cô cũng không thể tin rằng ông đang
tìm khuây trong thuốc lá. Cô chưa kịp hỏi liệu có phải đó là điều Nancy muốn nói thật không thì Nancy dập máy. “Xin lỗi Susie, tớ phải đi, bà
Katz đang ở đây.”
Dick
lái chiếc xe Chevrolet 1949 mui kín màu đen. Khi lên xe, Perry đã soát cái ghế
đằng sau để xem cây ghi ta của hắn ở đấy nguyên lành không, đêm qua, sau khi
chơi cho một bữa liên hoan của các bạn Dick, hắn đã quên mất cây đàn và để nó
lại trong xe. Đó là một chiếc ghi ta Gibson cũ, đánh giấy ráp và quang dầu để
cho có màu vàng mật. Một loại công cụ khác nữa nằm bên cạnh nó - một khẩu súng
săn hai nòng 12 ly, mới toanh, thép xanh biếc, dọc theo báng súng khắc bằng
acid là cảnh một nhà thể thao và một đàn trĩ đang bay. Một cây đèn pin, một con
dao câu cá, một đôi găng da, và một chiếc áo vest đi săn nhét đầy vỏ ốc đã góp
thêm không khí vào bức tranh tĩnh vật lạ lùng này.
“Cậu
mặc nó à?” Perry hỏi, chỉ vào cái áo vest.
Dick
cong ngón tay gõ vào kính chắn gió. “Cạch, cạch. Thưa, xin lỗi ngài ạ. Chúng
tôi đang đi săn thì bị lạc đường. Chẳng hay chúng tôi có thể dùng điện thoại...”
“Si, señor. Yo comprendo[3].
”
[3] Tiếng Tây Ban Nha. Nghĩa là “Được. Tôi hiểu.”
“Chắc
cú luôn,” Dick nói. “Tớ hứa với cậu, bồ à, chúng mình sẽ hất tung tóe tóc lên
hết mấy bức tường của chúng nó đấy.”
“Mấy
bức tường đó,” Perry nói. Vốn là dân ghiền từ điển, một tay mê những chữ tối
nghĩa, hắn đã định nâng cấp ngữ pháp của đứa bạn đồng hành và mở rộng vốn từ
của nó ngay từ dạo hai đứa nằm cùng xà lim tại Nhà tù Bang Kansas. Chẳng những không chút ác cảm với
các bài học này, đứa học trò, để cho ông thầy vui lòng, cũng đã có lần sáng tác
ra một tập thơ, và tuy những câu thơ đó hết sức tục tĩu, song Perry thấy rất
buồn cười và vẫn đưa cho một xưởng thủ công trong tù đóng bìa da cho bản thảo
tập thơ, còn tên của nó, Những trò
đùa bẩn thỉu, thì được mạ vàng.
Dick
mặc bộ đồ trẻ con màu lam, dòng chữ máy trên lưng áo quảng cáo cho XƯỞNG SỬA
THÂN XE BOB SANDS. Hắn và Perry lái dọc theo tuyến đường chính của Olathe cho tới xưởng Bob
Sands, một gara sửa chữa xe hơi, Dick đã làm việc ở đấy từ ngày được ra tù vào
hồi giữa tháng Tám. Là thợ cơ khí có năng lực, hắn kiếm được sáu chục đô la một
tuần. Hắn không đáng ăn lương cho cái việc hắn định làm sáng nay, nhưng ông
Sands, vốn đã để hắn trông coi gara các ngày thứ Bảy, thì không bao giờ ngờ
được là ông đã trả lương cho gã thợ này để hắn tháo rời xe ông ra xem xét. Hắn
làm việc này, có Perry giúp đỡ. Chúng thay dầu, chỉnh lại khớp côn, nạp lại
bình ắc quy, đổi một chút ổ lăn nhả ly hợp và lắp lốp mới vào hai bánh sau -
mọi thứ cần thiết, vì trong hôm nay và ngày mai chiếc Chevrolet già nua này
đang được trông đợi thực hiện những kỳ công có mùi trừng phạt.
“Vì
lão khọm cứ ở bên,” Dick nói, trả lời Perry đang muốn biết tại sao hắn lại đến
quán Tiểu Kim hoàn trễ giờ. “Tớ không muốn lão khọm thấy tớ mang khẩu súng ra
khỏi nhà. Trời, giá mà lão ta biết tớ đã không nói thật nhỉ.”
“Đã
biết mới đúng. Nhưng cậu bảo thế nào? Cuối cùng ấy?”
“Như
chúng mình đã nói ấy. Tớ bảo chúng mình đi cả đêm - nói chúng mình đi thăm chị
cậu ở Fort Scott. Vì tính đến chuyện chị cậu đang
giữ tiền của cậu. Một nghìn rưỡi đô la.” Perry có một người chị, và đã có lúc
có hai, nhưng người chị còn sống thì không ở Fort Scott, một thị trấn ở Kansas
cách Olathe tám lăm dặm; thực tình hắn cũng chẳng chắc về địa chỉ hiện nay của
chị hắn.
“Ông
ấy có ức không?”
“Sao
lại ức?”
“Vì
ông ấy căm tớ,” Perry nói, giọng vừa nhẹ nhàng vừa nghiêm túc - một cái giọng
tuy mềm dịu nhưng chế tác chính xác từng từ một, làm nó bật ra như vòng tròn
khói từ miệng một vị thầy tu. “Mẹ cậu cũng ghét tớ. Tớ thấy được cái lối các cụ
nhìn tớ, không tả được.”
Dick
nhún vai. “Chẳng liên can gì tới cậu cả. Vậy thôi. Y như họ không thích tớ gặp
bất cứ ai ở các Bức Tường.” Hai lần lấy vợ, hai lần bỏ vợ, bây giờ hai mươi tám
và bố của ba đứa con trai, Dick đã được phóng thích theo lời hứa không tái phạm
và với điều kiện hắn về ở với bố mẹ; gia đình có một đứa em trai nữa, sống ở
một cái trại nhỏ gần Olathe.
“Ai cũng mang một cây kim huynh đệ,” hắn nói thêm, tay sờ vào một nốt màu lam
xăm ở dưới mắt trái - một huy hiệu, một mật hiệu dễ nhìn thấy nhờ đó một số bạn
tù trước đây có thể nhận ra hắn.
“Tớ
hiểu,” Perry nói. “Tớ có thiện cảm với cái đó. Các cụ là người tử tế. Thật tình
bà cụ là một người dễ mến, mẹ cậu ấy.”
Dick
gật đầu; hắn cũng nghĩ vậy.
Buổi
trưa, chúng buông đồ nghề, và Dick cho nổ máy, nghe tiếng máy ro ro đều chắc,
hắn hài lòng vì đã làm được ra đầu ra đuôi một công việc.
Nancy và cô trò nhỏ, Jolene
Katz, cũng hài lòng về công việc sáng hôm đó của mình; thật ra thì cô trò nhỏ,
một cô bé mười ba tuổi gầy, tự hào ra mặt. Một hồi lâu, cô nhìn vào người đoạt
giải ruy băng lam, vào những quả anh đào trên lò nóng đang lim dim sủi bên dưới
lớp cùi bánh khía mắt cáo giòn tan, rồi không nhịn được nữa, cô ôm chầm lấy
Nancy hỏi: “Nói thật đấy nhé, em có tự làm được bánh không?” Nancy cười, ôm lại và bảo cho Jolene yên tâm
là làm được - với một ít chút đỡ đần.
Jolene
đòi nếm ngay bánh - không lẽ để cho nó nguội, thế thì vô lý quá. “Xin mời, hai
chị em mình mỗi người một miếng đi nào. Và cả bác nữa nhé,” cô nói với bà
Clutter vừa đi vào bếp. Bà Clutter cười - định thế; đầu bà nhức - và nói cảm ơn
cháu, nhưng bà chẳng thiết ăn. Còn Nancy thì không có thì giờ; Roxie Lee Smith
và bài độc tấu trompet của Roxie Lee Smith đang chờ cô, rồi thì sau đó mấy việc
vặt cho mẹ, trong đó có cái liên quan tới buổi liên hoan mừng đám cưới mà vài
cô gái ở Garden City tổ chức cho Beverly, và một việc nữa là tới gala lễ Tạ ơn.
“Con
đi đi, mẹ sẽ chơi với Jolene cho tới khi mẹ con bé đến đón,” bà Clutter nói,
rồi quay sang đứa trẻ với một vẻ nhút nhát không che giấu nổi, bà nói thêm,
“Nếu như Jolene thấy ở bên bác không
sao cả.” Thời con gái, bà đã được một giải về đọc thơ; hình như đến tuổi trưởng
thành tiếng nói của bà rút lại thành ra một cái giọng đơn điệu, cái giọng của
vai vế, thân phận, và cả con người bà cũng bị rút lại chỉ còn là một loạt những
cử chỉ bị che mờ do nỗi sợ xúc phạm người khác, làm cho người khác phật lòng.
“Bác mong cháu hiểu,” bà nói tiếp sau khi con gái đã đi. “Bác mong cháu đừng
nghĩ là Nancy
khô khan với cháu.”
“Ồ
bác ơi, không đâu. Chính cháu đang yêu chị ấy muốn chết lên đây mà. Vâng, ai
cũng yêu chị ấy. Chẳng có ai như chị Nancy
đây. Bác có biết bà Stringer nói sao không bác?” Jolene nói, viện tên cô giáo
dạy gia chánh của mình ra. Có lần cô bảo với cả lớp, ‘Nancy lúc nào cũng bận nhưng lúc nào cũng tìm
ra được thì giờ. Một bậc phu nhân là thế nào thì định nghĩa là ở Nancy đấy các em’.”
“Ờ,”
bà Clutter đáp. “Tất cả các con bác đều được việc cả. Tụi nó không cần đến bác.”
Trước
đây Jolene chưa từng ở một mình với bà mẹ “là lạ” của Nancy bao giờ, nhưng bất
chấp những lời bàn tán nghe được, cô vẫn thấy rất dễ chịu, vì tuy bà Clutter
không thoải mái với chính mình, bà lại có một ưu điểm là làm cho người khác
thoải mái, những người hiền lành yếu đuối, không bao giờ đe dọa ai vẫn thường
như vậy; khuôn mặt trái xoan của bà, khuôn mặt người truyền giáo, cái vẻ siêu
thoát mộc mạc không thể tự vệ của bà cũng đã khơi dậy một tình thương mến muốn
chở che ở ngay chính Jolene, một đứa trẻ còn rất con nít. Nhưng nghĩ rằng bà là
mẹ của Nancy
thì thật là khó! Một bà cô thì có vẻ còn được; một bà cô không chồng đến thăm
viếng, hơi kỳ kỳ nhưng tốt.
“Không,
tụi nó không cần bác,” bà nhắc lại, tự rót cho mình một tách cà phê. Tuy mọi
người trong nhà đều tuân lời chồng bà tẩy chay món đồ uống này, bà vẫn mỗi sáng
uống hai tách và có khá nhiều ngày bà không ăn gì, chỉ uống cà phê trừ bữa. Bà
nặng bốn mươi chín cân; những cái nhẫn, một lắc cưới và một chiếc có mặt xoàn
khiêm nhường đến mức nom xoàng xĩnh - khẽ rung rung trên một bàn tay xương xẩu
của bà.
Jolene
cắt một miếng bánh. “Úi!” cô nói rồi nuốt ngay. “Sắp sửa cả tuần bảy ngày ngày
nào cháu cũng làm bánh mất thôi.”
“Đúng,
cháu có một lô em trai, mà bọn con trai thì ăn được nhiều bánh này lắm đấy. Bác
trai và Kenyon chẳng bao giờ chán, bác biết mà. Nhưng nhà bếp - Nancy ấy, chính nó làm ra
rồi lại ngoảnh mặt chả thèm. Cái ấy cũng giống như cháu. Không - không kìa, tại
sao bác lại nói cái này nhỉ?” Đeo cặp kính không gọng, bà Clutter tháo nó ra,
lấy tay day mắt. “Cháu yêu, thứ lỗi cho bác. Bác chắc cháu chẳng bao giờ biết
thế nào là mệt đâu. Bác chắc là cháu sẽ luôn luôn được hạnh phúc...”
Jolene
im lặng. Âm sắc hoảng loạn trong giọng bà Clutter làm cô thay đổi cảm xúc;
Jolene bối rối, mong mẹ đến ngay bây giờ, mặc dù bà đã hứa ghé đón cô về lúc
mười một giờ.
Lúc
này, đã bình tĩnh lại, bà Clutter hỏi, “Cháu có thích những thứ nhỏ xiu xíu
không? Những thứ bé tẹo ấy?” rồi mời Jolene vào trong phòng ăn để xem xét những
cái ngăn giá đựng các thứ kỷ niệm tí hon nhăng nhít - kéo, đê, lẵng hoa pha lê,
tượng, dao, nĩa. “Bác có vài thứ này từ ngày còn Bố và mẹ - cả nhà bác - sống ở
California
gần hết năm. Bên đại dương. Và có một cửa hàng bán các thứ nho nhỏ quý giá như
thế này. Những cái tách này.” Một bộ tách uống trà của nhà búp bê, cột chặt vào
cái khay khẽ run rẩy trong lòng bàn tay bà. “Bố bác cho bác đấy; bác có một
tuổi thơ đẹp.”
Là
con gái duy nhất của một người trồng lúa mì giàu có tên là Fox, cô em yêu dấu
của ba người anh trai, không phải được chiều quá thành hư mà là chuyện gì cũng
được xí xóa cho qua, bà đã đi tới chỗ cho rằng đời là một chuỗi những sự kiện
vui vầy - mùa thu ở Kansas, mùa hè ở California, một bộ tách xíu xiu quà tặng.
Khi bà mười tám, bốc lên vì tiểu sử của Florence Nightingale, bà ghi tên học nữ
y tá ở Bệnh viện Thánh Hoa Hồng tại Vòng Quẹo Lớn, Kansas. Bà không có ý làm nữ
y tá, sau hai năm bà đã thổ lộ ra: những thực trạng của một bệnh viện - quang
cảnh, những cái mùi - làm cho bà phát ốm. Nhưng đến nay bà lại tiếc đã không
học hết khóa để nhận bằng tốt nghiệp - “chỉ để chứng minh,” như bà nói với
người bạn, “rằng đã có một lần tôi thành công một việc gì.” Thay vì thế, bà đã
gặp và lấy Herb, bạn học cùng lớp với người anh của bà, Glenn; thật ra, do hai
gia đình sống cách nhau hai chục dặm, bà đã biết mặt ông từ lâu nhưng nhà
Clutter, dân làm trại chay, không đủ vai vế đặng mà tới lui thăm viếng nhà Fox
sung túc và có học. Nhưng Herb đẹp, sùng đạo, có ý chí mạnh, ông muốn bà - và
bà phải lòng ông.
“Bác
trai đi nhiều lắm,” bà nói với Jolene. “Ôi, bác ấy luôn đi đến đâu đó. Washington rồi Chicago rồi
Oklahoma rồi Kansas City - đôi lúc cứ như không bao giờ
bác ấy ở nhà. Nhưng bất cứ đến đâu, bác trai cũng nhớ là bác chuộng những thứ
be bé này.” Bà xòe ra một chiếc quạt giấy nhỏ xíu. “Bác trai đem từ San Francisco về cho bác
đấy. Giá chỉ có một xu. Nhưng có đẹp không cháu?”
Sau
đám cưới một năm, Eveanna ra đời, rồi ba năm sau, Beverly; sau mỗi lần ở cữ
người mẹ trẻ lại trải qua một phen chán nản không thể giải thích - những cơn
sầu khổ đưa bà đi vất vưởng từ phòng này sang phòng kia trong trạng thái mê mụ
khiến ai nhìn cũng phải đau lòng. Giữa hai lần Beverly và Nancy ra đời, hơn ba
năm trôi qua, đó là những năm đi picnic Chủ nhật và du lịch mùa hè tới
Colorado, những năm bà thật sự cai quản ngôi nhà của mình và là trung tâm hạnh
phúc của nó. Nhưng tới Nancy
rồi Kenyon, kiểu suy nhược sau khi đẻ tự nó đã tái phát, và tiếp theo lần đẻ
cậu con trai thì tâm trạng khốn đốn buông trùm xuống bà và hoàn toàn không bao
giờ nhấc lên nữa; nó vương vất như một dải mây có thể tuôn mưa mà cũng có thể
không. Bà đã biết đến “những ngày tốt lành” và đôi khi chúng tích lại thành
tuần thành tháng, nhưng ngay cả vào lúc khá nhất của những ngày tốt lành, những
ngày bà là “cái Tôi xưa” của bà, cô gái Bonnie trìu mến đáng yêu được bè bạn
cưng chiều, bà cũng không sao khơi ra được cái tài quảng giao xã hội mà các
hoạt động cứ chất lên chót vót của chồng bà đòi hỏi. Ông là một “người nhập
cuộc,” một “thủ lĩnh bẩm sinh”. Bà thì không, và đã thôi không cố trở thành
người như thế nữa. Và thế là, dọc con đường được viền bằng lòng tương kính như
tân, bằng sự tin cậy tuyệt đối, họ bắt đầu đi những lối nẻo chia ly nửa vời của
họ - ông một ngả công cộng, một cuộc tiến quân của những chiếm lĩnh mãn nguyện,
và ngả của bà, một ngả riêng tư rốt cuộc cũng vòng vèo qua các hành lang bệnh
viện. Nhưng bà không phải không có hy vọng. Lòng tin ở Chúa nâng đỡ bà, và
thỉnh thoảng những cội nguồn cổ xưa sâu thẳm đã phụ bổ thêm cho bà lòng tin vào
Chúa luôn sẵn sàng thương xót; bà đọc một phương thuốc nhiệm màu, bà nghe một
cách điều trị mới, hoặc như gần đây nhất, bà đã dứt khoát tin rằng để cho “thần
kinh bị giày vò” là chuyện đáng phải trách cứ.
“Những
thứ nho nhỏ này thật sự là của cháu,” bà nói, gập chiếc quạt lại. “Không cần để
lại đâu. Cháu có thể mang chúng đi trong một cái hộp đựng giày.”
“Mang
đến đâu ạ?”
“Còn
đâu nữa, đến chỗ nào cháu đến ấy. Đáng lẽ cháu đã đi lâu rồi mới phải.”
Trước
đây mấy năm, bà Clutter có du lịch đến Wichita
để điều trị hai tuần và rồi lưu lại hai tháng ở đó. Theo lời khuyên của bác sĩ,
vốn đã nghĩ rằng thí nghiệm này sẽ giúp bà phục hồi một “cảm nhận mình phù hợp
và hữu ích với mọi người”, bà lấy một căn hộ và tìm việc làm - thư ký văn thư ở
Y.W.C.A. Chồng bà hoàn toàn tán thưởng, khuyến khích cuộc phiêu lưu, nhưng bà
lại thích nó, thích quá đến mức bà thấy hình như nó trái với lẽ Cơ đốc và hậu
quả là mặc cảm phạm tội lớn dần, cuối cùng nó đè bẹp mất giá trị liệu pháp của
cuộc thí nghiệm.
“Hoặc
có thể cháu chẳng bao giờ về nhà. Vậy thì có một cái gì luôn ở bên người cháu
là điều quan trọng đấy. Những thứ này thật sự là của cháu.”
Chuông
cửa réo. Đó là mẹ Jolene.
Bà
Clutter nói, “Chào cháu yêu,” rồi ấn vào tay Jolene chiếc quạt giấy. “Thứ này
chỉ đáng có một xu thôi. Nhưng mà đẹp.”
Sau
đó còn lại mỗi một mình bà Clutter ở nhà. Kenyon và ông Clutter lên Garden
City; Gerald Van Vleet nghỉ ngày hôm nay; còn người dọn dẹp nhà cửa, bà Helm
tốt bụng mà bà có thể tâm sự mọi điều, thì không đến những ngày thứ Bảy. Bà có
thể trở về với cái giường của bà, chẳng sao cả - ít khi bà rời nó, đến nỗi bà
Helm tội nghiệp phải quần thảo mới có cơ lấy được vải giường ra thay hai lần
một tuần.

