Kiến - Chương 3 - Phần 4
Người ta điều
chỉnh cho các mép thật song song, họ giữ chúng chạm vào nhau. Sau đó họ mang ấu
trùng tươi đến. Con tội nghiệp ấy đang xây kén cho mình để thanh thản lột xác,
người ta chẳng để nó hưởng thú vui đó nữa. Một con thợ cầm cái dây trong cuộn
này và bắt đầu tháo ra. Với một chút nước bọt, nó dính đầu sợi chỉ với một cái
lá và sau đó đưa cái kén cho người bên cạnh.
Ấu trùng, cảm
giác là người ta đang kéo dây của mình, làm ra những sợi khác để bù vào. Người
ta càng lột trần nó, nó càng lạnh và càng nhả tơ. Các kiến thợ tranh thủ điều
đó. Chúng truyền từ răng này sang răng khác con thoi sống và không tiết kiệm
lượng sợi. Khi đứa con của chúng chết, kiệt sức, chúng lấy một con khác. Vậy là
mười hai ấu trùng đã bị hiến sinh cho duy một công việc này.
Chúng kết thúc
việc khâu mép thứ hai của cái lá-trần; ngôi làng giờ mang dáng vẻ của một cái
hộp xanh có các cạnh màu trắng. 103 683, đang đi dạo ở đó gần như ở nhà mình,
rất nhiều lần nhận ra kiến đen ở giữa đám đông kiến đỏ. Nó không thể ngăn mình
chất vấn.
Đó là lính
đánh thuê à?
Không, đó là
nô lệ.
Thế nhưng, kiến
đỏ không nổi tiếng về phong tục theo chế độ nô lệ… Một trong số chúng đồng ý
giải thích là mới đây chúng gặp một bầy kiến chủ nô lệ đi về hướng Tây, và thế
là bầy này đã đổi những quả trứng kiến đen lấy một cái tổ dệt xách tay.
103 683 không tha
cho người đối thoại của mình nhanh như thế và hỏi nó là sau đó cuộc gặp gỡ
không quay sang đánh lộn à. Con kia trả lời là không, rằng những con kiến ghê
gớm đó đã ăn no nê, chúng chỉ có quá nhiều nô lệ thôi; hơn nữa, chúng sợ cái
ngòi chết người của kiến đỏ.
Những con kiến
đen sinh ra từ những quả trứng được đổi chác ấy lấy mùi thông hành của chủ chúng
và phục vụ họ như là cha mẹ mình. Và làm thế nào mà chúng có thể biết được là
di sản di truyền của chúng biến chúng thành những kẻ săn mồi chứ không phải
thành những nô lệ? Chúng chẳng biết gì về thế giới bên ngoài ngoài những gì
kiến đỏ muốn kể cho chúng.
Các ngươi
không sợ chúng nổi dậy sao?
Đúng, đã từng
nhiều lần giật mình. Thông thường, kiến đỏ linh cảm và chuẩn bị đối phó trước
với các rắc rối bằng cách loại những kẻ ương ngạnh bị cô lập. Hễ kiến đen còn
chưa biết rằng chúng bị đánh cắp trong tổ, rằng chúng thuộc một loài khác,
chúng vẫn thiếu một động cơ thực sự…
Màn đêm và cái
lạnh buông xuống cây phỉ. Người ta cho hai nhà thám hiểm một góc để qua một đêm
ngủ đông ngắn.
Chli-pou-kan lớn
lên từ từ. Đầu tiên người ta tổ chức Cấm Thành. Nó đã không được xây dựng trong
một gốc cây, nhưng trong một thứ kỳ lạ bị vùi ở đó; một hộp đồ hộp gỉ, thực ra,
trước kia có ba cân mứt quả ở trong, đồ vứt đi từ một trung tâm trẻ mồ côi gần
đó.
Trong cung điện
mới này, Chli-pou-ni nhiệt tình đẻ trong khi người ta nhồi cho nó đầy đường, mỡ
và vitamin.
Những đứa con gái
đầu tiên đã xây ngay dưới Cấm Thành một nhà trẻ được sưởi bằng mùn đang phân
hủy. Đó là thứ tiện lợi hơn cả, trong lúc chờ đợi mái vòm bằng cành cây và
phòng tắm nắng báo hiệu công việc kết thúc.
Chli-pou-ni muốn
là tổ của mình hưởng mọi công nghệ nổi tiếng: các gian trồng nấm, kiến bình
chứa, gia súc rệp, cây thường xuân làm trụ, phòng lên men mật, phòng sản xuất
bột ngũ cốc, phòng lính đánh thuê, phòng gián điệp, phòng hóa học hữu cơ, vân
vân…
Và không khí nhộn
nhịp ở mọi ngóc ngách. Kiến chúa trẻ biết truyền đạt nhiệt huyết và những mong
muốn của nó. Nó không chấp nhận Chli-pou-kan là một thành phố liên bang như
những thành phố khác. Nó tham vọng biến thành phố của mình thành một cực tiền
tiêu, là điểm đầu của nền văn minh myrmécéen. Hơn nữa, nó có đầy đề xuất.
Ví dụ, người ta
đã phát hiện ra một lạch nước ngầm xung quanh tầng -12. Theo nó, nước là một
yếu tố chưa được nghiên cứu nhiều. Người ta có lẽ sẽ tìm ra một biện pháp đi
được trên mặt nước.
Trong thời gian
đầu, một nhóm chịu trách nhiệm nghiên cứu các loài côn trùng sống ở nước ngọt:
cà niễng, độc nhãn, rận nước… Có ăn được chúng không? Một ngày nào đó, liệu
người ta có thể nuôi được chúng trong các vũng nước được kiểm soát không?
Bài diễn văn đầu tiên
nổi tiếng của nó, nó phát biểu về chủ đề rệp:
Chúng ta đang
tiến tới một thời kỳ biến loạn chiến tranh. Các loại vũ khí càng ngày càng tối
tân hơn. Chúng ta sẽ không thể luôn theo kịp. Một ngày nào đó, có thể săn bắt
bên ngoài sẽ trở nên bấp bênh. Chúng ta phải dự đoán được điều tồi tệ nhất. Tổ
của chúng ta phải mở rộng xuống sâu nhất có thể. Và chúng ta phải ưu tiên nuôi
rệp hơn mọi hình thức cung cấp đường sống khác. Gia súc này sẽ được đặt trong
các chuồng nằm ở các tầng sâu nhất…
Ba mươi đứa con
gái của nó ra ngoài và mang về hai con rệp sắp đẻ. Sau vài giờ, chúng có khoảng
một trăm con rệp nhỏ mà chúng cắt cánh luôn. Chúng xếp đàn gia súc này ở tầng
-23, tránh khỏi lũ bọ rùa, và cung cấp cho lũ gia súc đầy đủ lá tươi và cọng
đầy nhựa.
Chli-pou-ni phái
các nhà thám hiểm đi khắp nơi. Một số con mang về bào tử nấm mũ sau đó được
trồng ở các trại trồng nấm. Thậm chí, kiến chúa đầy tham vọng khám phá quyết
định thực hiện giấc mơ của mẹ mình: nó trồng một hàng hạt hoa ăn thịt ở biên
giới Đông. Nó hy vọng như thế sẽ kìm hãm được một cuộc tấn công của bọn mối có
thể xảy ra và vũ khí bí mật của chúng.
Vì nó chưa quên
được bí ẩn của vũ khí bí mật, vụ ám sát hoàng tử 327 và dự trữ lương thực giấu
dưới đá granit.
Nó phái gấp một
nhóm sứ giả đi về hướng Bel-o-kan. Xét một cách chính thức, những sứ giả này
được ủy thác báo cho kiến chúa mẹ là tổ thứ sáu mươi lăm được xây dựng và sự
gia nhập của tổ vào Liên bang. Nhưng xét một cách không chính thức, chúng sẽ
phải cố tiếp tục cuộc điều tra ở tầng -50 của Bel-o-kan.
Tiếng chuông vang
lên khi bà Augusta
đang ghim những bức ảnh màu nâu quý giá lên bức tường xám. Bà kiểm tra xem cái
xích an toàn đã được cài chưa và hé mở cửa.
Một người đàn ông
trung tuổi đứng đó, ăn mặc sạch sẽ; thậm chí không có cả gàu trên ve áo vest của
ông ta.
- Chào bà Wells.
Tôi xin tự giới thiệu: Giáo sư Leduc, một đồng nghiệp của con trai Edmond của bà. Tôi sẽ
không quanh co. Tôi biết bà đã mất cháu trai và chắt của mình trong cái kho
chứa đồ. Và còn tám lính cứu hỏa, sáu hiến binh và hai cảnh sát cũng biến mất
như thế ở dưới. Thế nhưng, thưa bà… tôi mong được xuống dưới đó.
Augusta không chắc là đã nghe rõ. Bà chỉnh cái
máy trợ thính của mình tới âm lượng tối đa.
- Anh là Giáo sư
Rosenfeld?
- Không. Leduc.
Giáo sư Leduc. Tôi thấy là bà đã từng nghe nói về Rosenfeld. Rosenfeld, Edmond và tôi, cả ba đều
là nhà côn trùng học. Chúng tôi có chung một chuyên môn: nghiên cứu kiến. Nhưng
chỉ mỗi Edmond
tiến trước chúng tôi khá nhiều. Sẽ thật là đáng tiếc nếu không làm cho nhân
loại thừa hưởng được nó… Tôi mong được xuống kho chứa đồ của bà.
Khi người ta nghe
không rõ, người ta nhìn rõ hơn. Bà xem xét tai của ông Leduc này. Con người có
một đặc điểm là giữ trong mình hình dáng quá khứ xa xưa nhất của họ; tai, về
mặt đó, thể hiện thai nhi. Dái tai biểu tượng cho đầu, cạnh vành tai cho hình
dạng của cột sống, vân vân… Ông Leduc này chắc là một bào thai gầy, và bà Augusta đánh giá dè dặt
những bào thai gầy.
- Anh muốn tìm
thấy gì trong cái kho chứa đồ này?
- Một quyển sách.
Một quyển bách khoa toàn thư trong đó ông ấy ghi chép một cách hệ thống tất cả
các công việc của mình. Edmond
là người hay bí mật. Chắc ông ấy phải chôn hết dưới đó, và đặt bẫy để giết chết
hoặc đẩy lùi những kẻ lỗ mãng. Nhưng tôi, tôi là một người lão luyện và một
người lão luyện…
- … rất có thể bị
chết nữa! - Bà Augusta thêm vào.
- Hãy cho tôi thử
cơ may của mình.
- Vào đi, anh…?
- Leduc, Giáo sư
Laurent Leduc ở phòng thí nghiệm CNRS 352.
Bà dẫn ông ta tới
phía kho chứa đồ. Một dòng chữ lớn màu đỏ được sơn lên bức tường mà cảnh sát
xây:
ĐỪNG BAO GIỜ
XUỐNG CÁI KHO CHỨA ĐỒ ĐÁNG NGUYỀN RỦA NÀY NỮA!
Bà chỉ nó cho ông
ta bằng một cái hất cằm.
- Anh có biết
những người trong tòa nhà này nói gì không, anh Leduc? Họ nói đó là một cái
miệng của địa ngục. Họ nói rằng cái nhà này ăn thịt người và nó ăn những người
tới làm ngứa họng nó… Thậm chí một số người muốn người ta đổ bê tông nó.
Bà nhìn ông ta từ
trên xuống dưới.
- Anh không sợ
chết hả, anh Leduc?
- Có chứ, - ông
nói, và ông cười vẻ ranh mãnh. - Có chứ, tôi sợ chết ngốc nghếch, mà không biết
có gì dưới đáy kho chứa đồ này.
103 683 và 4 000
đã rời tổ của kiến đỏ thợ dệt từ mấy ngày nay. Hai chiến binh có ngòi nọc nhọn
đi cùng chúng. Chúng đã cùng nhau đi rất lâu theo các dấu vết chỉ được phun
chút ít pheromon đánh dấu. Chúng đã vượt qua đoạn đường hàng nghìn đầu kể từ
cái tổ được dệt trong những cành cây phỉ. Chúng đã gặp đủ loại động vật ngoại
lai mà nhiều loài chúng thậm chí không biết tên. Nghi ngờ, chúng tránh tất.
Khi đêm đến,
chúng đào đất sâu nhất có thể rồi rúc vào trong, tận dụng luôn hơi ấm êm dịu và
sự bảo vệ của hành tinh nuôi dưỡng chúng.
Hôm nay, hai con
kiến đỏ dẫn chúng tới tận đỉnh một quả đồi.
Điểm tận cùng
thế giới còn xa không?
Đằng kia.
Từ mũi đất của
mình, hai con kiến đỏ hung phát hiện, ở tít xa mù khơi về phía Đông, một thế
giới của những bụi rậm tối tăm. Những con kiến đỏ báo cho chúng là nhiệm vụ của
họ đã kết thúc, rằng họ không theo chúng đi xa hơn nữa. Có một số nơi mà mùi
của kiến đỏ không được chào đón.
Hai cư dân
Bel-o-kan phải tiếp tục đi thẳng cho tới những cánh đồng của kiến thợ gặt.
Những con này sống thường xuyên ở xung quanh “điểm tận cùng thế giới”; chắc
chắn họ sẽ biết chỉ dẫn chúng.
Trước khi rời
những người dẫn đường của mình, hai con kiến đỏ hung giao các pheromon nhận
dạng quý giá của Liên bang, giá thỏa thuận của chuyến đi. Sau đó chúng chạy
xuống dốc tới ruộng do những kiến thợ gặt nổi tiếng trồng.
BỘ XƯƠNG: Nên
có một bộ xương ở bên trong hay ở bên ngoài cơ thể thì tốt hơn?
Khi một bộ
xương ở bên ngoài, chúng tạo thành một cái thùng bảo vệ. Thịt tránh được những
nguy hiểm bên ngoài nhưng nó trở nên nhão và gần như thành chất lỏng. Và, khi,
bất chấp lớp vỏ, một vật nhọn xuyên qua được, thì thiệt hại không thể cứu vãn
nổi.
Khi một bộ
xương chỉ tạo thành một cột mảnh và cứng ở bên trong cả khối, thịt phập phồng bị
phơi ra cho tất cả các kiểu tấn công. Các vết thương nhiều và thường xuyên.
Nhưng, đúng là, điểm yếu hiển nhiên này buộc cơ bắp phải cứng hơn và thớ thịt
phải chịu đựng được. Thịt tiến hóa.
Tôi đã thấy,
nhờ vào tinh thần của mình, nhiều người tôi luyện được các lớp vỏ “trí tuệ” bảo
vệ họ khỏi những bực dọc. Họ có vẻ cứng rắn hơn mức bình thường. Họ nói “tôi
mặc kệ” và cười tất cả. Nhưng khi một sự phiền lòng xuyên qua được lớp vỏ của
họ, thiệt hại khủng khiếp.
Tôi đã thấy
những người đau đớn vì một điều phật ý nhỏ nhất, vì một tác động nhỏ nhất,
nhưng tinh thần họ không vì thế mà khép lại, họ vẫn nhạy cảm với tất cả và học
hỏi được từ mỗi lần tấn công.
Edmond Wells,
Bách khoa toàn
thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.
Bọn chủ nô lệ
tấn công!
Sợ hãi ở Chli-pou-kan.
Quân trinh sát mệt lử truyền tin trong khu tổ non trẻ.
Chủ nô lệ! Chủ
nô lệ!
Tiếng tăm gớm
ghiếc của chúng tới trước chúng. Cũng như một số loài kiến ưu tiên đường lối
phát triển nào đó - chăn nuôi, tích trữ, trồng nấm hay hóa học - kiến chủ nô lệ
chuyên biệt duy nhất trong lĩnh vực chiến tranh.
Chúng chỉ biết
làm mỗi thế, nhưng thực hiện nó giống như một nghệ thuật tuyệt đối. Và cả cơ
thể chúng thích nghi với công việc đó. Khớp nhỏ nhất trong chỗ khớp của chúng
kết thúc bằng một móc cong, kitin của chúng có độ dày gấp đôi kitin của kiến đỏ
hung. Cái đầu hẹp và hình tam giác hoàn toàn không để bất kỳ cái vuốt nào bám
vào được. Răng chúng, hình ngà voi lộn ngược lại, là hai thanh kiếm cong vút mà
chúng sử dụng một cách khôn khéo đáng gờm.
Về phong tục chủ
nô lệ, chúng sinh ra tự nhiên từ sự chuyên biệt hóa cực đoan của loài kiến này.
Thậm chí, thiếu chút nữa thì cả loài biến mất, bị hủy diệt bởi chính ý muốn
chứng tỏ sức mạnh của mình. Mải mê chinh chiến, những con kiến này không biết
xây tổ, nuôi con của chúng, hay thậm chí… tự nuôi bản thân mình nữa. Những
chiếc răng-gươm của chúng, thật hiệu quả trong các trận chiến, lại tỏ ra rất
bất tiện để tự nuôi dưỡng một cách bình thường. Tuy nhiên, đối với những kẻ
hiếu chiến như chúng, bọn chủ nô lệ không ngu ngốc. Vì chúng không còn khả năng
thực hiện những việc nội trợ cần thiết cho cuộc sống hàng ngày… những kẻ khác
sẽ làm thay chúng.
Chủ nô lệ chủ yếu
tấn công các tổ cỡ nhỏ và trung bình của kiến đen, kiến trắng hay kiến vàng -
tất cả những loài không có nọc cũng như không có tuyến axít. Đầu tiên chúng bao
vây ngôi làng chúng muốn. Ngay khi những kẻ bị vây hãm nhận ra là tất cả kiến
thợ đi ra ngoài bị giết chết hết, những con này quyết định bịt các lối vào. Đó
chính là thời điểm mà kiến chủ nô lệ chọn để tung đợt tấn công đầu tiên của
mình. Chúng dễ dàng vượt qua mọi tuyến phòng thủ, mở toang các cửa trong tổ,
reo rắc sợ hãi ở các hành lang.
Chính lúc đó,
kiến thợ hoảng sợ tìm cách mở một lối thoát để cất trứng vào nơi an toàn. Chính
xác những gì mà kiến chủ nô lệ đã dự đoán. Chúng kiểm tra mọi lối thoát và bắt
đám kiến thợ bỏ gánh nặng quý báu đó lại. Chúng chỉ giết những con không muốn
tuân lệnh; ở loài kiến, người ta không bao giờ giết chóc vô cớ.
Cuối trận chiến,
kiến chủ nô lệ bao vây tổ, yêu cầu những kiến thợ sống sót đặt trứng lại vị trí
và tiếp tục chăm sóc chúng. Khi các ấu trùng nở, chúng được dạy phục vụ những
kẻ xâm lược, và vì không biết gì về quá khứ chúng nghĩ rằng vâng lời những con
kiến to kia là cách sống chuẩn và bình thường.
Trong các cuộc
càn quét, đám nô lệ lâu năm lùi lại phía sau, trốn trong cỏ, đợi lúc chủ của
mình dọn dẹp xong khu vực. Một khi thắng trận, là những người nội trợ nhỏ giỏi
giang, chúng đến ở những nơi đó, trộn lẫn chiến lợi phẩm trứng cũ với những quả
trứng mới, giáo dục tù nhân và con cái của họ. Những thế hệ bị bắt cóc cứ như
thế chồng chất lên nhau, tùy theo sự di chuyển của kẻ cướp.
Thông thường, cần
phải có ba nô lệ để phục vụ mỗi kẻ cướp này. Một để nuôi nó (nó chỉ biết ăn
những thức ăn ợ ra mà người ta mớm cho); một để tắm cho nó (các tuyến nước bọt
của nó đã bị teo đi); một để dọn phân, nếu không, phân sẽ chất đống xung quanh
vỏ và ăn mòn nó.
Chắc chắn, điều
tồi tệ nhất có thể tới với những con chiến binh tuyệt đối này là bị người hầu
của chúng bỏ rơi. Thế là chúng vội vàng rời khỏi tổ cướp được và đi tìm một tổ
mới để chinh phục. Nếu chúng không tìm thấy trước buổi đêm, chúng có thể chết
vì đói và lạnh. Cái chết nực cười nhất cho những chiến binh huy hoàng này.
Chli-pou-ni đã
nghe kể nhiều truyền thuyết về chủ nô lệ. Người ta khẳng định đã có những cuộc
nổi dậy của nô lệ, và những nô lệ, biết rõ chủ mình, dĩ nhiên cũng không thua
kém gì. Người ta cũng kể lại là một số chủ nô lệ sưu tập trứng kiến, với ý
tưởng có một bộ đủ tất cả các kiểu kích cỡ và tất cả các loài.
Nó hình dung ra
một phòng đầy những quả trứng như thế, các loại kích thước, các kiểu màu sắc.
Và dưới mỗi lớp bọc trắng… một nền văn hóa myrmécéen đặc thù, sẵn sàng thức dậy
để phục vụ tên đầu óc sơ đẳng thô lỗ này.
Nó khổ tâm với ý
nghĩ nặng nề của mình. Trước tiên phải nghĩ cách đối đầu đã. Bọn chủ nô lệ được
báo là tới từ phía Đông. Quân trinh sát và mật thám Chli-pou-kan cam đoan là
chúng có từ bốn trăm đến năm trăm nghìn lính. Chúng qua sông bằng đường hầm của
cảng Sateï. Và chúng có vẻ khá “khó chịu”, vì chúng có một cái tổ di động dệt
bằng lá mà chúng đã phải phá để qua được đường hầm. Như thế, chúng không còn
nhà ở nữa, và nếu chúng không chiếm Chli-pou-kan, chúng sẽ phải qua đêm ngoài
trời!
Kiến chúa trẻ cố
suy nghĩ hết sức bình tĩnh: Nếu chúng đã rất hạnh phúc với cái tổ dệt
di động, tại sao chúng thấy buộc phải qua sông? Nhưng nó biết câu trả lời.
Kiến chủ nô lệ
ghét các thành phố lớn do một mối hằn thù vừa sâu sắc vừa không thể hiểu được.
Mỗi thành phố đối với chúng vừa là một mối đe dọa và vừa là một thách thức.
Tranh đua bất tận giữa người đồng bằng và người thành phố. Thế mà, bọn chủ nô
lệ biết rằng ở bờ bên kia của dòng sông tồn tại hàng trăm tổ kiến, tổ này giàu
hơn và tinh vi hơn tổ khác.
Đáng tiếc là
Chli-pou-kan chưa sẵn sàng cho một cuộc tấn công như thế. Đúng là từ vài ngày
nay, thành phố đã đầy gần triệu dân; đúng là người ta đã xây một bức tường cây
ăn thịt ở biên giới Đông… nhưng việc đó sẽ chẳng bao giờ đủ cả. Chli-pou-ni
biết là tổ của nó còn quá trẻ, chưa đủ tinh nhuệ. Hơn nữa, nó vẫn chưa có tin
tức của đoàn sứ giả mà nó phái đến Bel-o-kan để tuyên bố tổ thuộc về Liên bang.
Như thế nó không thể trông chờ vào sự đoàn kết của các tổ láng giềng. Ngay cả
Guayeï-Tyolot cũng cách đây hàng nghìn đầu, không thể báo cho dân của tổ mùa hè
này được…
Mẹ sẽ làm gì
trước một tình huống tương tự? Chli-pou-ni quyết định tập hợp vài người trong
số những thợ săn giỏi nhất của mình (chúng còn chưa có cơ hội chứng minh rằng
chúng là chiến binh) để trao đổi tuyệt đối. Phải khẩn cấp xây dựng một chiến lược.
Chúng còn đang
họp trong Cấm Thành thì lính gác đóng ở cây con đổ nghiêng vào Chli-pou-kan báo
người ta nhận ra mùi của một vũ khí đang ào tới.
Tất cả chuẩn bị.
Không một chiến lược nào được thiết lập. Người ta sẽ tùy cơ ứng biến. Tình
trạng chuẩn bị chiến đấu được đưa ra, các đội tạm hợp lại với nhau (chúng còn
chưa nắm hết về cách tổ chức đội ngũ, điều đã phải trả giá đắt để tiếp thu được
trong lúc đối đầu với kiến lùn). Thực tế, phần lớn lính thích hy vọng vào bức
tường cây ăn thịt hơn.
Ở MALI: Ở
Mali, người Dogon cho là lúc hôn phối ban đầu giữa Trời và Đất, bộ phận sinh
dục của Đất là một tổ kiến.
Khi thế giới
sinh ra từ sự giao hợp này đã hoàn chỉnh, âm hộ trở thành cái miệng; từ đó cho
ra lời nói và những thứ hỗ trợ vật chất cho lời nói: kỹ thuật dệt, mà loài kiến
truyền cho con người.
Ngày nay, các
nghi lễ phồn thực vẫn còn liên quan tới kiến. Những phụ nữ vô sinh ngồi trên
một tổ kiến để xin thần Amma làm cho họ có khả năng sinh sản.
Nhưng kiến
không chỉ làm điều đó cho con người, chúng cũng chỉ cho họ xây nhà như thế nào.
Và cuối cùng chúng chỉ cho họ các nguồn nước. Vì người Dogon hiểu là để tìm
thấy nước, họ phải đào dưới các tổ kiến.
Edmond Wells,
Bách khoa toàn
thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.
Những con châu
chấu bắt đầu bay ra tứ phía. Đó là một dấu hiệu. Ngay đằng kia, những con kiến
có mắt sáng nhất đã nhận ra một cột bụi.
Người ta có cố
hết sức kể về bọn chủ nô lệ cũng vô ích, thấy chúng tấn công đúng là một chuyện
khác. Chúng không có kỵ binh, chúng là kỵ binh. Toàn thân chúng mềm và chắc,
chân chúng dày và cơ bắp, cái đầu mảnh và nhọn của chúng được kéo dài nhờ những
chiếc sừng di động, thực ra là răng chúng.
Sức di chuyển của
chúng tuyệt đến mức không một tiếng rít nào đi kèm theo được đầu của chúng khi
chúng rẽ không khí, bị cuốn bởi tốc độ chân mình.
Cỏ bẹp xuống khi
chúng qua, đất rung chuyển, cát rập rình. Râu chúng chĩa ra trước tỏa những
pheromon buốt tới mức tưởng như tiếng gầm thét.
Chúng ta phải
đóng cửa lại và chống cự ở trong tổ hay ra ngoài và chiến đấu? Chli-pou-ni do
dự, nó sợ, đến mức thậm chí không dám mạo hiểm cả một gợi ý. Thế nên, dĩ nhiên
lính kiến đỏ hung làm những gì không nên làm. Chúng chia nhau ra. Một nửa ra
ngoài để phơi mặt đối đầu với địch thủ; nửa kia ở lại trụ trong Tổ như lực
lượng phòng bị và kháng cự trong trường hợp bị vây hãm.
Chli-pou-ni cố
nhớ lại trận Cây Mỹ Nhân, trận duy nhất nó biết. Và nó có cảm giác chính pháo
binh đã gây ra nhiều thiệt hại nhất cho các toán đối địch. Ngay lập tức nó ra
lệnh mọi người xếp ba hàng pháo binh ở những tuyến đầu tiên.
Các đội kiến chủ
nô lệ giờ đã lao đến bức tường cây ăn thịt. Những con thú thực vật gục xuống
lúc chúng đi qua, bị quyến rũ bởi mùi thịt nóng. Nhưng những cây này quá chậm,
và tất cả chiến binh kẻ thù vượt qua trước khi thậm chí chỉ một cây ăn thịt kịp
kẹp chúng lại.
Mẹ đã nhầm!
Lúc sắp bị tấn
công, tuyến Chli-pou-kan đầu tiên phóng ra một loạt vô định, chỉ loại được
chừng hai mươi kẻ tấn công. Tuyến thứ hai thậm chí còn chưa có thời gian vào vị
trí, các pháo binh đã bị tóm tất lấy họng và bị cắt đầu mà không thể nhả một
giọt axít nào.
Chỉ tấn công vào
đầu là chuyên môn chính của kiến chủ nô lệ. Và chúng làm việc đó rất tốt. Đầu
của cư dân trẻ Chli-pou-kan bay khắp nơi. Những cái thân không đầu đôi khi tiếp
tục dò dẫm chiến đấu hay chạy trốn làm những người sống khiếp sợ.
Sau mười hai
phút, chẳng còn gì nhiều trong đám quân kiến đỏ hung. Nửa thứ hai của đội quân
bịt tất cả các lối vào. Chli-pou-kan còn chưa có mái vòm, nó hiện trên mặt đất
dưới hình khoảng mười miệng núi bé con được bao quanh bởi sỏi tán nhỏ.
Mọi người bàng
hoàng. Lao tâm khổ tứ để xây được một tổ hiện đại, và thấy nó bị phó mặc cho
một băng thô lỗ nguyên thủy đến mức không biết tự nuôi mình.
Chli-pou-ni cố
tăng các cuộc TĐTĐ một cách vô ích, nó không tìm ra cách kháng cự. Những viên
đá xây được xếp ở các lối vào sẽ trụ qua vài giây trong trường hợp tốt nhất. Về
phần đánh nhau ở hành lang, dân Chli-pou-kan cũng chẳng chuẩn bị được hơn so
với đánh nhau ngoài trời.
Bên ngoài, những
chiến binh đỏ hung cuối cùng chiến đấu như những con quỷ. Một số con đã có thể
vừa đánh vừa lùi, nhưng phần lớn thấy các lối vào bị bịt lại ngay sau lưng
mình. Với chúng, mọi chuyện thế là hết. Thế nhưng, chúng chống cự hiệu quả hơn
nữa vì chúng chẳng còn gì để mất và vì chúng nghĩ chúng càng làm giảm tốc bọn
xâm lăng, các nút cửa càng có thể được củng cố hơn.
Đến lượt con
Chli-pou-kan cuối cùng bị chặt đầu và thân của nó, trong một phản xạ mạnh mẽ,
tới chèn trước một lối vào và cắm chặt những chiếc vuốt của mình vào cửa, lá
chắn chẳng đáng kể.
Bên trong
Chli-pou-kan, người ta chờ đợi.
Người ta đợi đám
chủ nô lệ với sự cam chịu ủ ê. Cuối cùng, sức mạnh thể xác đơn thuần vẫn mang
lại hiệu quả mà công nghệ còn chưa vượt qua được…
Nhưng kiến chủ nô
lệ chưa tấn công. Như Hannibal[11] trước
thành Rome, chúng do dự liệu có thể thắng được không. Mọi thứ có vẻ quá dễ
dàng. Trong đó hẳn phải có một cái bẫy. Nếu tiếng tăm kẻ giết người của chúng
vượt trước chúng khắp nơi, kiến đỏ hung cũng có tiếng tăm riêng. Bên phe kiến
chủ nô lệ, người ta nói là chúng luôn khôn khéo tạo ra những cái bẫy tinh tế.
Người ta cho là chúng biết liên minh với lính đánh thuê, những kẻ hiện ra lúc
mà người ta ít mong đợi nhất. Người ta cũng nói là chúng biết thuần phục những
con vật hung dữ, sản xuất các vũ khí bí mật gây ra những nỗi đau đớn không chịu
đựng được. Và rồi, kiến chủ nô lệ cảm thấy thoải mái ở ngoài trời bao nhiêu thì
chúng ghét cảm giác bị các bức tường bao quanh bấy nhiêu.
Dù sao chúng cũng
vẫn chưa làm nổ tung các chướng ngại vật chặn lối vào. Chúng chờ đợi. Chúng có
thời gian. Suy cho cùng, màn đêm chưa buông xuống trước mười lăm giờ nữa.
[11]Hannibal
Trong tổ kiến,
người ta ngạc nhiên. Tại sao chúng không tấn công? Chli-pou-ni không thích điều
này. Điều làm nó lo lắng, là đối thủ “hành động theo lối thoát khỏi cách hiểu
của nó”, trong khi chúng chẳng cần gì cả, vì chúng mạnh hơn. Một số con của nó
rụt rè tỏa ý kiến là người ta có thể thử bỏ đói chúng. Một việc như thế có thể
sẽ khôi phục lòng dũng cảm cho kiến đỏ hung: nhờ vào những chuồng trại ở dưới
hầm, những cánh đồng trồng nấm, những vựa bột ngũ cốc, kiến bình chứa được nhồi
nhét đầy mật, chúng có thể cầm cự được khoảng hai tháng vây hãm.
Nhưng Chli-pou-ni
không nghĩ đến sự vây hãm. Thứ mà những kẻ trên kia muốn, đó là một cái tổ qua
đêm. Nó nghĩ lại châm ngôn nổi tiếng của Mẹ: Nếu kẻ thù mạnh hơn, hãy
hành động theo lối thoát khỏi cách hiểu của nó. Đúng, đối mặt với bọn tàn
nhẫn này, các công nghệ mũi nhọn, vị cứu tinh đây rồi.
Năm trăm nghìn
dân Chli-pou-kan thực hiện TĐTĐ. Cuối cùng một cuộc tranh luận lý thú đã nổ ra.
Một con kiến thợ nhỏ nói:
Sẽ là sai lầm
nếu muốn sao chép vũ khí hoặc chiến thuật đã được các đàn anh Bel-o-kan sử
dụng. Chúng ta không nên bắt chước, chúng ta phải nghĩ ra giải pháp riêng của
mình, để giải quyết chính các vấn đề của chúng ta.