Kiến - Chương 1 - Phần 5
Một đợt lính mới tới tiếp sức. Bắn! Con chim giật nảy mình. Lần này, không phải là ghim nữa mà là những chiếc gai. Nó nện mạnh cái mỏ. Bắn! Axít bắn ra lần nữa. Con chim run rẩy, bắt đầu thở khó khăn. Bắn! Axít ăn mòn các dây thần kinh nó và nó hoàn toàn bị kẹt.
Ngừng bắn. Các chiến binh có hàm trên rộng từ các nơi đổ xô tới, cắn vào các chỗ bị thương do axít fomic. Mặt khác, một đàn đi ra ngoài, trên phần còn lại của mái vòm, tia được cái đuôi của con vật và bắt đầu khoan phần bốc mùi nhất: hậu môn. Kiến công binh đã sớm mở rộng được lối đi và tràn vào ruột con chim.
Nhóm một đã khoét được da họng. Khi dòng máu đỏ đầu tiên bắt đầu chảy, công việc tỏa hoóc môn báo động dừng lại. Cuộc chiến coi như đã thắng. Cái họng được mở rộng ra, có thể tràn cả đàn vào đó. Vẫn còn nhiều kiến sống sót trong thanh quản của con vật. Họ cứu chúng.
Sau đó các chiến binh thâm nhập vào trong đầu, tìm những lỗ cho phép chúng tới được não. Một con kiến thợ tìm thấy một lối: động mạch cảnh. Còn mỗi việc phải tìm ra được cái đúng: cái đi từ tim tới não, và không phải cái ngược lại. Nó đây rồi! Bốn chiến binh cắt cái ống và gieo mình vào dòng nước đỏ. Được dòng máu cuốn đi, chúng nhanh chóng tới chính giữa các bán cầu não. Chúng đang gần nơi cần đến để truy tìm chất xám.
Con chim gõ kiến, điên lên vì đau đớn, lăn hết sang phải lại sang trái, nhưng nó chẳng có cách nào để chống lại tất cả những kẻ xâm lăng đang cắt chặt nó từ bên trong. Một tốp kiến chui vào phổi và trút axít vào đó. Con chim ho dữ dội.
Những con khác, cả một đội quân, tiến sâu vào thực quản để tiến hành kết nối trong hệ tiêu hóa với đồng nghiệp của mình từ hậu môn vào. Những con này nhanh chóng leo lên ruột kết, xáo tung trên đường đi tất cả những bộ phận cốt tử trong tầm hàm răng trên của mình. Chúng bới thịt sống như chúng có thói quen đào đất, con nọ nối tiếp con kia tấn công mề, gan, tim, lá lách và tụy, cũng như những vị trí quan trọng khác.
Có lúc máu hay bạch huyết phụt ra không đúng lúc, làm nhiều con chết đuối. Điều đó cũng xảy ra với những con hậu đậu không biết cắt ở đâu và cắt chuẩn như thế nào.
Những con khác tiến đúng phương pháp tới giữa những chỗ thịt đỏ và đen. Chúng biết thoát thân trước khi bị đè chết do co thắt. Chúng tránh chạm vào vùng ngập mật hay axít tiêu hóa.
Cuối cùng hai toán quân gặp nhau ở thận. Con chim vẫn chưa chết hẳn. Tim nó, vạch ngoằn ngoèo các nhát cắn, tiếp tục truyền máu tới các mạch bị vỡ.
Không đợi đến hơi thở cuối cùng của nạn nhân, hàng đoàn kiến thợ được hình thành, chuyển từ chân này sang chân khác những miếng thịt còn phập phồng. Không có gì cưỡng lại được những nhà phẫu thuật nhỏ bé. Khi chúng bắt đầu xẻ phần óc, con gõ kiến giật lên, lần cuối.
Cả thành phố ùa lại để xả thịt con quái vật. Các hành lang lúc nhúc kiến, toán thì nắm lông vũ, toán thì nắm lông tơ của nó.
này; tương tự như kiểu những con kiến điên loạn đánh tất cả mọi người lúc báo động cấp ba.
Nhưng hai con này không có vẻ bị điên hay chậm phát triển. Chúng thậm chí còn có vẻ biết rất rõ chúng đang làm gì. Có lẽ là… Người ta chỉ thấy một tình huống duy nhất mà các tế bào cố tình hủy diệt các tế bào khác của cùng cơ thể. Vú nuôi gọi là ung thư. Phải chăng… các tế bào bị ung thư.
Như vậy, mùi đá này có thể là mùi bệnh… Thế thì lại phải báo động. Từ bây giờ, con đực 327 có hai bí ẩn cần giải quyết: vũ khí bí mật của bọn lùn và các tế bào ung thư của Bel-o-kan. Và nó lại không thể nói ra được với ai. Phải suy nghĩ. Rất có thể nó có trong mình một khả năng tiềm ẩn nào đó… một giải pháp.
Nó bắt đầu lau râu. Thấm ướt (điều làm nó buồn cười là liếm râu nhưng không nhận ra được vị đặc trưng của pheromon thông hành), chải chuốt, đánh bóng bằng bàn chải chỗ khuỷu, lau khô.
Làm gì bây giờ, khốn kiếp!
Đầu tiên, phải sống đã.
Một người duy nhất có thể nhớ ra hình ảnh hồng ngoại của nó mà không cần xác nhận mùi nhận dạng: Mẹ. Thế nhưng, Cấm Thành đầy ắp lính. Mặc kệ. Sau chót, một câu châm ngôn cổ của Belo-kiu-kiuni không phải đã nói: Thường ở giữa nguy hiểm người ta luôn được an toàn nhất sao?
- Edmond Wells không để lại ấn tượng đẹp ở đây. Và hơn nữa, khi ông ấy đi, không ai giữ ông ấy lại.
Người vừa nói thế là một người đàn ông già có khuôn mặt thiện cảm, một trong số các phó giám đốc của “Sweetmilk Corporation”.
- Thế nhưng hình như bác ấy đã phát minh ra một loại vi khuẩn thực phẩm, loại làm dậy mùi thơm cho sữa chua.
- Đó là về hóa học, phải công nhận là ông ấy có những cú thiên tài đột xuất. Nhưng chúng không đến thường xuyên, thường là từng đợt.
- Ông có xích mích với bác ấy không?
- Thành thật mà nói, không. Đúng hơn là ông ấy không hòa nhập được với nhóm. Ông ấy tách hẳn ra. Và thậm chí nếu như vi khuẩn của ông ấy mang lại bạc triệu, tôi vẫn nghĩ là chưa bao giờ có ai ở đây thực sự đánh giá cao ông ấy.
- Ông có thể nói rõ hơn được không?
- Trong một nhóm có các sếp. Edmond không chịu đựng được các sếp, ngoài ra cũng chẳng chịu được một kiểu cấp trên nào. Ông ấy luôn coi thường những người quản lý, những người chỉ làm “quản lý để quản lý mà chẳng sản xuất ra gì”, như ông ấy nói. Thế nhưng, chúng tôi buộc phải nịnh nọt cấp trên của mình. Chẳng có gì là xấu cả. Đó là chế độ muốn thế. Còn ông ấy, ông ấy lên mặt. Tôi nghĩ là điều đó làm chúng tôi, những người ngang hàng với ông ấy, khó chịu hơn là chính bản thân các sếp.
- Bác ấy đi như thế nào?
- Ông ấy cãi nhau với một trong số các phó giám đốc, vì một chuyện mà, tôi phải nói là… ông ấy hoàn toàn có lý. Vị phó giám đốc này lục lọi bàn làm việc của ông ấy, và Edmond nổi giận. Khi ông ấy thấy mọi người muốn ủng hộ cho người kia, ông ấy buộc phải ra đi.
- Nhưng mà ông vừa nói là bác ấy có lý…
- Đôi khi tốt hơn hết nên cư xử hèn hạ có lợi cho những người có tiếng, dù họ đáng ghét, thay vì tỏ ra dũng cảm vì lợi ích của những người vô danh, dù họ đáng mến. Edmond không có bạn ở đây. Ông ấy không ăn, không uống cùng với chúng tôi, ông ấy luôn có vẻ đang ở trên cung trăng.
- Thế tại sao ông lại thú nhận “sự hèn nhát” của mình với tôi? Ông không cần phải kể cho tôi nghe hết mọi chuyện.
- Hừm, từ khi ông ấy chết, tôi tự nhủ là dù sao chúng tôi cũng đã cư xử không tốt. Anh là cháu của ông ấy, kể cho anh nghe chuyện này tôi cũng nhẹ nhõm được một chút…
Cuối hẻm tối, người ta nhận ra được một pháo đài gỗ. Cấm Thành.
Tòa thành thực ra là một gốc cây thông, xung quanh nó người ta xây mái vòm. Gốc cây được dùng làm tim và cột sống của Bel-o-kan. Tim, vì nó có phòng kiến chúa và các kho lương thực quý. Cột sống, vì nó cho phép Tổ chống đỡ được mưa và gió bão.
Nhìn gần hơn, tường của Cấm Thành được khảm những họa tiết phức tạp. Giống như văn khắc của một kiểu chữ lạ. Đó là các hành lang được những kẻ đầu tiên chiếm đóng gốc cây đào từ ngày xưa: bọn mối.
Khi Belo-kiu-kiuni sáng lập hạ cánh tới vùng này, năm nghìn năm trước, nó chạm trán với chúng ngay lập tức. Chiến tranh kéo rất dài, hơn nghìn năm, nhưng dân Bel-o-kan cuối cùng đã giành thắng lợi. Thế là họ khám phá, đầy thán phục, một thành phố “vững chắc”, với những hành lang bằng gỗ không bao giờ sập. Gốc thông này mở cho họ những triển vọng quy hoạch đô thị và kiến trúc mới.
Ở trên, có mặt phẳng và đất nhô cao; ở dưới, các rễ cây ăn sâu phân tán trong lòng đất. Thật lý-tưởng. Thế rồi cái gốc cây nhanh chóng không đủ để chứa dân cư kiến đỏ hung cứ tăng dần lên. Thế là người ta đào dưới đất theo chiều dài các rễ cây. Và người ta chất các cành cây nhỏ lên cái cây bị cắt ngọn để mở rộng đỉnh.
Lúc này, Cấm Thành gần như hoang vắng. Ngoài Mẹ và cận vệ của mình, mọi người đều sống ở ngoại vi.
327 tiến từng bước thận trọng và không đều tới gần gốc cây. Những tiếng rung rinh đều đều được thu nhận như có người đang đi, trong khi đó những tiếng không đều đặn có thể được coi như những tiếng sụt lở nhẹ. Nó chỉ còn phải hy vọng là không một chiến binh nào bắt gặp nó. Nó bắt đầu bò. Chỉ còn cách Cấm Thành chừng hai trăm đầu nữa thôi. Nó bắt đầu nhận ra hàng chục lối ra vào xuyên qua gốc cây; chính xác hơn, đầu của kiến “gác cổng” bịt kín lối vào.
Được đúc ra bởi cái mà người ta không biết là kiểu sai lệch gen nào, những con kiến này có một cái đầu to, tròn và phẳng, làm cho chúng giống một cái đinh lớn bít vừa khít chu vi cái lỗ mà chúng phải giám sát.
Những cái cửa sống này đã chứng minh hiệu quả của mình trong quá khứ. Trong chiến tranh những Cây dâu, bảy trăm tám mươi năm trước, Tổ bị bọn kiến vàng xâm lăng. Tất cả dân Bel-o-kan sống sót ẩn trốn trong Cấm Thành, và kiến gác cổng, vào sau cùng, đã khép kín các lối thoát.
Bọn kiến vàng phải mất hai ngày để phá được các chốt cửa này. Kiến gác cổng, không những chỉ bịt kín các lỗ mà còn dùng răng dài của mình cắn. Kiến vàng phải huy động một trăm con để chống lại mỗi một lính gác cổng. Cuối cùng chúng cũng vượt qua được bằng cách moi kitin[5] đầu lính gác. Nhưng sự hy sinh của các “cửa sống” không phải là vô ích. Các tổ lân cận đã có thời gian tổ chức quân cứu viện, và thành phố được giải phóng vài giờ sau.
[5] Một trong những thành phần chính tạo nên bộ xương ngoài của côn trùng và một số loài ngành chân khớp.
Chắc chắn là con đực 327 không có ý định một mình chạm trán với lính gác cổng, nhưng nó tính tận dụng lúc một trong các cửa đó mở, ví dụ để cho một vú nuôi chở trứng cái ra. Nó có thể lao vào trước khi cửa đóng lại.
Đúng lúc một cái đầu ngọ nguậy, rồi mở đường… cho một lính gác. Lỡ rồi, nó không thể thử được gì, con lính gác sẽ quay lại ngay lập tức và sẽ giết nó.
Cái đầu của con gác cổng cử động lần nữa. Nó gấp sáu cái cẳng của mình, sẵn sàng bật. Nhưng không! Báo động sai, gác cổng chỉ thay đổi vị trí. Dù sao thì giữ cổ ép vào cái vòng gỗ như thế thể nào cũng bị chuột rút.
Mặc kệ, nó hết kiên nhẫn rồi, nó lao vào chướng ngại vật. Ngay khi nó nằm trong tầm râu, con gác cổng phát hiện nó thiếu pheromon thông hành. Con gác cổng lùi lại chút nữa để bịt cái lỗ kín hơn, sau đó nó thả các phân tử báo động.
Kẻ lạ ở Cấm Thành! Kẻ lạ ở Cấm Thành! nó lặp lại như cái còi.
Nó quay tít cái càng của mình để dọa kẻ không mời mà đến. Nó có thể tiến lên để đánh con đực được, nhưng quân lệnh đã rõ ràng: bịt lối trước đã!
Phải làm nhanh. Con đực có một lợi thế: nó nhìn thấy được trong bóng tối trong khi đó con gác cổng bị mù. Nó xông lên, tránh những cái răng dữ tợn đập hú họa và thọc xuống để tóm lấy chân của kẻ thù. Nó cắt từng cái một. Dòng máu trong suốt chảy ra. Hai cái mẩu cụt tiếp tục cựa quậy, vô hại.
Tuy nhiên, con 327 vẫn chưa qua được, xác của đối thủ làm nghẽn lối đi. Mấy cái chân co cứng thậm chí vẫn tì vào gỗ theo phản xạ. Phải làm thế nào? Nó đặt bụng dưới của mình vào trán con lính gác và bắn. Cái thân giật nảy lên, kitin bị axít fomic ăn mòn bắt đầu chảy và nhả ra một chút khói màu ghi. Nhưng cái đầu dày quá. Nó phải làm tới bốn lần trước khi có thể mở được một lối đi xuyên qua cái đầu phẳng lì.
Nó có thể đi qua. Phía bên kia, nó phát hiện ra lồng ngực và bụng dưới bị teo đi. Con kiến gác chỉ là một cửa ải, mới chỉ là một cửa.
ĐỐI THỦ: Khi những con kiến đầu tiên xuất hiện, năm mươi triệu năm sau, chúng buộc phải liên kết chặt chẽ với nhau. Là hậu duệ xa xưa của một loài ong vò vẽ hoang dã và đơn độc, loài tiphiide, chúng không có răng to cũng như không có ngòi châm nọc. Chúng nhỏ và gầy còm, nhưng không ngu ngốc, và nhanh chóng hiểu rằng bắt chước loài mối sẽ có lợi cho chúng. Chúng phải đoàn kết nhau lại.
Chúng tạo ra làng mạc của mình; chúng xây những tổ rất lớn.
Loài mối nhanh chóng e ngại sự cạnh tranh này. Theo chúng, trên Trái đất chỉ có chỗ cho một loài côn trùng xã hội duy nhất.
Từ đó trở đi, không thể tránh được chiến tranh. Khắp nơi trên thế giới, ở đảo, cây và đồi núi, quân đội các tổ mối chiến đấu chống các đội quân non trẻ của các tổ kiến.
Chưa bao giờ người ta thấy điều đó trong giới động vật. Hàng triệu hàm răng sát cánh nhau vì một mục đích ngoài mục đích dinh dưỡng. Mục đích “chính trị”!
Ban đầu loài mối, kinh nghiệm hơn, thắng mọi cuộc chiến. Nhưng rồi loài kiến thích nghi dần. Chúng bắt chước các loại vũ khí của mối và phát minh ra những vũ khí mới. Các cuộc thế chiến mối-kiến nung đốt Trái đất, từ chừng năm mươi triệu năm đến chừng ba mươi triệu năm. Chính vào khoảng thời gian này mà loài kiến, nhờ phát hiện ra loại vũ khí bắn axít fomic, chiếm ưu thế quyết định.
Ngày nay các cuộc chiến vẫn liên miên tiếp diễn giữa hai loài địch thủ, nhưng hiếm khi thấy các đội quân mối chiến thắng.
Edmond Wells,
Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.
- Ông quen bác ấy ở châu Phi, đúng không ạ?
- Đúng, - ông giáo sư trả lời. - Edmond có một nỗi đau. Tôi nhớ là vợ ông ấy đã qua đời. Ông ấy lao mình vào nghiên cứu các loài côn trùng.
- Tại sao lại là côn trùng?
- Tại sao lại không? Các loài côn trùng có sự quyến rũ từ xa xưa. Tổ tiên lâu đời nhất của chúng ta đã từng sợ muỗi làm cho họ sốt, rận làm cho họ ngứa, nhện cắn họ, bọ đầu dài ăn lương thực dự trữ của họ. Điều đó có để lại dấu vết hẳn hoi.
Jonathan đang ở trong phòng nghiên cứu số 326 của Trung tâm Nghiên cứu Côn trùng học ở Fontainebleau thuộc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia, cùng với giáo sư Daniel Rosenfeld, đẹp lão, tóc buộc đuôi ngựa, tươi cười và nói liến thoắng.
- Loài côn trùng đánh lạc hướng đấy, nó nhỏ hơn và yếu hơn chúng ta, thế nhưng nó coi khinh chúng ta và thậm chí đe dọa chúng ta. Hơn nữa, khi chúng ta suy nghĩ kỹ điều này, tất cả chúng ta đều kết thúc trong dạ dày của côn trùng. Vì chính những con giòi, tức những ấu trùng ruồi, đánh chén xác của chúng ta…
- Cháu chưa bao giờ nghĩ đến điều đó.
- Côn trùng từ lâu đã được coi là hiện thân của điều ác. Ví dụ như Belzébuth, một trong số những con quỷ hung ác, được miêu tả với cái đầu ruồi. Đó không phải là sự ngẫu nhiên đâu.
- Loài kiến có tiếng tốt hơn loài ruồi.
- Còn tùy. Các nền văn hóa nói khác nhau về điều đó. Trong cuốn Talmud về người Do Thái, chúng là biểu tượng của sự chính trực. Đối với Phật giáo Tây Tạng, chúng thể hiện sự vô vị của hoạt động duy vật. Đối với người dân Baoulé ở nước Bờ Biển Ngà, một phụ nữ mang thai bị kiến cắn sẽ sinh ra một đứa con đầu kiến. Ngược lại, nhiều người Polynésie lại coi chúng là những vị thần nhỏ.
- Trước đây Edmond làm trong lĩnh vực vi khuẩn, tại sao bác ấy lại bỏ ạ?
- Vi khuẩn không làm ông ấy say mê bằng một phần nghìn so với các nghiên cứu côn trùng, và nhất là về loài kiến. Và khi tôi nói “các nghiên cứu của ông ấy”, đó là một sự cam kết hoàn toàn. Chính ông ấy là người đưa ra kiến nghị chống lại tổ kiến-đồ chơi, các hộp bằng nhựa bán trong siêu thị, với một kiến chúa và sáu trăm con kiến thợ. Ông ấy cũng đấu tranh để dùng kiến làm “thuốc trừ sâu”. Ông ấy muốn người ta đặt một cách hệ thống các tổ kiến đỏ hung trong rừng, để diệt các loài ký sinh cho rừng. Không ngốc đâu. Trong quá khứ người ta đã sử dụng kiến ở Ý để chống lại loài sâu đoàn ở cây thông và ở Ba Lan để chống lại loài pamphiliide ở cây lãnh sam, hai loài côn trùng phá hoại cây.
- Cho loài côn trùng này chống loài côn trùng khác, có phải ý tưởng là thế không?
- Hừm, ông ấy gọi đó là “can dự vào ngoại giao của chúng”. Thế kỷ trước, chúng ta đã phạm rất nhiều sai lầm với thuốc trừ sâu hóa học. Không bao giờ được trực diện tấn công côn trùng, càng không bao giờ được đánh giá thấp chúng và có ý định thuần hóa chúng như chúng ta đã làm với các loài động vật có vú. Côn trùng, đó là một triết học khác, một không gian-thời gian khác, một tầm vóc khác. Ví dụ côn trùng có một cách tránh được tất cả mọi loại chất độc hóa học: khả năng miễn nhiễm nhờ đã quen với chất độc. Anh biết đấy, nếu chúng ta không tài nào trừ hết được nạn châu chấu, đó là vì những con mạnh nhất, chúng thích nghi tất. Tống thuốc trừ sâu vào chúng, chín mươi chín phần trăm chết nhưng một phần trăm sống sót. Và một phần trăm thoát nạn này không những được miễn dịch, mà còn sinh ra một trăm phần trăm châu chấu con “được tiêm phòng” chống thuốc diệt. Chính vì thế mà cách đây hai trăm năm, chúng ta đã sai lầm khi không ngừng tăng độc tính của các sản phẩm. Tới mức các sản phẩm này giết nhiều người hơn là côn trùng. Và chúng ta đã tạo ra các dòng siêu kháng có thể hấp thụ những chất độc nhất mà không chút hề hấn gì.
- Ông muốn nói là chúng ta không có biện pháp thật sự để chống côn trùng?
- Tự anh thấy đấy. Vẫn còn muỗi, châu chấu, bọ đầu dài, ruồi xê-xê - và kiến. Chúng chống chịu được tất. Năm 1945, người ta nhận thấy là chỉ có kiến và bọ cạp sống sót khỏi vụ nổ nguyên tử. Chúng thậm chí còn thích nghi được với cả chuyện đó nữa!
Con đực 327 đã làm đổ máu một tế bào của Bầy. Nó đã gây bạo lực tồi tệ nhất chống lại chính cơ thể mình. Điều đó khiến nó cảm thấy cay đắng. Nhưng liệu nó, là một hoóc môn thông tin, nó có cách sống sót nào khác để tiếp tục nhiệm vụ của mình không?
Nếu nó giết người, đó là vì người ta đã cố tình giết nó. Đó là phản ứng dây chuyền. Như bệnh ung thư. Vì Bầy xử sự một cách không bình thường với nó, nó buộc phải hành động y chang. Nó phải quen với ý nghĩ này.
Nó đã giết một tế bào chị em. Có thể nó sẽ giết vài tế bào khác.
- Nhưng bác ấy làm gì ở châu Phi? Vì, kiến, chính ông cũng nói, có ở khắp nơi.
- Chắc chắn thế, nhưng không phải cùng một loài kiến… Tôi nghĩ là Edmond không thiết tha gì nữa từ sau khi mất vợ. Tôi thậm chí còn tự hỏi khi nghĩ lại liệu không phải ông ấy chờ lũ kiến “sát hại” mình chứ.
- Xin lỗi?
- Chúng đã suýt thịt ông ấy, trời ạ! Kiến tằm châu Phi… Anh chưa bao giờ xem phim Khi Marabounta gầm à?
Jonathan lắc đầu ra hiệu không biết.
- Marabounta là đàn kiến tằm dorylines, hay annona nigricans, di chuyển ở đồng bằng và phá hủy mọi thứ trên đường đi của chúng.
Giáo sư Rosenfeld đứng dậy, như để đương đầu với một làn sóng vô hình.
- Đầu tiên người ta như nghe thấy một tiếng rào rào lớn do các kiểu tiếng kêu và ríu rít, tiếng vỗ cánh và đạp chân của những con vật nhỏ đang cố thoát thân tạo nên. Lúc này, người ta còn chưa nhìn thấy kiến tằm, rồi sau đó vài con chiến binh nhô lên từ sau một ụ đất. Sau những con trinh sát này, những con khác nhanh chóng xuất hiện, thành từng cột nối tiếp nhau liên miên. Cái ụ trở nên đen kịt. Giống như một dòng dung nham nung chảy tất cả những gì nó chạm tới.
Ông giáo sư vừa đi lại vừa khoa chân múa tay, bị chủ đề của mình lôi cuốn.
- Đó là máu độc châu Phi. Axít sống. Số lượng của chúng kinh khủng. Một tổ kiến tằm đẻ trung bình năm trăm nghìn trứng mỗi ngày. Đủ để đổ đầy nhiều xô… Vì thế, cái rãnh đen axít sulfuric này chảy, leo lên các sườn dốc và cây cối, không gì hãm chúng lại được. Chim chóc, thằn lằn hay động vật có vú ăn sâu bọ vô phúc đến gần, bị thành cám ngay lập tức. Cảnh Ngày tận thế! Kiến tằm không sợ bất kỳ con vật nào. Có lần, tôi đã thấy một con mèo quá tò mò tiêu tan trong chớp mắt. Thậm chí, chúng còn qua được các dòng suối bằng cách làm cầu nổi từ chính những xác chết của chúng!... Ở Bờ Biển Ngà, ở vùng gần trung tâm sinh thái Lamto, nơi chúng tôi nghiên cứu, dân cư vẫn không tìm ra được cách chống lại sự lan tràn của chúng. Thế nên khi người ta thông báo các hung thần nhỏ bé này sẽ tràn qua làng, người dân bỏ chạy mang theo các tài sản quý giá nhất. Họ cho chân bàn và ghế vào các xô dấm và cầu các thánh của mình. Khi quay lại, tất cả đều được tẩy rửa, như vừa qua một trận bão. Không còn một mẩu thức ăn nhỏ nhất nào hay một chút chất hữu cơ bất kể loại gì đi nữa. Kể cả con rận nhỏ nhất. Cuối cùng thì kiến tằm là cách lau chùi tốt nhất lều của họ từ đầu đến cuối.
- Các ông làm thế nào để nghiên cứu chúng nếu chúng hung dữ như thế?
- Chúng tôi đợi đến trưa. Côn trùng không có hệ thống điều chỉnh nhiệt như chúng ta. Khi nhiệt độ ngoài trời là 18°, thân nhiệt chúng cũng là 18°, và máu chúng trở nên sôi sục lúc thời kỳ nóng bức. Với chúng, không thể chịu đựng được. Cũng như thế, ngay lúc xuất hiện những tia nắng nóng đầu tiên, kiến tằm đào một cái tổ ngoài trời, nơi chúng chờ thời tiết ôn hòa hơn. Nó giống như một kỳ ngủ đông nhỏ, nhưng chỉ vì chúng bị nóng, chứ không phải là do trời lạnh.
- Thế thì sao ạ?
Jonathan đúng là không biết trò chuyện. Anh cho rằng cuộc trao đổi được thực hiện để làm bình thông nhau. Có một người biết, là cái bình đầy, và một người không biết, cái bình rỗng, thường là chính anh. Người không biết căng rộng tai và thỉnh thoảng kích sự hăng say của người đối thoại với các từ “thế rồi sao?”, “nói cho tôi biết điều đó đi”, và những cái lắc đầu.
Nếu tồn tại những cách giao tiếp khác, anh không biết chúng. Hơn nữa, với anh, khi quan sát những người cùng thời mình, hình như họ chỉ miệt mài với những cuộc độc thoại song song, mỗi người chỉ tìm cách sử dụng người kia như nhà phân tích tâm lý miễn phí. Trong điều kiện này, anh thích kỹ thuật riêng của mình hơn. Có thể anh có vẻ như không có chút kiến thức nào, nhưng chí ít anh luôn luôn học hỏi được. Một câu châm ngôn Trung Quốc không phải đã nói: Người đặt một câu hỏi, ngốc năm phút, người không đặt, ngốc cả đời sao?
- Thì sao á? Chúng tôi tới đó, trời đất ạ! Và đó đã là làm được một điều gì rồi, tin tôi đi. Chúng tôi muốn tìm con kiến chúa đáng ghét đó. Cái con vật nhỏ bé béo tròn nổi tiếng đẻ năm trăm nghìn trứng mỗi ngày. Chúng tôi chỉ muốn nhìn thấy nó và chụp ảnh nó. Chúng tôi đi những đôi ủng to của nhân viên môi trường đô thị. Không may, Edmond đi cỡ 43 mà chỉ còn mỗi đôi cỡ 40. Ông ấy đi tới đó bằng một đôi giày Pataugas[6]… Tôi nhớ cứ như mới chỉ hôm qua thôi. Lúc 12 giờ 30 chúng tôi đã phác trên mặt đất hình dạng có thể là tổ ngoài trời và chúng tôi bắt đầu đào một cái rãnh sâu chừng một mét xung quanh. Lúc 13 giờ 30 chúng tôi tiến được tới các phòng bên ngoài. Một loại chất lỏng đen và nổ lốp đốp bắt đầu chảy ra. Hàng nghìn lính bị kích động khua răng đôm đốp, mà ở loài vật này, những chiếc răng ấy sắc như lưỡi dao cạo. Nó cắm vào giày chúng tôi, trong khi chúng tôi tiếp tục đào và cuốc hướng tới phòng đẻ trứng. Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm được kho báu của mình. Kiến chúa. Một con côn trùng to gấp mười lần kiến chúa ở châu Âu. Chúng tôi chụp ảnh nó rất tỉ mỉ trong khi nó chắc phải hét bài “Chúa cứu Nữ hoàng” (God save the Queen) bằng ngôn ngữ tỏa mùi của nó… Hiệu quả không chậm trễ. Từ khắp nơi, kiến chiến binh quy tụ về để bu thành hàng cục trên chân chúng tôi. Nhiều con trèo lên được nhờ giẫm lên đồng đội mình đã cắm chặt vào cao su. Từ đó, chúng chui vào quần rồi áo sơ mi. Chúng tôi trở thành Gulliver hết, nhưng những người Tí hon của chúng tôi chỉ mơ biến chúng tôi thành các mẩu vụn ăn được! Cần phải chú ý nhất là chúng không được chui vào các lỗ tự nhiên của chúng tôi: mũi, miệng, hậu môn, màng nhĩ. Nếu không, hỏng bét, chúng sẽ đào từ bên trong!
[6] Giày thể thao cao làm bằng vải bền, đế dày, dùng để đi bộ.
Jonathan lặng người, ấn tượng. Về phần giáo sư, có vẻ như ông được sống lại cảnh tượng đó, ông hoa chân múa tay minh họa với sức mạnh của một thanh niên mà ông không còn được như thế nữa.
- Chúng tôi đập mạnh để xua chúng đi. Còn chúng, chúng được chỉ đường nhờ hơi thở và sự tiết mồ hôi của chúng tôi. Chúng tôi đã vận dụng hết những bài tập yoga để thở chậm và kiểm soát nỗi sợ của mình. Chúng tôi cố không nghĩ tới, quên các túm kiến đang muốn giết mình đi. Và chúng tôi đã chụp hết hai cuộn phim và một vài cái có flash. Khi chúng tôi xong, tất cả nhảy vọt khỏi cái rãnh. Trừ Edmond. Kiến phủ tới tận đầu ông ấy, chúng chuẩn bị thịt ông! Chúng tôi nhanh chóng kéo ông ấy lên, chúng tôi cởi quần áo ông ấy ra và lấy dao cạo các hàm răng và đầu còn cắm vào thân ông ấy. Chúng tôi cũng bị dính, nhưng không tới mức như ông ấy, không có ủng. Và nhất là, ông ấy sợ, ông ấy phát ra những pheromon sợ hãi.
- Kinh khủng quá.
- Không, tốt chứ vì ông ấy sống sót khỏi đó. Hơn nữa, nó cũng chẳng làm ông ấy chán kiến. Trái lại, ông ấy nghiên cứu chúng còn nhiệt tình hơn.
- Và sau đó?
- Ông ấy về Paris. Và chúng tôi không có tin tức nữa. Thậm chí, ông ấy không một lần gọi điện cho ông bạn già Rosenfeld, đúng là anh chàng. Cuối cùng tôi thấy trên báo là ông ấy mất. Cầu cho ông ấy được bình yên.
Ông đi kéo rèm cửa sổ để xem cái nhiệt kế cũ dán ở miếng tôn tráng men.
- Hừm, 30° giữa tháng Tư, không tin được. Trời mỗi năm lại càng nóng hơn. Nếu cứ tiếp tục, mười năm nữa, nước Pháp sẽ thành nước nhiệt đới.
- Đến mức đó sao?
- Người ta không nhận ra vì nó tăng từ từ. Nhưng những nhà côn trùng học chúng tôi, chúng tôi nhận thấy những chi tiết rất cụ thể: chúng tôi thấy những loài côn trùng đặc trưng của các vùng xích đạo ở lưu vực Paris. Anh chưa bao giờ để ý thấy những con bươm bướm càng ngày càng óng ánh hơn à?
- Quả nhiên thế, hôm qua cháu thấy một con, đỏ và đen huỳnh quang đậu trên một chiếc ô tô…
- Chắc là một con bướm râu chùy năm vết đốm. Đó là một loài bướm có nọc độc mà cho tới giờ người ta chỉ thấy ở Madagascar. Nếu tiếp tục… Anh tưởng tượng ra được những con kiến tằm ở Paris không? Xin chào sợ hãi. Chắc sẽ rất vui được xem…