Kiến - Chương 1 - Phần 1

1

NGƯỜI
THỨC TỈNH

Anh sẽ
thấy, không hoàn toàn như anh mong đợi đâu.

Công
chứng viên giải thích rằng tòa nhà được xếp hạng di tích lịch sử và nhiều nhà
hiền triết thời Phục hưng đã từng sống ở đây, nhưng ông không nhớ là những ai.

Họ xuống
cầu thang, bước vào một hành lang tối om nơi công chứng viên dò dẫm hồi lâu,
uổng công bật một cái nút trước khi thở dài:

- Ái chà!
Nó không chạy nữa.

Họ tiến trong
bóng tối, lộp cộp lần theo các bức tường. Khi cuối cùng công chứng viên tìm
thấy cái cửa, mở nó và nhấn, lần này thì thành công, trúng cái công tắc, ông
thấy khách hàng của mình mặt mày biến sắc.

- Không
ổn à, ông Wells?

- Một
chứng sợ thôi. Không sao đâu.

- Sợ bóng
tối?

- Vâng.
Nhưng đã khá hơn rồi.

Họ xem
xét mọi ngóc ngách. Đó là tầng hầm rộng hai trăm mét vuông. Dù nó chỉ mở ra
phía ngoài bằng vài ô cửa tầng hầm hiếm hoi, bé xíu và sát trần, Jonathan vẫn
hài lòng về căn hộ. Các bức tường được dán giấy xám đơn điệu, và bụi phủ khắp
nơi… Nhưng anh sẽ không tỏ ra khó tính hơn.

Căn hộ
của anh hiện nay chỉ rộng bằng một phần năm căn hộ này. Hơn nữa, anh không còn
khả năng để trả tiền thuê; nhà máy khóa nơi anh làm mới đây đã quyết định bỏ
qua công đoạn của anh.

Món thừa
kế của bác Edmond đúng là của trời cho không tin được.

Hai ngày
sau, anh dọn đến số 3, phố Sybarites với vợ mình là Lucie, cậu con trai Nicolas
và con chó bông lùn cụt đuôi Ouarzazate của họ.

- Mấy bức
tường xám này không làm em ngại đâu, - Lucie vừa nói vừa lấy tay nâng mái tóc
đỏ dày của cô. - Chúng mình có thể trang trí như chúng mình muốn. Mọi thứ ở đây
đều phải làm lại hết. Như kiểu mình biến nhà tù thành khách sạn đấy.

- Phòng
của con ở đâu ạ? - Nicolas hỏi.

- Phía
cuối, bên phải.

- Ẳng
ẳng, - con chó sủa, và nó bắt đầu nhay nhay bắp chân Lucie mà không biết là cô
đang bưng chồng bát đĩa đám cưới trong tay.

Kết cục,
nó nhanh chóng bị nhốt vào nhà vệ sinh; khóa hẳn hoi, vì nó biết nhảy tới tận
tay nắm cửa và biết xoay để mở cửa.

- Anh có
biết rõ ông bác hào phóng của anh không? Lucie tiếp tục.

- Bác
Edmond? Thực ra, tất cả những gì anh nhớ, chỉ là bác nhấc anh lên giả làm máy
bay, lúc anh còn rất nhỏ. Một lần anh sợ đến nỗi anh đã tè dầm lên bác ấy.

Họ cười.

- Đã nhát
gan thế cơ à? - Lucie trêu.

Jonathan
làm ra vẻ không nghe thấy gì.

- Bác ấy
không trách anh về chuyện đó. Bác chỉ nói với mẹ anh: “Được rồi, chúng ta biết
là sẽ không cho nó thành phi công…” Sau đó, mẹ nói rằng bác theo sát suốt cuộc
đời anh, nhưng anh không gặp lại bác từ ấy.

- Bác làm
nghề gì?

- Đó là
một nhà bác học. Một nhà sinh học, hình như thế.

Jonathan
trở nên trầm tư. Cuối cùng, thậm chí anh cũng không biết ân nhân của mình.

Cách đó 6
km:

BEL-O-KAN,

Cao một
mét.

50 tầng
dưới lòng đất.

50 tầng
trên mặt đất.

Thành phố
lớn nhất của vùng.

Dân số
ước tính: 18 triệu.

Sản lượng
hàng năm:

- 50 lít
mật rệp.

- 10 lít
mật sâu yên chi.

- 4 kilô
nấm mũ.

- Đá được
dũi: 1 tấn.

- Số km
hành lang đi lại được: 120.

- Diện
tích trên mặt đất: 2m2.

Một tia
sáng vụt qua. Một cái chân vừa nhúc nhích. Cử động đầu tiên từ đợt bắt đầu ngủ
đông, cách đây ba tháng. Một cái chân khác từ từ tiến, kết thúc là hai cái chân
dần dần tách ra. Một cái chân khác duỗi ra. Rồi đến bộ ngực. Rồi một cái thân.
Rồi mười hai cái thân.

Chúng
rùng mình để giúp dòng máu trong suốt lưu thông trong các động mạch của mình.
Máu chuyển từ trạng thái sền sệt sang nhão rồi lỏng. Dần dần van tim bắt đầu
hoạt động trở lại. Nó đẩy máu tới tận cuối các chi. Các cơ sinh học nóng dần
lên. Các khớp siêu phức tạp xoay từ từ. Khắp nơi, xương bánh chè với các mảng
bảo vệ cố tìm thấy cực điểm xoắn của chúng.

Chúng
tỉnh dậy. Cơ thể lấy lại hơi. Các động tác của chúng rời rạc. Như vũ điệu quay
chậm. Chúng lắc nhè nhẹ, vẩy vẩy. Chân trước chúng chập lại trước miệng như
kiểu đang cầu nguyện, nhưng không phải, chúng làm ướt các chân của mình để đánh
bóng râu.

Mười hai
con vừa thức dậy xoa cho nhau. Sau đó chúng tìm cách đánh thức những con bên
cạnh. Nhưng chúng mới chỉ có đủ sức để nhúc nhích mỗi cơ thể mình, chúng không
còn năng lượng để cho đi. Chúng bỏ cuộc.

Rồi chúng
khó nhọc tiến đến giữa những cơ thể cứng như tượng của các chị em mình. Chúng
hướng về bên Ngoài rộng lớn. Toàn bộ cơ thể máu lạnh của chúng cần phải hứng
lấy năng lượng mặt trời.

Chúng
tiếp tục tiến lên, mệt nhoài. Mỗi bước đi là cả một sự đau đớn. Chúng muốn nằm
lại đến chừng nào và muốn được yên tĩnh như hàng triệu bạn đồng loại của chúng!
Nhưng không. Chúng là những người đầu tiên thức tỉnh. Bây giờ chúng phải đánh
thức toàn thành phố.

Chúng qua
thành phố. Ánh sáng mặt trời làm chúng chói mắt, nhưng tiếp xúc với năng lượng
trong lành sảng khoái đến nhường nào.

Mặt
trời rọi chiếu trên cơ thể gầy của chúng ta,

Lay
tỉnh những cơ bắp đau nhức

Và hợp
nhất các suy nghĩ tản mát
.

Đó là một
khúc ca ban mai cổ xưa của loài kiến đỏ hung từ hàng trăm nghìn năm nay. Từ
thời đó, chúng đã muốn lẩm nhẩm hát trong đầu ngay lần đầu tiếp xúc với nắng
ấm.

Khi đã ở
ngoài, chúng bắt đầu vệ sinh một cách bài bản. Chúng tiết ra một thứ nước dãi
trắng rồi dùng nó thoa đều các hàm và chân chúng.

Chúng
chải chuốt. Đó là nghi lễ bất di bất dịch. Đầu tiên là mắt. Một nghìn ba trăm ô
nhỏ tạo thành con mắt lồi được phủi bụi, làm ẩm, sấy khô. Chúng cũng làm như
thế với râu, chi dưới, chi giữa, và chi trước. Cuối cùng, chúng đánh bóng thân
hình bóng đỏ đẹp đẽ của mình cho tới khi lấp lánh như những tia lửa.

Trong số
mười hai con tỉnh dậy, có một con đực giống. Nó nhỏ hơn một chút so với kích cỡ
trung bình dân Bel-o-kan. Nó có hàm trên hẹp và nó được lên kế hoạch để không
sống quá vài tháng, nhưng nó cũng được hưởng những lợi thế mà đồng loại không
biết.

Lợi thế
đầu tiên về đẳng cấp: với tư cách là động vật sinh sản hữu tính, nó có năm mắt.
Hai mắt lớn hình cầu giúp nó nhìn tận 180°. Ba mắt nhỏ hơn xếp thành hình tam
giác trên trán. Những con mắt dư thừa này thực ra là bộ phận tiếp nhận tia hồng
ngoại cho phép phát hiện bất kỳ nguồn nhiệt nào từ xa, dù có ở trong bóng tối
hoàn toàn.

Một đặc
trưng quý giá biết bao đối với dân cư các thành phố lớn có từ hàng trăm nghìn
thiên niên kỷ, hoàn toàn bị mù do phải sống dưới lòng đất.

Nhưng nó
không chỉ có đặc điểm này. Nó cũng có cánh (như những con cái) để có thể bay đi
giao phối.

Ngực của
nó được bảo vệ bởi một tấm chắn đặc biệt: lá chắn ngực.

Râu của
nó dài hơn và thính hơn những dân cư khác.

Con đực
giống trẻ này dừng lại một hồi lâu trên mái, ních căng bụng ánh sáng mặt trời.
Sau đó, khi đã được sưởi ấm no nê, nó quay vào thành phố. Tạm thời nó thuộc về
đẳng cấp kiến “sứ giả truyền nhiệt”.

Nó di
chuyển trong hành lang tầng thứ ba dưới lòng đất. Ở đây, mọi người còn đang say
sưa ngủ. Những cơ thể đông cứng bất động. Râu bị bỏ phí.

Những con
kiến vẫn còn say giấc nồng.

Chàng
kiến đực trẻ tiến về phía một con kiến thợ mà nó muốn đánh thức dậy bằng nhiệt
cơ thể mình. Sự tiếp xúc ấm áp giữa hai cơ thể khiến nó có cảm giác tê tê dễ
chịu.

Tiếng
bước chân nhẹ vang lên ngay hồi chuông thứ hai. Cửa mở, dừng một chút khi
bà Augusta tháo dây xích an toàn ở cửa ra.

Từ khi
hai con mất, bà sống tách biệt trong căn hộ nhỏ ba mươi mét vuông này, ôn lại
những kỷ niệm cũ. Điều đó chẳng thể khiến bà thấy tốt hơn, nhưng cũng không làm
giảm lòng tốt của bà về bất cứ mặt nào.

- Bà biết
là buồn cười, nhưng đi đôi dép vải này vào. Bà mới đánh xi sàn nhà.

Jonathan
nghe lời. Bà lon ton đi trước anh, dẫn anh vào phòng khách, rất nhiều đồ gỗ
trong phòng còn phủ khăn. Ngồi ở mép tràng kỷ lớn, Jonathan không tài nào tránh
khỏi làm cái vỏ bọc bằng nhựa kêu sột soạt.

- Bà mừng
là cháu tới… Có lẽ cháu không tin, nhưng bà định gọi cho cháu mấy ngày nay.

- Thế ạ?

- Nhớ
là Edmond để lại một thứ cho cháu. Một bức thư. Bác ấy nói là: nếu
con chết, bằng mọi giá mẹ phải đưa thư này cho Jonathan.

- Một bức
thư ạ?

- Một bức
thư, ừ, một bức thư… Ừm, bà cũng chẳng biết để nó ở đâu nữa. Chờ bà chút… Bác
ấy đưa cho bà bức thư, bà nói với bác ấy là bà sẽ cất nó, bà cất nó trong một
cái hộp. Có lẽ là một trong mấy cái hộp sắt trắng ở cái tủ tường lớn.

Bà bắt
đầu lê dép trên sàn nhà, nhưng dừng lại ngay ở bước thứ ba.

- Xem
nào, bà ngớ ngẩn quá! Bà tiếp đón cháu thế đấy! Cháu uống một tách trà cỏ roi
ngựa không?

- Dạ, có ạ.

Bà tiến
vào bếp và khua nồi xoong.

- Cho bà
biết chút tin tức của cháu đi, Jonathan! - bà nói.

- Dạ,
cũng không kinh khủng lắm. Cháu bị cho nghỉ việc rồi.

Bà thò
mái đầu bạc trắng ra khỏi cửa, rồi hẳn cả người, vẻ nghiêm trọng, lọt thỏm
trong cái tạp dề dài màu xanh nước biển.

- Họ đuổi
cháu á?

- Vâng.

- Tại
sao?

- Bà biết
đấy, nghề thợ khóa là một môi trường đặc biệt. Công ty của cháu, “SOS Khóa”,
hoạt động 24 trên 24 khắp các khu phố ở Paris. Thế nhưng, từ khi một trong các
đồng nghiệp của cháu bị tấn công, cháu từ chối đến các khu lộn xộn vào buổi
tối. Thế là họ đuổi cháu.

- Cháu
làm đúng đấy. Thà thất nghiệp và khỏe mạnh còn hơn là ngược lại.

- Hơn
nữa, cháu không hợp với sếp của cháu lắm.

- Còn
kinh nghiệm cộng đồng không tưởng của cháu? Thời bà, người ta gọi là cộng
đồng New Age. (Bà lén cười, bà phát âm là “nu-i-az”[1]).

[1] Phiên âm theo tiếng Pháp “nouillage” (“nu-i-az”). (Tất cả các chú
thích đều là của người dịch).

- Cháu
thôi sau thất bại ở trang trại Pyrénées. Lucie chán phải nấu ăn và rửa bát cho
tất cả mọi người. Trong hội cháu, có nhiều người ỷ lại lắm. Chúng cháu rất bực
mình. Bây giờ cháu chỉ sống với mỗi Lucie và Nicolas… Còn bà, bà ngoại, bà khỏe
không?

- Bà á?
Bà tồn tại. Thế đã là cả một mối bận tâm thường xuyên rồi.

- Bà số
đỏ! Bà đã sống qua thời khắc chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ rồi…

- Ồ! Cháu
biết đấy, điều làm bà ấn tượng nhất là chẳng có gì thay đổi cả. Trước đây, khi
bà còn bé, người ta nói là sau khi qua thiên niên kỷ mới, sẽ có rất nhiều điều
kỳ diệu, và cháu thấy đấy, chẳng có gì tiến hóa cả. Lúc nào cũng có người già
sống đơn côi, luôn đầy người thất nghiệp, vẫn đầy ô tô nhả khói. Ngay cả các tư
tưởng cũng chẳng thèm nhúc nhích. Này nhé, năm ngoái người ta tái phát hiện chủ
nghĩa siêu thực, năm trước nữa thì rock’n roll, và báo chí nói là hè năm nay
mini jupe quay trở lại. Nếu cứ tiếp tục thế này chắc người ta sẽ lôi nốt những
ý tưởng cũ rích từ hồi đầu thế kỷ: cộng sản, phân tích tâm lý và thuyết tương
đối…

Jonathan
mỉm cười.

- Nhưng
mà vẫn có nhiều tiến bộ: tuổi thọ trung bình tăng lên, cũng như là số vụ ly
hôn, mức ô nhiễm không khí, chiều dài các tuyến tàu điện ngầm…

- Hay ho
nhỉ. Bà lại cứ nghĩ là mọi người sẽ có máy bay riêng và có thể cất cánh từ ban
công… Cháu biết không, hồi bà trẻ, mọi người đều sợ chiến tranh hạt nhân. Đúng
là nỗi sợ tuyệt vời. Chết lúc trăm tuổi trong cái lò cháy rực của một cây nấm
nguyên tử khổng lồ, chết với hành tinh… dù sao cũng kiêu hãnh lắm chứ. Thay vì
chết như thế, bà sẽ chết như một củ khoai tây già thối. Và mọi người mặc kệ.

- Không,
bà ơi, không phải thế.

Bà lau
trán.

- Hơn
nữa, trời nóng quá, càng ngày càng nóng hơn. Thời bà, trời không nóng như thế
này. Mùa đông ra mùa đông và mùa hè ra mùa hè. Bây giờ, đợt nắng nóng bắt đầu
ngay từ tháng Ba.

Bà quay
trở lại bếp, nhảy lên với chút khéo léo hiếm thấy, lấy tất cả những đồ cần
thiết để làm một tách trà cỏ roi ngựa thơm ngon. Sau khi bà quẹt một que diêm
và người ta nghe thấy tiếng ga thổi trong những đường dẫn cũ của cái bếp, bà
quay lại, vẻ thoải mái hơn.

- Nhưng
thực ra, cháu phải có lý do chính xác nào thì mới tới đây chứ. Ngày nay, người
ta không đến thăm những người già như thế.

- Đừng
cay nghiệt như thế, bà.

- Bà
không cay nghiệt, bà biết mình đang sống trong thế giới nào, thế thôi. Nào,
nhõng nhẽo đủ rồi, nói cho bà biết cái gì đưa cháu đến đây.

- Cháu
muốn bà nói cho cháu về “bác ấy”. Bác ấy để lại cho cháu căn hộ của bác và cháu
thậm chí không biết bác…

- Edmond?
Cháu không nhớ Edmond à? Thế mà, bác ấy rất thích nâng cháu lên để
cháu làm máy bay khi cháu còn bé. Bà thậm chí còn nhớ một lần…

- Vâng,
cái đó cháu cũng nhớ, nhưng ngoài giai thoại này, là con số không.

Bà ngồi
trong một cái ghế bành lớn và chú ý không làm nhàu cái vỏ quá.

- Edmond,
hừm, đó là một nhân vật. Ngay từ khi còn rất nhỏ, bác cháu đã gây cho bà lắm
điều phiền nhiễu. Là mẹ bác ấy không phải việc tầm thường đâu. Ví dụ nhé, bác
ấy thường làm gẫy hết đồ chơi của mình để tháo chúng, hiếm khi để lắp lại chúng.
Và giá như bác ấy chỉ phá mỗi đồ chơi của mình! Bác ấy tháo mọi thứ: đồng hồ
treo tường, máy quay đĩa, bàn chải đánh răng điện. Một lần, bác ấy thậm chí
tháo cả tủ lạnh.

Như để
khẳng định lời bà nói, cái đồng hồ quả lắc cổ ở phòng khách bắt đầu kêu lên
buồn bã. Nó cũng thế, nó cũng phải chịu đủ mọi loại khổ sở với cậu
bé Edmond.

- Và sau
đó bác ấy có một ý thích riêng: hang ổ. Bác ấy bới tung nhà lên để xây chỗ trú
cho mình. Bác ấy xây một cái bằng chăn và ô ở trên tầng áp mái, cái khác với
ghế và áo choàng lông trong phòng mình. Bác ấy thích ẩn như thế ở bên trong,
giữa đống kho báu mà bác ấy tích vào. Một lần bà nhìn vào, đầy gối ôm và một mớ
linh tinh máy móc mà bác ấy giật ở các máy ra. Vả lại, nó cũng có vẻ khá tiện
nghi thoải mái.

- Tất cả
trẻ con đều làm thế…

- Có thể,
nhưng ở bác ấy là mức độ đáng kinh ngạc. Bác ấy không ngủ trên giường nữa, bác
ấy chỉ đồng ý ngủ ở một trong các cái tổ của mình. Thỉnh thoảng, có những khi
bác ấy ở trong đó cả ngày không nhúc nhích. Cứ như là bác ấy đang ngủ đông. Thậm
chí, mẹ cháu còn cho rằng kiếp trước, bác ấy chắc phải là con sóc.

Jonathan
mỉm cười để cổ vũ bà tiếp tục.

- Một
hôm, bác ấy muốn xây lều của mình giữa mấy cái chân bàn trong phòng khách. Đúng
là giọt nước làm tràn ly, ông cháu phát điên lên, mà không phải ông thường như
thế. Ông đét đít bác ấy, phá tất cả tổ và bắt bác ấy ngủ trên giường.

Bà thở
dài.

- Từ hôm
đó, bác hoàn toàn tuột khỏi ông bà. Giống như người ta cắt dây rốn. Ông bà
không còn thuộc vào thế giới của bác ấy nữa. Nhưng bà nghĩ sự thử thách này là
cần thiết, bác ấy cần phải biết thế giới không chịu theo mãi những đòi hỏi thất
thường của bác ấy. Sau này, khi lớn lên, sẽ có nhiều vấn đề. Bác ấy không chịu
đựng được trường học. Cháu sẽ nói với bà là: “như mọi đứa trẻ”. Nhưng ở bác ấy
mọi việc còn đi xa hơn. Cháu có biết nhiều đứa trẻ treo cổ trong nhà vệ sinh
bằng thắt lưng của mình vì bị giáo viên mắng chưa? Bác ấy á, bác ấy đã treo
mình như thế năm bảy tuổi. Chính bác lao công đã đỡ bác ấy xuống.

- Có thể
bác ấy quá nhạy cảm…

- Nhạy
cảm? Cháu nói thế! Một năm sau, bác ấy cố tình đâm một trong những giáo viên
của mình bằng kéo. Bác ấy nhắm vào tim. May mắn sao, nó chỉ làm hỏng hộp thuốc
lá của thầy giáo.

Bà ngước
mắt lên trần nhà. Những kỷ niệm tản mát rơi xuống ý nghĩ của bà như những bông
tuyết.

- Sau đó
có vẻ ổn thỏa hơn một chút, vì một số giáo viên thu hút được bác ấy. Bác ấy đạt
điểm hai mươi cho những môn bác ấy quan tâm và điểm không cho những môn khác.
Luôn là hai mươi hoặc không.

- Mẹ nói
bác ấy là thiên tài.

- Bác ấy
mê hoặc mẹ cháu đấy vì bác ấy giải thích cho mẹ cháu rằng bác ấy cố đạt đến
“tri thức tuyệt đối”. Ngay lúc mười tuổi, mẹ cháu đã tin là có kiếp trước, nên
nghĩ bác ấy là hiện thân của Einstein hay Léonard de Vinci.

- Thêm cả
con sóc nữa chứ?

- Tại sao
không? “Cần phải có nhiều cuộc sống để tạo nên một linh hồn…” đức Phật đã nói
thế.

- Bác ấy
có làm trắc nghiệm IQ không?

- Có. Rất
là tồi. Bác ấy đạt 23 trên 180, điểm tương đương với một đứa hơi ngốc. Giáo
viên nghĩ là bác ấy điên và phải cho bác ấy đến một trung tâm chuyên biệt.
Nhưng bà biết là bác ấy không điên. Bác ấy chỉ ở “bên cạnh” thôi. Bà nhớ một
lần, ồ, có lẽ bác ấy vừa tròn mười một tuổi, bác ấy thách bà xếp được bốn hình
tam giác bằng nhau chỉ với sáu que diêm. Không dễ tí tẹo nào, cháu thử xem sao…

Bà đi vào
bếp, liếc nhìn ấm nước và mang sáu que diêm ra. Jonathan chần chừ một lát. Có
vẻ như làm được. Anh xoay sáu cái que thành nhiều cách khác nhau, nhưng sau
nhiều phút hí hoáy đành bỏ cuộc.

- Cách
làm như thế nào ạ?


Augusta tập trung.

- Ờ, thực
ra, bà nghĩ là bác ấy chưa bao giờ cho bà biết. Mọi điều mà bà nhớ là câu bác
ấy nói cho bà để giúp bà tìm ra cách: “Phải nghĩ khác đi, nếu người ta chỉ nghĩ
theo thói quen thì chẳng đạt được gì.” Cháu thử hình dung xem, một thằng bé mười
một tuổi mà nói ra những điều như thế! À! Bà nghe thấy tiếng ấm nước reo. Nước
chắc phải sôi rồi.

Bà trở
lại với hai tách đầy một thứ nước màu vàng nhạt rất thơm.

- Cháu
biết không, thấy cháu quan tâm đến bác mình, bà rất hài lòng. Thời nay, khi ai
đó chết đi, người ta thậm chí còn quên là họ đã được sinh ra.

Jonathan
bỏ dở mấy que diêm và nhẹ nhàng uống vài ngụm cỏ roi ngựa.

- Sau đó,
việc gì xảy ra ạ?

- Bà cũng
không biết, ngay khi bác ấy bắt đầu học đại học khoa học, ông bà không có tin
tức gì nữa. Bà biết được đại khái qua mẹ cháu rằng bác ấy bảo vệ xuất sắc bằng
tiến sĩ, rằng bác ấy làm cho một công ty thực phẩm, rồi bác ấy bỏ công ty để đi
châu Phi, sau đó quay lại sống ở phố Sybarites, nơi mà không một ai nghe nói
đến bác ấy cho đến lúc bác ấy chết.

- Bác ấy
chết như thế nào?

- À! Cháu
không biết sao? Một chuyện không thể tin được. Họ đăng chuyện đó trên khắp các
mặt báo. Bác ấy chết vì bị ong vò vẽ đốt.

- Ong vò
vẽ? Chuyện thế nào cơ?

- Bác ấy
đi dạo một mình trong rừng. Chắc là bác ấy vô tình vấp phải một tổ ong. Chúng
bâu đầy người bác ấy. Bác sĩ pháp y khẳng định: “Chưa bao giờ tôi thấy có nhiều
vết đốt trên một người như thế.” Bác ấy chết với 0,3 gam nọc độc trong một lít
máu. Chưa từng thấy bao giờ.

- Bác ấy
có mộ không?

- Không.
Bác ấy yêu cầu được chôn dưới một cây thông trong rừng.

- Bác có
ảnh không ạ?

- Nhìn
đằng kia kìa, trên tường ấy, phía trên cái tủ com mốt. Bên phải: Suzy, mẹ cháu
(cháu đã nhìn thấy mẹ cháu trẻ như thế chưa?). Bên trái: Edmond.

Ông có
vầng trán rộng, bộ ria nhọn, tai không dái tai kiểu Kafka[2] cao
tới chân mày. Ông cười ranh mãnh. Một con quỷ con.

[2] Franz Kafka (1883-1924) là một nhà văn tiếng Đức, xuất thân trong
một gia đình gốc Do Thái. Ông là một trong số những nhà văn phương Tây lớn của
thế kỷ XX.

Bên cạnh
ông, Suzy rạng rỡ trong chiếc váy trắng. Mấy năm sau, cô kết hôn, nhưng luôn
giữ họ Wells. Như thể cô không muốn chồng truyền lại dấu ấn dòng họ mình cho
con cái.

Tiến lại
gần hơn, Jonathan thấy Edmond dựng hai ngón tay trên đầu em gái mình.

- Bác ấy
rất tinh nghịch, đúng không ạ?


Augusta không trả lời. Nét buồn đượm trong ánh mắt khi bà nhìn lại khuôn mặt
rạng rỡ của con gái. Suzy mất sáu năm trước. Một chiếc xe tải mười lăm tấn do
tài xế say rượu lái đẩy ô tô của cô xuống rãnh. Cô hấp hối hai hôm. Cô đòi
gặp Edmond, thế nhưng Edmond thậm chí không tới. Thêm một lần
nữa, ông lại ở đâu đâu…

- Bà
không biết ai khác có thể nói cho cháu về Edmond?

- Hừm…
Bác ấy có một bạn thiếu thời mà bác hay gặp. Chúng còn học chung đại học với
nhau. Jason Bragel. Hẳn bà vẫn còn số điện thoại của bác ấy.

Augusta xem
nhanh máy tính của mình rồi đưa cho Jonathan địa chỉ của người bạn đó. Bà trìu
mến nhìn cháu ngoại. Đây là người sống sót cuối cùng của gia đình Wells. Một
cậu bé dũng cảm.

- Nào,
uống nốt trà đi, nó đang nguội kìa. Bà có cả bánh Madeleine nữa, nếu cháu muốn.
Tự tay bà làm với trứng chim cút đấy.

- Thôi ạ,
cháu cảm ơn bà. Cháu phải đi đây. Một ngày nào đó bà qua căn hộ mới của chúng
cháu chơi nhé, chúng cháu dọn đến đó xong rồi.

- Đồng ý,
nhưng chờ đã, đừng có đi mà quên lá thư.

Kiên trì
lục cái tủ tường lớn và mấy cái hộp sắt, cuối cùng bà cũng thấy cái phong bì
trắng trên đó ghi dòng chữ viết vội: “Gửi Jonathan Wells.” Mép gập của phong bì
được bảo vệ bằng nhiều lớp băng dính để tránh bị mở không đúng lúc. Anh cẩn
thận xé phong bì. Một tờ giấy nhàu nhĩ, loại sổ tay học sinh, rơi ra. Anh đọc
một câu duy nhất ghi trong đó:

“TUYỆT
ĐỐI KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC XUỐNG KHO CHỨA ĐỒ!”

Con kiến
rung rung mấy sợi râu. Nó như chiếc ô tô người ta bỏ lâu dưới tuyết và người ta
thử khởi động lại. Con đực làm như thế nhiều lần. Nó xoa cho con kiến thợ. Bôi
cho con cái chút nước dãi nóng.

Sống rồi.
Xong, động cơ được khởi động trở lại. Một mùa trôi qua. Mọi thứ lại bắt đầu như
thể nó chưa bao giờ trải qua kỳ “tạm chết”.

Nó vẫn
xoa cho con kiến thợ để truyền thêm năng lượng. Bây giờ, kiến thợ đã khỏe hơn.
Trong khi nó tiếp tục vất vả, kiến thợ hướng râu về phía nó. Kiến thợ cù nhè
nhẹ nó. Kiến thợ muốn biết nó là ai.

Kiến thợ
sờ khúc đầu của con kiến đực, bắt đầu từ hộp sọ và đọc tuổi của nó: một trăm
bảy mươi ba ngày tuổi. Trên khúc thứ hai, kiến thợ xác định đẳng cấp của nó:
kiến đực giống. Ở khúc thứ ba, loài và tổ của nó: kiến đỏ hung ở rừng thuộc
thành phố mẹ Bel-o-kan. Ở khúc thứ tư, con kiến thợ nhận ra số lứa sinh dùng để
nhận dạng nó: nó là con kiến đực thứ 327, được sinh ra từ hồi đầu mùa thu.

Tới đó,
kiến thợ ngừng đánh hơi tìm hiểu. Những khúc khác không phát thông tin. Khúc
thứ năm dùng để tiếp nhận các phân tử dấu vết. Khúc thứ sáu được dùng cho những
hội thoại đơn giản. Khúc thứ bảy cho phép những hội thoại phức tạp hơn kiểu
tình dục. Khúc thứ tám dành để nói chuyện với Kiến Chúa. Cuối cùng, ba khúc còn
lại dùng làm chùy nhỏ.

Thế đấy,
kiến thợ đã xem xong một lượt mười một khúc của nửa thứ hai của râu. Nhưng nó
chẳng có gì để nói với con kiến đực. Thế là nó lánh đi và, tới lượt nó, đi sưởi
ấm trên mái của Tổ.

Con kiến
đực cũng làm thế. Kết thúc công việc của sứ giả truyền nhiệt, giờ là chỗ cho
công việc tu bổ!

Lên tới
trên cao, con đực 327 xem xét các thiệt hại. Tổ được xây theo hình nón để ít bị
ảnh hưởng khi thời tiết xấu, thế nhưng, mùa đông là kẻ phá hoại. Gió, tuyết và
mưa đá đã làm bật lớp cành đầu tiên. Phân chim lấp một số lối đi. Phải nhanh
chóng bắt tay vào việc. Con 327 tiến tới một mảng lớn màu vàng và dùng hàm trên
phá thứ chất cứng và thối đó đi. Phía bên kia thoáng xuất hiện bóng một con côn
trùng đang đào từ bên trong.

Cái lỗ
nhìn quang học ở cửa tối đi. Người ta nhìn nó qua cánh cửa.

- Ai đấy?

- Ông
Gougne… Tôi đến để đóng sách.

Cánh cửa
hé mở. Cái ông tên Gougne cúi nhìn cậu bé tóc vàng khoảng mười tuổi, rồi, thấp
hơn nữa, một con chó bé xíu, thò mõm qua hai chân của cậu bé, bắt đầu gầm gừ.

- Bố
không có nhà!

- Cháu
chắc không? Giáo sư Wells lẽ ra phải qua gặp ông và…

- Giáo sư
Wells là ông của cháu. Nhưng ông mất rồi.

Nicolas
muốn đóng cửa nhưng người đàn ông nhích chân lên để cố nài.

- Thành
thật chia buồn. Nhưng cháu chắc là ông ấy không để lại một túi đựng tài liệu to
đùng chứa đầy giấy chứ? Ông là người đóng sách. Ông ấy đã trả tiền trước để
đóng bìa da tập ghi chép công việc của mình. Ông ấy muốn làm một quyển từ điển
bách khoa toàn thư, ông nghĩ thế. Lẽ ra ông ấy phải qua nhưng ông không có tin
tức của ông ấy từ lâu lắm rồi…

- Ông mất
rồi, cháu đã nói với ông.

Người đàn
ông nhích chân thêm chút nữa, lấy đầu gối đẩy cánh cửa như thể ông ta muốn xô
cậu bé để vào. Con chó cong người lại, bắt đầu sủa gay gắt. Ông ta đứng im.

- Cháu
hiểu cho, điều này sẽ khiến ông áy náy vô cùng vì không giữ lời hứa với ông ấy,
dù chỉ là di cảo. Cháu làm ơn kiểm tra lại. Chắc chắn phải có một cái cặp tài
liệu lớn màu đỏ ở đâu đó.

- Ông nói
là một quyển từ điển bách khoa toàn thư ạ?

- Đúng,
ông ấy tự đặt tên quyển này là: “Từ điển Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối
và tuyệt đối”, nhưng ông sẽ ngạc nhiên nếu như nó được ghi trên bìa…

- Cả nhà
cháu đã phải thấy nếu nó ở nhà chúng cháu.

- Ông xin
lỗi vì năn nỉ thêm nhưng…

Con chó
bông lùn bắt đầu sủa. Người đàn ông hơi lùi lại, đủ để cho cậu bé đóng sập cửa
trước mặt ông ta.

Bây giờ
cả Tổ đã thức dậy. Các hành lang chật kín sứ giả truyền nhiệt đang khẩn trương
ủ ấm cho cả Bầy. Thế nhưng, ở một số nơi giao nhau trong Tổ, người ta còn thấy
nhiều công dân bất động. Kiến truyền nhiệt lay chúng một cách vô vọng, đập chúng,
nhưng chúng không nhúc nhích.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3