Chiến Tranh Và Hòa Bình (Quyển 3) - Phần 11 - Chương 04 + 05 + 06
Phần
XI
Chương
- 4 -
Trong một căn nhà gỗ rộng rãi, căn
nhà đẹp nhất của bác mu-gich Andrey Xovoxtyanov. Lúc hai giờ có phiên họp hội
đồng quân sự. Bao nhiêu đàn ông đàn bà và trẻ con trong cái gia đình nông dân
đông đúc ấy đều chen chúc cả trong gian nhà phụ sát phòng ngoài.
Chỉ có một mình con bé Malasa, đứa
cháu gái lên sáu của bác Andrey vừa được đức ông âu yếm vuốt ve và cho một
miếng đường khi dùng trà, là ở lại trong gian nhà lớn. Ngồi trên lò sưởi,
Malasa bẽn lẽn và vui mừng ngắm nghía mặt mày, quân phục và huân chương của các
vị tướng bấy giờ đang lần lượt bước vào nhà và ngồi lên mấy chiếc ghế dài rộng
rãi đặt ở góc thờ, dưới các tượng thánh. Còn ông cụ (Malasa thầm gọi Kutuzov
như vậy) thì ngồi riêng ra, trong các góc tối bên lò sưởi. Ông ngồi thụt sâu
vào chiếc ghế bành xếp đằng hắng luôn mồm và xốc mãi chiếc cổ áo tuy đã mở
phanh ra nhưng vẫn có vẻ như đang chẹn ngang cổ. Những người mới vào lần lượt
đến chào vị thống soái, và có người thì ông bắt tay, có người thì ông gật đầu
chào lại. Viên sĩ quan phụ tá Kaixarov định vén bức màn trên cửa sổ, cạnh chỗ
Kutuzov ngồi, nhưng ông giận dữ khoát tay một cái, và Kaixarov hiểu rằng đức
ông không muốn cho ai trông thấy mặt mình.
Chung quanh chiếc bàn gỗ mộc mạc đặt
đầy những bản đồ, giấy má, bút chì, có nhiều người đứng đến nỗi những người
lính hầu phải mang thêm một chiếc ghế dài đến đặt bên bàn. Ba người mới đến là
Yermolov, Kaixadov và Toll ngồi xuống chiếc ghế ấy. Ngay phía dưới các bức ảnh
thánh, Barclay de Tolly ngồi ở chỗ danh dự, cổ đeo huân chương Georges, khuôn
mặt xanh xao ốm yếu, vầng trán cao lẫn với mái đầu hói. Đã hai ngày nay ông ta
bị sốt, và lúc bấy giờ ông cứ run từng cơn. Ngồi cạnh ông ta là Uvatov, đang
nói khẽ lúc bấy giờ (mọi người đều nói khẽ) với Barclay điều gì, lay hoa lên
lia lịa. Tướng Dokhturov người bé nhỏ và tròn trĩnh, lông mày giương cao, hai
tay đặt trong bụng, đang chăm chú lắng nghe.
Ở phía bên kia, bá tước Oxtemlan
Toletoy hai tay chống đầu, khuôn mặt rộng có những đường nét táo bạo và đôi mắt
sáng quắc, đang ngồi im có vẻ trầm ngâm suy nghĩ. Raievxki, vẻ sốt ruột, lấy
tay vê mớ tóc đen láy phủ lên thái dương với một cử chỉ quen thuộc. khi thì
nhìn Kutuzov, khi thì nhìn ra cửa. Khuôn mặt rắn rỏi, tuấn tú và hiền hậu của
Konovnitxyn sáng bừng lên trong một nụ cười dịu dàng và ranh mãnh. Ông ta bắt
gặp mắt Malasa đang nhìn lại liền nháy mắt ra hiệu, khiến cho con bé mỉm cười.
Mọi người đang chờ đợi Benrigxen,
bấy giờ đang lấy cớ là đi xem xét lại địa thế để ăn nốt bữa ăn chiều ngon lành.
Họ đợi ông ta, từ bốn đến sáu giờ, và suốt trong thời gian đó không thảo luận
gì chỉ khe khẽ nói chuyện riêng.
Mãi đến khi Benrigxen bước vào nhà
gỗ, Kutuzov mới từ trong góc nhích ghế đến gần bàn, những vẫn chú ý ngồi sao
cho ánh sáng của mấy ngọn nến vừa đặt trên bàn đừng soi vào mặt.
Benrigxen khai mạc cuộc hội nghị
bằng một câu hỏi: "Nên bỏ thủ đô thiêng liêng và cổ kính của nước Nga hay
nên cố giữ lấy?"
Tiếp theo đó mọi người đều im lặng
một hồi lâu. Tất cả các gương mặt đều cau lại, và trong không khí im lặng có
thể nghe rõ tiếng ho hắng và tiếng hừ hừ bọc dọc của Kutuzov. Mắt mọi người đều
đổ dồn về phía ông ta. Malasa cũng nhìn ông cụ của nó. Nó ngồi gần ông hơn cả
và thấy rõ mặt ông đang nhăn nhó: hệt như ông sắp khóc. Nhưng đều đó chỉ thoáng
trong một lát.
- Thủ đô thiêng liêng và cổ kính của
nước Nga. - Kutuzov bỗng nói, giọng bực tức, ông nhắc lại lời của Benrigxen,
khiến cho mọi người rõ cái giọng giả dối của câu này. - Thưa đại nhân, xin đại
nhân cho phép tôi thưa rằng câu hỏi đó đối với một người Nga không có nghĩa gì
cả. (ông chồm cả cái thân hình nặng nề của mình ra phía trước). Đó là một câu
hỏi không thể đặt ra được một câu hỏi vô nghĩa. Sở dĩ tôi mời các ngài đây đến
họp là để giải quyết một vấn đề khác, một vấn đề quân sự. Vấn đề đó như sau:
"Cứu tinh của nước Nga là quân đội. Khởi chiến để rồi có cơ mất cả quân
đội lẫn Moskva lợi hơn, hay là bỏ Moskva không khởi chiến lợi hơn? Đây, tôi
muốn biết được ý kiến của các ngài về vấn đề đấy". (ông ngả người ra phía
sau dựa vào lưng ghế).
Cuộc tranh luận bắt đầu. Benrigxen
chưa chịu thua. Tuy vẫn chấp nhận ý kiến của Barclay và của một số người khác
rằng không thể mở một trận chiến dấu phòng ngự ở Fili được, nhưng ông ta vì quá
thấm nhuần lòng ái quốc Nga và vì quá yêu Moskva nên đề nghị đang đêm điều quân
từ sườn phải sang sườn trái và đến hôm sau đánh mạnh vào cánh phải của quân
Pháp. Ý kiến các tướng chia làm hai phe, phe thì bênh vực phe thì phản đối.
Yermolov, Dokhturov và Raievexki đứng về phía Benrigxen.
Không biết vì họ cảm thấy phải hy
sinh ít nhiều trước khi rời bỏ thủ đô, hay vì những lý do riêng nào khác, nhưng
các vị tướng ấy đường như không hiểu rằng phiên họp hội đồng này không thể nào
thay đổi được hướng diễn biến tất yếu của sự việc và ngay từ bây giờ Moskva đã
bị bỏ ngỏ rồi. Các vị tướng khác đều hiểu rõ điều đó, nên gác vấn đề Moskva
sang một bên và bàn đến hướng đi của quân đội khi rút lui. Malasa chăm chú theo
dõi những việc đang diễn ra trước mắt nó: nó hiểu ý nghĩa của phiên họp hội
đồng này một cách khác. Nó tưởng rằng đây chỉ là một cuộc cãi vã riêng giữa
"ông cụ" và "cái ông mặc áo vạt dài kia". Nó thấy hai người
có vẻ rất hằn học khi nói với nhau, và trong khi lòng nó đứng về phía ông cụ:
Giữa chừng cuộc tranh cãi, nó để ý thấy anh cụ đưa nhanh về phía Benrigxen một
cái nhìn ranh mãnh, rồi nó lại vui mừng nhận thấy ông cụ nói một câu gì làm cho
cái "ông mặc áo vạt dài" kia rất bẽ: Benrigxen đề nghị nhằm chuyển
quân từ sườn phải sang sườn trái để tấn công cánh hữu của quân Pháp.
Giọng bình tĩnh và nhẹ nhàng.
Kutuzov nói:
- Thưa các ngài, tôi không thể tán
thành kế hoạch của bá tước đại nhân đây được. Chuyển quân ở sát cạnh quân địch
bao giờ cũng nguy hiểm, lịch sử quân sự đã xác minh điều đó. Chẳng hạn…
(Kutuzov làm ra vẻ như đang ngẫm nghĩ để tìm một dẫn chứng, mắt đưa về phía Benrigxen
một cái nhìn trong sáng và ngây ngô). Ta, ta hẵng cứ lấy trận Fridland chẳng
hạn, tôi chắc trận này thì bá tước nhớ rõ lắm; kết quả trận này không được… mỹ
mãn cho lắm chỉ vì quân ta bố trí lại trong khi đang ở gần quân địch quá… -
Tiếp theo là một phút im lặng mà mọi người đều có cảm giác là rất dài.
Cuộc tranh luận lại tiếp diễn, nhưng
chốc chốc lại có những khoảng im lặng, và mọi người đều cảm thấy chẳng có gì để
mà nói nữa.
Trong một khoảng im lặng như thế,
Kutuzov thở dài một tiếng nặng nề như sắp nói điều gì. Mọi người đều nhìn về
phía ông ta.
- Ấy thế thưa các ngài! Tôi biết
rằng cốc vỡ thì chính tôi phải đền. - Kutuzov nói, đoạn chậm rãi đứng dậy và
bước lại gần bàn. - Thưa các ngài, tôi đã được nghe ý kiến của các ngài. Trong
số các ngài sẽ có những người không đồng ý với tôi. Nhưng tôi… (ông dừng lại
một lúc) xin sử dụng cái quyền hạn. - Mà hoàng thượng và tổ chức giao cho tôi,
tôi ra lệnh lui quân. - Các tướng bắt đầu giải tán với cái vẻ thận trọng, lặng
lẽ và trang nghiêm như khi người ta giải tán sau một đám tang.
Vài viên tướng đến nói khẽ với vị
tổng tư lệnh điều gì, giọng nói khác hẳn khi họ thảo luận trong phiên họp hội
đồng.
Malasa, đáng lẽ phải về ăn tối từ
lâu, thận trọng trườn từ trên giàn lò xuống, đôi chân bé nhỏ để trần bám vào những
cái u trên lò sưởi và luồn qua chân các vị tướng mà chạy ra cửa.
Sau khi các tướng đã ra về, Kutuzov
vẫn ngồi chống khuỷu tay lên bàn hồi lâu. Ông vẫn nghĩ tới cái vấn đề kinh
khủng ấy: "Việc bỏ ngỏ Moskva đã được định đoạt từ lúc nào? Cái việc có tác
dụng quyết định vấn đề này đã xảy ra từ lúc nào? Ai là người có lỗi trong việc
này?"
Đêm đã khuya. Khi viên sĩ quan phụ
tá Snaider bước vào phòng, Kutuzov nói với ông ta:
- Thật không ngờ, thật tôi không ngờ
như vậy? Tôi không thể ngờ!
Snaider nói:
- Thưa đại nhân, ngài cần nghỉ ngơi
một chút.
Kutuzov không đáp, dang nắm tay phốp
pháp đặt lên bàn quát dập lên bàn quát:
- Ồ không đâu! Rồi chúng nó sẽ phải
ngốn thịt ngựa như bọn Thổ Nhĩ Kỳ, chúng nó sẽ phải ăn cho mà xem, miễn là…
Phần
XI
Chương
- 5 - 6-
Cùng lúc ấy, trong một sự kiện còn
quan trọng hơn việc rút quân không chiến đấu, là việc bỏ ngỏ và đốt cháy
Moskva.
Raxtovsin, mà chúng ta xem là người
chỉ đạo sự việc này, đã hành động trái hẳn với Kutuzov.
Sự việc ấy. - Bỏ ngỏ và đốt cháy
Moskva. - Cũng tất yếu như việc rút quân về phía sau Moskva, không đánh trận
nào.
Mỗi người Nga, không phải trên cơ sở
suy luận, mà trên cơ sở cái tình cảm vẫn sống trong lòng chúng ta và trong lòng
cha ông chúng ta, chắc cũng đã tiên đoán được những điều ấy diễn ra.
Bắt đầu từ Smolensk trong tất cả các
thành phố và làng mạc của đất nước Nga, không hề có sự tham dự của bá tước
Raxtovsin và những lời tuyên cáo của ông ta, thế mà sự việc đều diễn ra đúng
như ở Moskva. Nhân dân điềm tĩnh đợi quân thù đến, không nổi loạn, không nhốn
nháo, không hành hung người nào cả. Họ bình tĩnh chờ đợi vận mệnh, cảm thấy
rằng đến giờ phút khó khăn nhất họ sẽ có thể biết rõ mình phải làm gì, và hễ
quân địch gần đến nơi, là những người giàu có nhất trong dân cư bỏ đi, để của
cải lại; những người nghèo nhất thì ở lại, phá huỷ và đốt cháy những gì còn
sót.
Trong tâm hồn của người Nga, xưa kia
cũng như bây giờ, đều có ý thức rằng sự thể sẽ như thế nào, và bao giờ cũng vẫn
như thế. Và cả xã hội Nga ở Moskva năm 1812 đều có ý thức đó, hơn nữa, còn có
cái tình cảm rằng Moskva bị chiếm. Những người đang lục tục rời bỏ Moskva ngay
từ tháng bảy và đầu tháng tám đã chứng tỏ rằng họ đã đoán trước việc đó. Khi ra
đi với những thứ có thể vơ theo, bỏ nhà cửa và một nửa tài sản, họ hoạt động
theo một lòng yêu nước tiềm tàng, một lòng yêu nước không biểu lộ bằng lời nói,
bằng việc hy sinh con cái để dâng lên bàn thờ tổ quốc hay những hoạt động giả
tạo tương tự thế, mà là một lòng yêu nước bộc lộ ra một cách thầm lặng, đơn
giản hữu cơ và vì vậy bao giờ cũng có những kết quả rất mạnh.
"Chạy trốn trước nguy cơ là một
điều đáng hổ thẹn: chỉ có những kẻ hèn nhát mới bỏ Moskva và chạy trốn" -
Người ta bảo vậy. Trong các tờ tuyên cáo, Raxtovsin cũng gợi ý cho họ thấy rằng
rời bỏ Moskva là nhục nhã. Họ rất hổ thẹn khi phải nhận cái danh hiệu là kẻ hèn
nhát, họ rất hổ thẹn khi phải ra đi, nhưng họ vẫn cứ ra đi, vì biết rằng cần
phải làm như vậy. Tại sao họ phải ra di? Không thể nói rằng họ khiếp sợ vì tin
lời Raxtovsin kể lại về những chuyện kinh khủng mà Napoléon đã làm trong các
vùng bị chinh phục. Họ ra đi, và những người ra đi trước nhất là những người
giàu sang, có học thức, vốn biết rất rõ ràng Viên và Berlin vẫn nguyên vẹn và
khi Napoléon chiếm đóng hai thành này thì dân cư ở đây sống rất vui vẻ với
người Pháp, những con người rất có duyên mà thời ấy người Nga rất thích, nhất
là phụ nữ Nga.
Họ ra đi vì đối với người Nga không
thể có vấn đề: dưới quyền cai trị của Pháp thì ở lại Moskva sướng hay khổ. Dưới
quyền cai trị của Pháp thì không thể nào sống được: đó là điều tệ hơn cả. Trước
trận Borodino họ đã bỏ đi, và sau trận Borodino họ còn bỏ đi nhanh chóng hơn
nữa, bất chấp những lời kêu gọi phòng thủ, bất chấp những lời tuyên bố của quan
tư lệnh Moskva là sẽ rước ảnh Đức Bà Iverya ra đánh giặc, bất chấp những quả
khinh khí cầu mà người ta định dùng để tiêu diệt quân Pháp và bất chấp tất cả
những lời lẽ nhảm nhí mà Raxtovsin viết trong các bản tuyên các của ông ta.
Họ biết rằng quân đội có nhiệm vụ
phải chiến đấu, và một khi quân đội đã không làm được việc đó thì không thể đem
các cô tiểu thư cùng các gia nhân lên khu Trigorư đánh nhau với Napoléon được,
cho nên họ đành phải bỏ đi, mặc dù rất xót xa khi phải vứt của cải lại. Họ ra
đi, không hề nghĩ đến cái ý nghĩ lớn lao của việc rời bỏ chốn thủ đô giàu có,
đồ sộ này, phó mặc nó cho mồi lửa (một thành phố lớn nhà cửa toàn bằng gỗ mà
dân cư bỏ đi thì thế nào cũng phải cháy); mỗi người ra đi như vậy vì bản thân
mình, nhưng đồng thời chỉ riêng việc họ bỏ đi thôi cũng đã làm nên cái sự kiện
lớn lao mãi mãi sẽ là sự kiện vẻ vang nhất của dân tộc Nga. Một bà lớn đã cùng
mấy người đầy tớ da đen và mấy anh hề rời Moskva đi về vùng quê Xaratov từ hồi
tháng sáu, với một ý thức mơ hồ là mình không thể ở lại làm đầy tớ cho
Bonaparte vừa đi vừa sợ bị chặn lại giữa đường theo lệnh của bá tước Raxtovsin,
con người cũng có lúc thoá mạ những ai bỏ đi, đã có lúc cho các cơ quan hành
chính phân tán ra ngoài thành, đã từng phát những vũ khí không còn dùng được
nữa cho kẻ say rượu, đã từng cho dỡ các tượng thánh ra, đã có lúc cấm cha
Auguxtin đưa các thánh tích và các ảnh tượng ra khỏi Moskva, đã từng sung công
tất cả các xe tải của tư nhân, đã dùng một trăm ba mươi sáu chiếc xe tải chở
quả kinh khí cầu do Leppich làm ra, lại đã từng nói bóng gió rằng mình sẽ đốt
cháy Moskva, đã từng kể lại rằng mình đã đốt nhà riêng và đã thảo ra một bản
tuyên cáo gửi cho quân Pháp, long trọng trách móc họ đã phá mất cái cô nhi viện
của mình, đã từng đứng ra nhận lấy cái vinh quang của việc đốt Moskva, rồi lại
chối rằng mình không làm việc đó, đã ra lệnh cho nhân dân bắt hết bọn do thám
giải đến cho mình, rồi lại trách móc nhân dân đã làm theo lệnh ấy, đã trục xuất
tất cả các Pháp kiều ra khỏi Moskva. nhưng lại để bà Ober Salme ở lại thành
phố, trong khi bà ta là trung tâm của cái xã hội Pháp ở Moskva, đồng thời lại
vô cớ ra lệnh bắt và đày biệt xứ viên giám đốc bưu chính Klustarev, một con
người già cả và đáng kính, đã từng triệu tập dân chúng lên khu Trigorư đánh
nhau với Pháp, rồi để thoát khỏi đám dân chúng này, lại ẩy ra một người để cho
họ đánh chết còn mình thì chuồn ra cửa sau, đã có lúc nói rằng Moskva mà rơi
vào tay giặc thì mình cũng không sống sót lại làm gì, đã từng viết vào album
những câu thơ bằng tiếng Pháp để chứng tỏ rằng mình tham gia vào việc này. -
Con người đó không hiểu được ý nghĩa của sự việc xảy ra, lại cứ muốn tự mình
làm một việc gì, muốn tự làm cho mọi người ngạc nhiên, muốn hoàn thành một cái
gì cho thật xứng đáng với một trang anh hùng cứu quốc, và như một đứa trẻ con,
người đó chơi đùa với những biến cố lớn iao và tất yếu là việc bỏ ngỏ và đốt
cháy Moskva, và cứ đưa bàn tay nhỏ bé của mình ra, khi thì thúc dẩy, khi thì
ngăn chặn luồng nước lũ ồ ạt của nhân dân đang cuốn mình theo.
6.
Khi cùng với triều đình từ Vilna trở
về Petersburg, Elen lâm vào một tình cảm gay go khó xử.
Ở Petersburg, Elen được một vị đại
thần vào bậc nhất trong nước đặc biệt che chở cho. Còn ở Vilna thì nàng lại kết
thân với một hoàng thân ngoại quốc trẻ tuổi. Khi nàng trở về Petersburg thì vị
hoàng thân và vị đại thần đều đang ở đấy, cả hai đều đòi hưởng quyền được nàng
chiếu cố, thế là Elen đứng trước một bài tính chưa từng gặp trên bước đường sự
nghiệp của nàng: làm thế nào để duy trì quan hệ gần gũi với cả hai người, mà
không ngưòi nào phật ý.
Cái việc mà một người đàn bà khác sẽ
thấy là một khó khăn và thậm chí không thể nào làm được nữa, thì lại chẳng hề
khiến bá tước phu nhân Bezukhov phải bận tâm suy nghĩ gì: rằng được tiếng là
người đàn bà thông minh nhất, hẳn cũng không phải là không có căn cứ. Giả sử
nàng giấu giếm các hành tung của mình, cố dùng mưu mẹo để thoát ra khỏi tình
thế khó khăn này thì như vậy chẳng khác nào tự mình thú tội, và câu chuyện sẽ
hỏng bét. Nhưng nàng không làm như vậy; ngay từ đầu, như một vĩ nhân chân chính
có khả năng thực hiện tất cả những gì mình muốn, nàng đã tự mình đặt mình vào địa
vị của người chính trực và cũng thành thật tin rằng mình chính trực, còn bao
nhiêu người khác thì nàng đặt vào địa vị của người có lỗi.
Lần đầu tiên khi nhân vật ngoại quốc
trẻ tuổi kia dám đưa lời trách móc nàng, nàng đã kiêu hãnh cất cao mái đầu
tuyệt mỹ của nàng lên, và chỉ hơi ngoảnh về phía ông ta, nàng nói giọng rắn
rỏi:
- Đấy đàn ông họ ích kỷ và tàn nhẫn
như vậy đấy! Tôi cũng biết từ trước. Đàn bà người ta hy sinh cho các ông, người
ta đau khổ, thế mà các ông đều đáp lại như thế đấy. Thưa điện hạ, ngài có quyền
gì chất vấn tôi về những tình bạn, những tình quyến luyến của tôi? Người đó đối
với tôi còn hơn là người cha.
Nhân vật kia định nói lại một câu
gì, nhưng Elen đã chặn lời nói tiếp:
- Phải, có thể đối với tôi, ông ta
còn có những tình cảm khác hơn là tình cảm của một người cha, nhưng đó không
phải là một lý do để tôi cấm cửa ông la. Tôi có phải là đàn ông đâu mà vong ân
bội nghĩa như lậy. Xin điện hạ biết cho rằng về tất cả những gì liên quan đến
tình cảm sâu kín của tôi thì chỉ có Thượng đế và lương tâm tôi chứng giám! -
Nàng kết luận, tay đặt nhẹ lên bộ ngực đẹp đẽ đang phập phồng nâng cao, mắt
ngước nhìn trời.
- Nhưng xin phu nhân nghe tôi nói
đã, tôi van phu nhân.
- Ngài hãy kết hôn với tôi đi, rồi
tôi sẽ là nô lệ của ngài.
- Nhưng không thể được.
- Ngài không thèm hạ cố đến tôi,
ngài… Elen vừa khóc vừa nói.
Nhân vật kia ra sức an ủi nàng: còn
Elen thì vừa khóc sụt sùi vừa nói như đã mất hết tự chủ, rằng không còn gì để
ngăn trở nàng đi lấy chồng, rằng có nhiều trường hợp hồi ấy cũng chưa có được
mấy trường hợp, nhưng nàng vẫn kể được Napoléon và một vài nhân vật quyền quý
khác; nàng nói nàng chưa bao giờ là người vợ thật sự của chồng nàng, rằng nàng
đã bị đưa ra làm vật hy sinh.
- Nhưng còn luật pháp, tôn giáo… -
Nhân vật kia nói, trong lòng đã thấy xiêu xiêu.
- Pháp luật, tôn giáo… Những thứ đó
bày ra để làm gì, nếu không phải là để thu xếp những chuyện như thế này? - Elen
nói.
Nhân vật quan trọng kia ngạc nhiên,
không hiểu sao một điều suy luận đơn giản như thế mà mình lại không nghĩ ra, bèn
đến hỏi ý kiến của dòng tu sĩ Gia-tô(1) mà ông vẫn có quan hệ mật thiết.
(1)
Một dòng tu sĩ công giáo thành lập vào thế kỷ XVI một công cụ đắc lực của Giáo
hoàng để chống lại phái cải cách và các lực lượng tiến bộ khác. Vốn chủ trương
rằng "mục đích biện hộ cho phương tiện", dòng này dùng những biện
pháp tôn giáo để tổ chức do thám ám sát và hủ hoá
Sau đó ít hôm, vào một buổi dạ hội
rất nhã thú mà Elen tổ chức trong biệt thự của nàng ở Jamenny Oxtrov, người ta
giới thiệu nàng cho một người đứng tuổi rất có duyên, tóc trắng như tuyết, măt
đen và sáng: đó là ông De Jober, một tu sĩ dòng Gia-tô mặc áo ngắn.
Trong khu vườn của toà biệt thự,
dưới ánh đèn lồng và trong tiếng nhạc, ông ta đã nói chuyện rất lâu với Elen về
lòng kính yêu Đức Chúa trời, kính yêu đấng Cơ đốc, kính yêu trái tim đức thánh
của Đức mẹ Chúa trời, và về những niềm an ủi mà chỉ có một chân lý duy nhất có
thể đưa lại cho ta trong cuộc sống hiện tại và cuộc sống sau này: chân lý của
Công giáo(2) - Elen nghe nói rất cảm động, và đã mấy lần nàng và ông De Jober
mắt đều rớm lệ và giọng nói run run.
(2)
Cơ đốc giáo (Christianisme) gồm có nhiều tôn giáo khác nhau trong đó có công
giáo (catholisme) của một số nước Tây Âu và Chính giáo (orthodoxie), tôn giáo
của người Nga.
Một khách đến mời Elen nhảy khiến
cho câu chuyện giữa Elen và người chỉ đạo lương tâm của nàng phải tạm ngừng;
nhưng tối hôm sau ông De Jober lại đến một mình gặp Elen và từ đấy cứ đến thăm
nàng luôn.
Một hôm ông ta dẫn bá tước phu nhân
vào nhà thờ công giáo; nàng quỳ xuống trước bàn thờ. Người Pháp đứng tuổi rất
có duyên kia để tay lên đầu nàng, và về sau này nàng kể lại rằng lúc ấy nàng có
cảm giác như một làn gió mát rượi thổi vào tâm hồn. Người ta giảng giải cho
nàng hiểu đó là phước lành.
Rồi người ta dẫn đến cho nàng một
giáo sĩ mặc áo chùng. Vị giáo sĩ nghe nàng xưng tội và rửa sạch tội lỗi cho
nàng. Ngày hôm sau họ mang lại cho nàng một cái tráp đựng mình thánh và để lại
cho nàng dùng lại gia. Được mấy hôm Elen thích thú được biết rằng bây giờ mình
đã gia nhập giáo hội công giáo, giáo hội chân chính, và nay chính là giáo hoàng
sẽ biết đến trường hợp nàng, sẽ gửi cho nàng một thứ văn kiện gì đấy.
Tất cả những việc diễn ra ở xung
quanh nàng và có nàng tham dự, tất cả sự chăm sóc của những con người thông
minh như vậy đối với nàng, một sự chăm sóc biểu lộ dướí những hình thức thật dễ
chịu, tinh tế, và cái trạng thái trong sạch như chim bồ câu trắng của nàng bây
giờ (suốt thời gian nàng mặc toàn đồ trắng, thắt dải trắng), tất cả những điều
đó làm nàng thích thú: nhưng không giây phút nào nàng vì sự thích thú đó mà sao
nhãng mục đích của nàng.
Về mưu mẹo thì thường người ngu vẫn
lừa được người khôn hơn mình, do đó nàng hiểu rằng mục đích của tất cả những
lời lẽ, những việc lo toan ấy chủ yếu để nàng theo công giáo rồi quyên tiền của
nàng cho các tổ chức của dòng Gia-tô (người ta cũng nói xa nói gần với nàng về
việc này). Trước khi có tiền, Elen một mực đòi họ phải tiến hành những thủ tục
cần thiết để giải thoát nàng khỏi cuộc hôn nhân cũ. Trong quan niệm của nàng, ý
nghĩa của bất cứ tôn giáo nào cũng thế, chẳng qua là làm thế nào giữ được một
số nghi thức bề ngoài cho tươm tất trong khi thoả mãn những dục vọng của con
người. Và với mục đích ấy, trong một buổi nói chuyện với một vị giáo sĩ nàng
một mực đòi ông ta phải cho nàng biết rõ cuộc hôn nhân cũ của nàng có thể ràng
buộc nàng đến mức nào.
Họ đang ngồi trong phòng khách, bên
cạnh cửa sổ. Trời sâm sẩm tối. Từ cửa sổ đưa vào những mùi hoa thơm ngát. Elen
mặc áo đài trắng, ngực và hoa thêu rua. Vị giáo sĩ là một người béo tốt phương
phi, râu cạo nhẵn, có cái miệng rắn rỏi dễ yêu và hai bàn tay trắng trẻo đặt
lên đầu gối một cách rất hiền lành, ngồi gần sát Elen và môi mỉm cười một nụ
cười tế nhị, chốc chốc lại nhìn khuôn mặt nàng, cái nhìn tán thưởng một cách
điềm tĩnh sắc đẹp của nàng, và trình bày cho nàng nghe quan điểm của ông ta về
vấn đề đang khiến hai người quan tâm. Elen mỉm cười băn khoăn, đưa mắt nhìn bộ
tóc quăn và đôi má phinh phính cạo nhẵn có ánh biêng biếc của ông ta và từng
phút chờ đợi ông ta đổi hướng câu chuyện. Nhưng vị giáo sĩ mặc dầu có vẻ rất
hân thưởng sắc đẹp của người tiếp chuyện, vẫn say sưa với cát nghệ thuật điêu
luyện của mình trong những công việc như thế này.
Lý luận của vị chỉ đạo lương tâm là
như sau: vì không hiểu rõ ý nghĩa của việc mình làm, phu nhân đã phát thệ làm
người vợ trung thành của một người; nhưng người này, vì trong khi kết hôn không
tin vào ý nghĩa tôn giáo của hôn nhân, đã phạm tội báng bổ. Cuộc hôn nhân đã
không có được cái ý nghĩa hai mặt mà lẽ ra nó phải có. Nhưng tuy thế, lời thề
của phu nhân vẫn ràng buộc phu nhân. Phu nhân đã vi phạm lời thề ấy. Làm như
vậy có phạm tội gì Tội nhẹ hay tội trọng? Tội nhẹ, là bởi vì trong khi làm như
vậy phu nhân không có ý định gì xấu. Nếu bây giờ, vì muốn có con, phu nhân bước
đi bước nữa, thì tội của phu nhân có thể tha thứ được. Nhưng vấn đề lại tách ra
làm hai: thứ nhất là…
- Nhưng tôi thiết tưởng. - Elen nghe
đã thấy chán bỗng nói xen, với nụ cười mê hồn của nàng, - Tôi thiết tưởng rằng
sau khi đã theo một tôn giáo chân chính thì tôi không còn bị một tôn giáo sai
lầm ràng buộc nữa.
Vị chỉ đạo lương tâm kinh ngạc trước
cách đặt vấn đề đơn giản như chuyện dựng đứng quả trứng của Colombo(3) đó. Ông
ta rất thán phục sự tiến bộ nhanh chóng không ngờ của cô học trò, nhưng cũng
không thể từ bỏ toà lâu đài luận chứng mà ông đã dầy công bóp óc xây dựng nên.
- Chúng ta phải thoả thuận với nhau
mới được, bá tước phu nhân ạ, - và ông ta bắt đầu phản bác những lý luận cuả
người con gái tinh thần của ông ta.
(3)
Quả trứng của Columbo thường dùng để chỉ những sáng kiến hay và đơn giản nhưng
không ai nghĩ đến