Những người khốn khổ - PHẦN II - Quyển VI - Chương 01 - 02
QUYỂN VI: NHÀ TU PƠTI PICHPUÝT
I
NGÕ PICHPUÝT, SỐ 62
Cái cổng lớn số nhà 62, trong ngõ
Pichpuýt, cách đây nửa thế kỷ, cũng giống như mọi cổng lớn khác. Thường ngày,
cổng vẫn hé mở, khiến ai cũng phải nhòm vào; nhìn vào cũng không có gì thảm đạm
lắm: một cái sân có tường bao quanh, phủ đầy lá nho xanh, một khuôn mặt bác gác
cổng đang đi thơ thẩn. Phía trong cùng, những chòm cây to vươn lên khỏi bờ
tường. Những khi vườn hé chút ánh nắng hay khuôn mặt bác gác tươi cười vì có
chút hơi men thì khách qua đường, ai cũng cảm thấy lòng vui phơi phới. Thế mà
ngôi nhà số 62 là một nơi vô cùng u uất, mà chúng ta đã được nhìn qua.
Ngoài cửa thì vui tươi, trong nhà thì
chỉ nghe thấy tiếng cầu kinh và tiếng khóc.
Nào mấy ai đã qua được bác gác mà vào
nhà; muốn qua được bác, phải biết một câu thần chú như kiểu “úm ba la mở cửa ta
vào”; khi qua được bác, ta thử rẽ vào căn phòng nhỏ ở phía tay phải; một cái
thang gác chật hẹp giữa hai bức tường, chỉ vừa đủ một người đi; màu vôi vàng
sẫm thật dễ sợ; cầu thang đánh bóng, màu nâu. Nếu ta có gan mạo hiểm leo lên,
ta sẽ qua chỗ quặt đầu tiên, chỗ quặt thứ hai, rồi ta đến một cái hành lang;
vẫn cái màu vàng đùng đục, vẫn cái chân tường màu sô-cô-la theo dõi ta. Hai cái
cửa sổ xinh đẹp chiếu sáng xuống cầu thang và chiếu vào hành lang. Đến một chỗ
quặt thì hành lang tối sầm lại. Nếu ta cứ bước thêm vài bước nữa, ta sẽ thấy
một cái cửa bí mật, bí mật chính bởi vì nó không đóng lại. Đẩy cửa vào thì là
một căn buồng chừng ba mét vuông, lát đá hoa; lau chùi sạch sẽ, lạnh lẽo, tường
trải thứ giấy hoa xanh mười lăm xu một cuộn. Bên trái, choán hết chiều ngang
cái buồng, một cái cửa kính ô nhỏ để lọt vào một thứ ánh sáng nhàn nhạt. Mắt
nhìn không thấy một bóng người; tai nghe không thấy một bước chân đi, không một
tiếng thì thào. Tường trần trụi không bọc gì, buồng không có đồ đạc, đến một
cái ghế cũng không.
Nhìn mãi mới thấy ở bức tường trước mặt
một cái lỗ hình vuông, độ ba tấc vuông, chăng một hàng chấn song sắt màu đen,
đan chéo nhau, sần sùi, chắc chắn. Các song sắt ngang dọc làm thành những hình
vuông có thể nói những mắt lưới vuông đường huyền năm sáu phân. Những bông hoa
vẽ màu xanh trên tường cứ thản nhiên và đều đặn kéo đến gần những ô sắt, không
tỏ vẻ gì khiếp sợ và rối loạn. Ta có thể tưởng tượng một con người gầy đét dù
lọt ra, hay lọt vào qua lại ô vuông ấy, thì những cái gióng sắt kia sẽ cản lại.
Nó không để thân thể lọt qua, nhưng để cho mắt lọt, nghĩa là tinh thần. Hình
như người ta đã nghĩ đến điều đó vì ta thấy họ đã đóng thêm một tấm thiếc vào
tường ở phía sau một ít, tấm thiếc đục hàng ngàng lỗ nhỏ li ti, nhỏ hơn lỗ môi
hớt bọt.
Ở phía dưới tấm thiếc có đục thủng một
khe nhỏ như miệng hòm thư. Bên phải cái khe, treo thòng lọng một mẩu dây để kéo
chuông.
Cầm dây giật, tức thì một tiếng nói ngay
sát đấy làm ta phải rùng mình.
- Ai đấy.
Tiếng ấy là tiếng đàn bà, một tiếng nói
nhẹ nhàng, vì nhẹ nhàng quá nên nghe ra thảm đạm.
Nơi này, cũng phải biết một câu thần chú
thì cửa mới mở. Nếu không, tiếng nói sẽ lại câm lặng, bức tường im lìm, tưởng
như phía bên kia tường chỉ có bóng tối khủng khiếp nơi mộ địa.
Nếu ta biết câu bí mật, tiếng nói kia sẽ
tiếp:
- Rẽ sang tay phải.
Nhìn sang bức tường phía tay phải, đối
diện với cửa sổ, ta thấy một cái cửa lắp kính, sơn màu xám, bên trên là một
khung kính. Nhấc cái chốt bước qua cửa, ta có cảm tưởng hệt như khi ta bước
chân vào cái buồng con ở rạp hát khi chấn song chưa hạ xuống và đèn chưa thắp
lên. Buồng này quả giống như một buồng con trong rạp hát, chỉ có ánh sáng phía
cửa kính tỏa xuống mờ mờ, hẹp, kê hai cái ghế cũ và một cái đệm rơm đã xơ xác,
đứng như một cái buồng rạp hát, phía trước có một cái bàn nhỏ bằng gỗ đen.
Phòng đó tứ bề có chấn song, nhưng không phải thứ chấn song bằng gỗ thếp vàng
trong rạp Ôpêra ở Pari, mà lại là một thứ chấn song sắt khủng khiếp chằng chịt,
đóng vào tường bằng những chốt to tướng trông như những nắm tay.
Mấy phút qua, khi mắt đã quen với thứ
bóng tối mờ mờ như ở dưới hầm ấy, ta thử đi qua lớp chấn song; nhưng được vài
bước, lại có một hàng cửa ván đen ngòm chắn ngang trước mặt. Cửa thì đầy những
then ngang của hàng chấn song và lúc nào cũng đóng im ỉm.
Một lát sau, một tiếng nói từ sau cửa
vọng ra gọi khách và hỏi:
- Tôi đây, người cần gì ở tôi?
Tiếng nói ấy là tiếng nói của một người
thân mến, nhiều khi là tiếng nói của người yêu. Không thấy bóng người. Đến một
hơi thở cũng không nghe thấy. Hình như hồn ma nào từ dưới mồ vọng lên chuyện
trò với khách.
Có khi, trong những trường hợp hiếm hoi,
một cánh cửa mở ra trước mặt khách, hồn ma ấy hiển hiện lên. Sau lưới sắt, bên
trong cửa sổ, có một cái đầu, nhưng chỉ nhìn thấy miệng và cằm, còn thì là một
cái khăn voan đen kín mít. Thấp thoáng một cái yếm đen, một hình người phủ mảnh
vải liệm đen. Cái đầu ấy nói chuyện với khách, nhưng không nhìn khách và chẳng
bao giờ hé một nụ cười.
Ánh sáng từ phía cửa sổ soi vào, khiến
khách thấy cái đầu ấy trắng xóa, còn khách chỉ là một cái bóng đen ngòm. Ánh
sáng ấy có một ý nghĩa tượng trưng.
Qua lỗ hổng, mắt khách chăm chăm nhìn
vào khoảng tối âm u, tĩnh mịch. Tứ bề xung quanh cái hình người mặc đồ tang,
chỉ là một thứ không khí mơ hồ thăm thẳm. Mắt khách chăm chú tìm tòi xem trong
khoảng mơ hồ ấy có nhận được vật gì, ngoài bóng ma không. Một lát sau mới nhận
ra là chẳng trông thấy gì hết. Chỉ thấy đêm tối, khoảng không trống rỗng, bóng
đen mù mịt, một thứ sương mù quyện với hơi sương lạnh lẽo ngoài bãi tha ma; và
yên lặng ghê người, không thấy gì hết, không có cả đến hơi thở dài não nuột;
toàn là bóng tối, không thấy cả đến bóng ma vơ vẩn.
Nơi ấy là nhà tu kín.
Nhà tu ảm đạm, khắc khổ này thuộc dòng
thánh Bécna, gọi là nhà tu “Chầu mình Thánh hàng ngày”. Cái “buồng xem hát” vừa
rồi, là phòng tiếp khách; tiếng nói đầu tiên với khách là tiếng nói của một nữ
tu giữ cửa, lúc nào cũng ngồi lặng thinh, ở phía tường bên kia, gần cái cửa
vuông nhỏ có hàng chấn song sắt và tấm thiếc đục nhiều lỗ bảo vệ đến hai lần.
Cái phòng khách bịt lưới sắt tối om, vì
chỉ có một cửa sổ để lọt ánh sáng từ ngoài vào, còn phía nhà tu thì không có.
Con mắt trần tục không được nhìn vào nơi thiêng liêng kia.
Tuy đây là bóng tối, nhưng bên kia vẫn
có ánh sáng. Trong cõi chết này vẫn có một cuộc sống. Nhà tu này là nhà tu kín
cổng cao tường nhất, nhưng ta cứ thử vào và đưa bạn đọc vào để xem đời sống bên
trong ra sao và thuật lại có chừng mực những điều xưa nay chưa ai từng thấy, do
đó cũng chưa kể bao giờ.
II
TIỂU TU VIỆN CỦA MÁCTANH VÉCGA
Cái tiểu tu viện ấy, hồi 1824 đã có từ
lâu ở ngõ Pichpuýt, là một tu viện của các nữ tu sĩ Bécnađin, thuộc dòng của
Máctanh Vécga. Như thế là những tu sĩ ấy không phụ thuộc vào tu viện Cơlécvô
như những nam tu sĩ dòng Bênêđichtanh, nói khác đi là họ không thờ thánh Xanh
Bécna mà thờ thánh Xanh Bơnoa.
Ai đã đọc một ít bộ sách lớn đều biết
rằng Máctanh Vécga năm 1425 đã sáng lập một giáo hội nữ tu sĩ
Bécnađin-bênêđichtin mà tu viện chính là Xalamăngcơ và tu viện phụ là Ancala.
Hội nữ tu ấy đã phát triển chi nhánh
khắp các nước châu Âu theo đạo Giatô.
Ghép một dòng tu này với một dòng tu
khác là việc thường diễn ra trong nhà thờ Latinh. Chỉ kể dòng thánh Bơnoa của
Máctanh Vécga còn bốn giáo hội nữa: hai ở Ý, giáo hội Mông Caxanh và giáo hội
nữ thánh Giuyxtin đơ Pađu; hai ở Pháp, giáo hội ở Cơluyni và giáo hội Xanh Môrơ
và chín nhánh nữa: Valôngbơrôđa, Gơramông, Xêlextanh, Camăngđan, Sáctơrơ,
Uymiliê, Ôlivatơ, Xinvextơranh, cuối cùng là Xitô, bởi vì chính cả Xitô, thân
cây trổ ra nhiều nhánh, cũng chỉ là một nhánh đối với thánh Bơnoa. Xitô được
sáng lập từ thánh Rôbe, giáo sĩ ở Môlexmơ, trong khu Lăngrơ, năm 1098. Chính là
từ năm 529 con quỷ ác, về ẩn ở xa mạc Xuybiacô (quỷ già, hắn muốn làm nhà ẩn
dật chăng?) đã bị đuổi khỏi đền thờ cũ của Apôlông bởi thánh Bơnoa, lúc bấy giờ
mới mười bảy tuổi.
Sau luật khổ hạnh của nữ tu sĩ dòng
Cácmêlít, đi chân đất, đeo một tấm giáp mây trước ngực và không bao giờ ngồi,
luật khổ hạnh nghiêm khắc nhất là luật của dòng nữ tu sĩ Bécnađin-bênêđichtin
của Máctanh Vécga. Họ mặc áo đen với một cái yếm cứng lên đến tận cằm, theo
đúng quyết nghị của thánh Bơnoa. Một cái áo dài xecgiơ, ống tay rộng, một vuông
len che mặt lớn, cái yếm cứng lên đến tận cằm và xén thẳng ngang ngực, cái băng
trán che đến sát mắt, đó là y phục của họ. Tất cả đều đen, trừ chiếc băng trán
là trắng. Nữ tu sĩ tập sự cũng mặc như thế, nhưng màu trắng. Những nữ tu sĩ đã
tuyên thệ đeo thêm một chuỗi tràng hạt bên hông.
Nữ tu sĩ Bécnađin-bênêđichtin của
Máctanh Vécga thực hành “Chầu mình Thánh hàng ngày”, cũng như những nữ tu sĩ
Bécnađin mang tên là nữ tu sĩ “Thánh thể”; đầu thế kỷ này ở Pari có hai tu
viện, một ở khu Tăngpơlơ, một ở phố Nơvơ Xanhtơ Giơnơvievơ. Vả lại những nữ tu
sĩ Bécnađin-bênêđichtin của tu viện Pơti Pichpuýt thuộc một dòng khác hẳn các
nữ tu sĩ “Thánh thể” trong những nhà tu kín ở phố Nơvơ Xanhtơ Giơnơvievơ và ở
khu Tăngpơlơ. Có nhiều chỗ khác nhau trong kỷ luật, khổ hạnh. Trong y phục các
nữ tu sĩ Bécnađin-bênêđichtin ở Pơti Pichpuýt mặc yếm đen, các nữ tu sĩ theo
“Thánh thể” ở phố Nơvơ Xanhtơ Giơnơvievơ mặc yếm trắng và ở trên ngực còn đeo
một cái mình thánh, cao tám phân, bằng bạc mạ vàng hay bằng đồng mạ vàng. Nữ tu
sĩ ở Pơti Pichpuýt không đeo mình thánh. Việc Chầu mình thánh hàng ngày là một
kỷ luật chung của tu viện Pơti Pichpuýt và tu viện Tăngpơlơ, còn ngoài ra hai
dòng hoàn toàn khác nhau. Chỉ có sự giống nhau ấy trong kỷ luật hành lễ giữa
các nữ tu sĩ Thánh thể và các nữ tu sĩ Bécnađin của Máctanh Vécga, cũng như có
sự giống nhau trong học tập và ngợi ca những điều thuộc thuở thơ ấu, đời sống
và cái chết của Giêsu Cơrít và thuộc về Đức mẹ đồng trinh giữa hai dòng rất xa
nhau và có khi thù địch nhau: phái Nhà nguyện Itali do Philip đơ Nêri lập ở
Phơlorăngxơ và Nhà nguyện Pháp do Pie đơ Bêruyn lập ở Pari. Dòng Nhà nguyện
Pari tự cho là đứng trên và Philip đơ Nêri chỉ là Thánh, còn Bêruyn là giáo
chủ.
Ta hãy quay về cái kỷ luật khổ hạnh Tây
Ban Nha của Máctanh Vécga.
Các bà Bécnađin-bênêđichtin của dòng này
cả năm đều kiêng ăn thịt, nhịn ăn những ngày tuần chay và nhiều ngày khác do họ
định riêng; đêm đêm sau giấc ngủ đầu tiên, họ thức dậy từ một giờ cho đến ba
giờ để đọc kinh và tụng bài kinh sớm. Bốn mùa họ nằm trên ổ rơm, đắp chăn len
thô, không tắm, không đốt lò sưởi, mỗi thứ sáu tự lấy roi vọt đánh mình, giữ kỷ
luật im lặng, chỉ nói với nhau trong những giờ giải lao ngắn ngủi, mặc áo lót
thô, suốt sáu tháng, từ ngày 14 tháng 9 là ngày suy tôn Thánh giá, cho đến ngày
lễ Phục sinh. Sáu tháng thế là đã giảm nhẹ rồi, kỷ luật bắt cả năm, nhưng cái
áo lót mình thô ấy, trong những ngày hè nóng bức, không sao chịu nổi, nó gây
sốt và động kinh, nên phải hạn chế việc mặc. Tuy có sự châm chước, ngày 14
tháng 9, khi các nữ tu sĩ bắt đầu mặc cái áo ấy, họ cũng lên cơn sốt ba bốn
ngày. Phục tùng, nghèo khó, trinh bạch, suốt đời sống giữa bốn bức tường, đó là
những lời nguyện của họ mà kỷ luật còn làm nặng nề thêm nhiều.
Mẹ nhất ba năm một lần được bầu lên bởi
các mẹ gọi là “mẹ tư vấn” bởi vì các mẹ ấy được có ý kiến, có thẩm quyền. Mẹ
nhất chỉ được bầu lại hai lần, như thế nghĩa là quyền hành của mẹ chỉ lâu nhất
là chín năm.
Họ không bao giờ được nhìn linh mục chủ
lễ, có một tấm màn xecgiơ cao hơn hai mét rưỡi che khuất. Khi giảng đạo, linh
mục giảng đạo ở trong nhà nguyện, các mẹ phải buông tấm khăn che mặt. Lúc nào
cũng phải nói khẽ, đi thì mắt luôn nhìn xuống và đầu cúi. Chỉ có một người đàn
ông được vào trong tu viện, đó là vị tổng giám mục địa phận.
Cũng có một người đàn ông nữa, đó là
người làm vườn. Những người ấy bao giờ cũng là một ông già và để lúc nào ông
già ấy cũng trơ trọi một mình trong vườn và để các nữ tu sĩ biết trước mà tránh
lão, người ta buộc vào đầu gối lão một chiếc nhạc con.
Các bà phải phục tùng mẹ nhất một cách
tuyệt đối và thụ động. Đó là sự phục tùng theo phép đạo với tất cả tinh thần
nhẫn nhục của nó. Như phục tùng lệnh của Chúa Cơrít,[105]tuân theo cử chỉ, theo dấu hiệu, phục
tùng tức khắc, một cách hân hoan, một cách kiên nhẫn, hầu như một cách nhắm
mắt, như cái đũa trong tay người thợ, không được đọc, không được viết một tí gì
nếu không được phép rõ rệt.
[105] Từ đây đến hết đoạn tác giả có
chua thành ngữ Latinh bên cạnh tiếng Pháp.
Lần lượt mỗi bà phải làm cái họ gọi là
đền tội. Đền tội tức là cầu nguyện để chuộc tất cả các tội, tất cả các lỗi, tất
cả các sự rối trật tự, tất cả các sự vi phạm, tất cả các sự bất công, mà loài
người đã phạm phải trên trái đất này. Suốt 12 giờ liền, từ 4 giờ chiều đến 4
giờ sáng, hay từ 4 sáng đến 4 giờ chiều, bà phước đền tội quỳ trên phiến đá,
trước Thánh thể, chắp hai tay và cổ buộc chiếc dây thừng; khi mệt mỏi không
chịu được nữa thì họ nằm rạp xuống, mặt áp đất, hai cánh tay dang chữ thập, chỉ
làm thế thôi để đỡ mệt mỏi. Trong cái tư thế như vậy họ cầu nguyện cho tất cả
những người phạm tội trong vũ trụ. Thật là cao cả đến tuyệt vời.
Vì lễ cầu nguyện ấy tiến hành trước một
cái cột, trên có thắp một cây nến, nên người ta gọi là lễ đền tội cũng được,
hay đứng cột cũng được. Các bà vì tinh thần tự hạ, lại thích cách gọi sau này
đơn vị nó có hàm ý chịu tội, ý xả thân.
Đền tội là một hành vi thu hút tất cả
tâm hồn. Dù sấm nổ sau lưng, bà phước đứng cột cũng không quay đầu lại.
Ngoài ra lúc nào cũng có một nữ tu sĩ
quỳ trước Thánh thể. Mỗi người quỳ như thế một tiếng đồng hồ và thay phiên nhau
như lính thay phiên gác. Đó là lễ Chầu mình thánh hàng ngày.
Các mẹ nhất và các mẹ hầu hết đều mang
những cái tên có một ý nghĩa nghiêm trang đặc biệt, gợi lại không phải những vị
thánh hay các vị tử vì đạo, mà nhắc lại những giai đoạn trong cuộc đời của
Giêsu Cơrít, như mẹ Giáng sinh, mẹ Đồng Trinh, mẹ Tiến dâng, mẹ Thương khó. Tuy
vậy cũng không cấm mang tên các vị nữ thánh.
Khi ta nhìn họ thì bao giờ cũng chỉ nhìn
thấy cái mồm. Răng ai cũng vàng cả. Không bao giờ có một cái bàn chải răng được
vào trong tu viện. Đánh răng là bậc thang trên cùng của một cái thang mà bậc
cuối cùng là: mất linh hồn.
Họ không bao giờ bảo của tôi. Họ không
có cái gì riêng và cũng không được gắn bó với cái gì cả. Cái gì họ cũng bảo là
của chúng tôi, thí dụ như cái màn che mặt của chúng tôi, cái chuỗi hạt của
chúng tôi; giá nói đến cái áo lót mình họ cũng sẽ bảo: cái áo lót mình của
chúng tôi. Đôi khi họ cũng quyến luyến một cái gì nho nhỏ. Quyển Kinh nhật
khóa, một thánh tích, một cái ảnh thánh. Nhưng khi họ bắt đầu thấy họ quyến
luyến vật ấy thì họ đem cho đi ngay. Họ vẫn nhớ câu nói của thánh Têredo trả
lời một bà mệnh phụ, bà này khi sắp đi theo dòng tu của thánh Têredo, đã thưa:
“Cho phép con sai người đi mang đến cho con quyển thánh kinh mà con thích lắm”.
“Thế à! Thế ra bà còn thích một cái gì à. Thế thì bà đừng vào đây với chúng
tôi”.
Cấm không ai được ở riêng ra một mình,
có một chỗ ở riêng, một phòng riêng. Tuy phòng họ lúc nào cũng mở cửa. Khi họ
gặp nhau, một người nói: Ngợi khen thờ kính Thánh thể rất thiêng liêng, người
kia trả lời: Đời đời. Khi họ gõ cửa buồng nhau cũng vậy. Vừa thấy tiếng gõ nhẹ,
phía trong đã nghe một giọng êm dịu, vội vàng nói: Đời đời. Với thói quen, điều
này trở thành một việc làm như máy. Đôi khi người này chưa kịp nói cái câu khá
dài Ngợi khen và thờ kính Thánh thể rất thiêng liêng thì người kia đã vội đáp:
Đời đời.
Với dòng tu Viđităngdin, thì người gõ
cửa nói: Ave Maria, người trong buồng nói: Đầy duyên phúc. Đó là lời chào của
họ, cũng “đầy duyên” phúc thật.[106]
[106] Chữ grâce tiếng Pháp có hai
nghĩa: ơn phúc và xinh đẹp, duyên dáng. Tác giả dùng nghĩa thứ hai ở đây.
Mỗi giờ chuông tu viện, sau hồi chuông báo giờ, lại đánh thêm
ba tiếng. Nghe hiệu tiếng ấy, tất cả mọi người: mẹ nhất, các mẹ tư vấn, các bà
đã khấn nguyện, các bà phục vụ, các bà tập sự, các bà còn đợi vào dòng, tất cả
đang nói gì, đang làm gì đều ngừng cả lại và tất cả đồng thanh nói, thí dụ nếu
là năm giờ: Lúc năm giờ và tất cả mọi giờ, ngợi ca và thờ kinh Thánh thể rất
thiêng liêng. Nếu là tám giờ: Lúc tám giờ và tất cả mọi giờ… và cứ thế tùy theo
mỗi giờ.
Cái tập tục nhằm mục đích bất cứ lúc nào, cũng cắt đứt dòng
tư tưởng, để quy nó về với Chúa, trong nhiều dòng tu đều có, chỉ có lời tụng là
thay đổi, thí dụ như dòng tu Giêsu Hài đồng thì người ta nói: Ở giờ này và tất
cả mọi giờ lòng tôi luôn nghĩ đến Chúa Giêsu!
Những bà Bécnađin-bênêđichtin dòng Máctanh Vécga từ năm mươi
năm nay ở trong nhà tu kín Pơti Pichpuýt, đều hát theo một điệu nguyện kinh
trầm, điệu hát hành lễ cổ truyền, lúc nào cũng đều đều, suốt các buổi lễ. Mỗi
khi trong sách hát có một dấu sao, họ đều dừng lại một lát và nói sẽ: Giêsu,
Maria, Giôdép. Lễ cầu hồn người chết, họ hát giọng thấp đến mức ít có giọng nữ
nào thấp đến thế và tạo ra một cảm giác xúc động và thê thảm.
Các nữ tu sĩ Pơti Pichpuýt xây một cái hầm mộ ngay dưới nền
bàn thờ chính để chôn người chết của họ. Nhưng chính phủ, như họ nói, không cho
phép đặt quan tài dưới đó. Vì vậy khi họ chết cũng phải đưa xác ra ngoài tu
viện. Điều đó làm họ buồn và kinh sợ như phạm một tội nặng.
Họ xin được chôn vào một giờ riêng trong nghĩa địa cũ Vôgira,
ở một miếng đất xưa kia là của dòng họ. Tuy nhiên ân huệ đó cũng chẳng an ủi họ
được mấy.
Thứ năm họ nghe lễ lớn, kinh chiều và các lễ khác, cũng như
ngày chúa nhật. Họ còn làm đầy đủ tất cả mọi lễ khác mà người ngoài đời hầu như
hoàn toàn không biết, những lễ mà trước kia nhà thờ Pháp đặt ra rất nhiều, nay
ở Tây Ban Nha và Ý vẫn còn giữ. Thì giờ họ ở trong nhà nguyện thật là vô tận,
còn số kinh họ nguyện và thời gian mỗi lần họ nguyện kinh chúng tôi chẳng thể
nào nói đúng hơn là lời nói hồn nhiên của một người trong bọn họ: “Những bà tập
sự nguyện kinh thì thật là ghê sợ, những bà mới vào dòng càng ghê sợ hơn và
những bà đã khấn thì càng ghê sợ hơn nữa”. Mỗi tuần một lần, tập hợp tất cả tu
viện. Mẹ nhất chủ tọa, các “mẹ tư vấn” tham dự. Mỗi bà phước, lần lượt ra quỳ
trên phiến đá và trước mặt cả mọi người, cất tiếng to xưng thú tất cả các lầm
lỗi, các tội đã phạm trong tuần. Các “mẹ tư vấn” trao đối với nhau sau mỗi lời
thú tội và cất tiếng tuyên bố những hình phạt.
Ngoài việc thú tội công khai rộng rãi như vậy dành cho các
lỗi hơi nặng, còn những lỗi nhẹ thì có hình thức khác gọi là làmcunpơ.
Làm cunpơ là quỳ áp bụng xuống đất suốt buổi lễ, trước mặt mẹ nhất, cho đến khi
mẹ nhất - mà bao giờ cũng phải gọi là mẹ chúng tôi - gõ một tiếng nhỏ vào tay chiếc
ghế ngồi của mẹ, báo cho kẻ thú tội biết là được đứng dậy. Một tí gì cũng phải
làm cunpơ. Đánh vỡ một cái cốc, làm rách một khăn che mặt, vô tình đến dự lễ
chậm vài giây, hát sai một nốt ở nhà thờ… thế là đủ để làm cunpơ. Làm cunpơ là
việc tự nhiên tự phát, chính người phạm tội (dùng theo nghĩa từ nguyên của chữ
cunpơ) tự xét xử mình và tự trừng phạt mình. Những ngày lễ và ngày chủ nhật, có
bốn mẹ hát nguyện trước một cái giá sách bốn ngăn. Một hôm một mẹ xướng một bài
tụng bắt đầu bằng chữ Exê, nhưng mẹ lại không nguyện Exê mà lại hát to ba nốt
nhạc ut, si, sol. Vì sự lơ đãng ấy, mẹ phải làm cunpơ suốt buổi lễ. Lỗi càng
thêm nặng vì cả tu viện đã cười ồ.
Khi một nữ tu sĩ được gọi lên phòng khách, dù là mẹ nhất,
cũng phải buông khăn che mặt để người ta chỉ trông thấy cái miệng thôi, như ta
đã biết.
Chỉ có mẹ nhất được tiếp xúc, nói chuyện với người ngoài.
Những bà khác chỉ được gặp người thật thân cận trong gia đình mình và cũng rất
ít khi thôi. Nếu ngẫu nhiên một người ngoài đến xin gặp một nữ tu sĩ mà họ đã
biết hay yêu ngoài đời, thì phải qua cả một cuộc thương thuyết. Nếu là một phụ
nữ thì đôi khi còn được phép. Nữ tu sĩ ấy đi ra và người đến thăm chỉ được nói
chuyện qua khung cửa, cánh cửa chỉ mở cho mẹ hay chị thôi. Tất nhiên không bao
giờ người ta cho phép một người đàn ông vào.
Đó là kỷ luật của thánh Bơnca và thánh Vécga đã làm cho thêm
nghiêm ngặt.
Những nữ tu sĩ này không vui tươi, hồng hào như ở các dòng tu
khác. Họ xanh xao và nghiêm nghị. Từ 1825 đến 1830 có ba người đã hóa điên.