Lá cờ ma - Chương 09 - Phần 2
Ông lão Vệ Bất Hồi lấy từ trong ba lô ra một lọ chất lỏng, đổ
ra một ít xoa lên đế giày và bảo: “Ta đi trước, hai người đi sau, giẫm lên dấu chân
của ta nhé. Phải nhìn cho rõ, đừng giẫm chệch, nếu chệch nhiều quá chúng ta sẽ thành
nhím xù cả đấy.”
Ông lão Vệ Bất Hồi từ từ tiến lên phía trước. Mỗi bước đi là một
lần để lại dấu chân màu đỏ. Đi được ba bước, ông lão đột nhiên dừng lại, hai tay
nắm chặt, làm tôi rụng rời tim gan. May thay, vài giây sau, ông lão tiếp tục cất
bước.
Chúng tôi đi vòng vèo trong gian mộ thất, vòng qua ba cái xác,
bình an vô sự tới bên dưới chiếc cổng vòm. Ông lão Vệ Bất Hồi làm dấu tay ra hiệu
rồi lại bắt đầu xoa một ít chất lỏng màu đỏ lên đế giày, để bước tiếp.
Hạ Hầu Anh đi trước, tôi đi sau, lần theo dấn chân màu đỏ, cẩn
thận tiến lên phía trước, từng chút, từng chút một. Cách bước đi kiểu này rất khó
giữ thăng bằng, khoảng cách giữa các bước chân lúc lớn lúc nhỏ. Vừa đi được chừng
hai, ba bước, tới bước thứ tư người tôi hơi lảo đảo, tôi không giữ nổi thăng bằng
khiến người nghiêng về một bên suýt ngã. Lúc này, tôi mới sực hiểu, vì sao khi nãy
ông lão Vệ Bất Hồi đột nhiên đứng lại. Theo cách giải thích của Hạ Hầu Anh, bây
giờ tôi đã hoàn toàn ở trong lực trường tâm lí do những kí hiệu ám thị dày đặc xung
quanh tạo thành, cảm giác nặng nề hơn gấp bội so với lúc đứng ở cổng vòm và quan
sát từ xa. Nỗi u uất và muộn phiền trĩu trong lồng ngực, ngọn lửa không tên ấy chỉ
dịu đi khi tôi nhìn vào “kí hiệu sống” đang di chuyển trước mặt.
Giẫm lên dấu chân của ông lão Vệ Bất Hồi để tiến lên phía trước,
việc đó chỉ suôn sẻ với Hạ Hầu Anh. Còn tôi, do bàn chân to hơn bàn chân ông lão
Vệ Bất hồi hai cỡ, nên nó luôn thò ra ngoài dù tôi định vị cực kì chính xác. Tuy
thế, tôi vẫn yên lòng vị sự sai lệch chút xíu ấy không đủ để khởi động các bẫy ngầm.
Lúc bước vòng qua ba cái xác, tôi thấy tim mình nức nở. Cũng bởi
thế, hơn một nửa bàn chân tôi thò ra ngoài dấu chân ông lão Vệ Bất Hồi. Mồ hôi lạnh
chảy tràn trên người. Toát mồ hôi có nghĩa tôi vẫn ổn.
Hạ Hầu Anh đi phía trước đã sắp bước tới cổng vòm. Ông lão Vệ
Bất Hồi chuẩn bị xong xuôi, vừa tiếp tục cuộc hành trình thì chỉ trong nháy mắt,
ông lão kêu ré lên, tay bịt vai trái, nhảy lùi lại về phía lối vào bên dưới chiếc
cổng vòm.
“Ting ting’, một chuỗi âm thanh vang lên liên tiếp mấy giây trước
khi ngừng.
Lẽ nào “Vua trộm mộ” lại làm khởi động các cơ quan ngầm?
Ông lão Vệ Bất Hồi quay người lại nói, giọng khàn đặc: “Các cháu
dừng lại đã.”
Dù “Vua trộm mộ” không nói thế, tôi và Hạ Hầu Anh vẫn phải ngừng
bước, vì lối đi phía dưới cổng vòm chỉ đủ chỗ cho một mình ông lão. Hạ Hầu Anh cách
ông chỉ một bước chân và tôi cũng đứng ở vị trí không xa. Trong hoàn cảnh này, bước
chân của chúng tôi không thể ngừng lại ngay khi chúng tôi muốn, chúng tôi buộc phải
giữ nguyên tư thế của sải bước chân ban đầu. Tôi và Hạ Hầu Anh đứng trơ trơ như
một bức tượng, bước xong không dám nhúc nhích, dáng vẻ thật vô cùng hài hước, nhưng
giây phút này, làm sao cười nổi cơ chứ.
“Có chuyện gì thế bác? Không vượt qua cơ quan phía trước được
ạ?”, Hạ Hầu Anh hỏi.
“Ta vừa giẫm chệch”, ông lão Vệ Bất Hồi lấy trong ba lô ra một
mảnh vải bịt lên vết thương, sau đó lại tiếp tục xoa xoa chất lỏng màu đỏ xuống
đế giày.
“Quả là nguy hiểm!”, tôi thở dài ớn lạnh. Lẽ nào tới tận đây rồi
mà đành ngậm ngùi chịu cảnh chỉ thiếu một bước, việc lớn không thành.
Ông lão Vệ Bất Hồi lắc đầu: “Không phải do các cơ quan, mà là
do tác động quỷ quái của những kí hiệu. Ta không biết cảm giác của hai người thế
nào, nhưng với ta, cứ qua mỗi một đoạn đường, nhất là mỗi chiếc cổng vòm thì tác
động của những kí hiệu đó lên tâm lí của ta mỗi lúc một ghê gớm. Ban nãy, ta vừa
đi được hai bước, đã không chống trụ nổi, giẫm chệch một bước, cũng may ta tức thì
cảm nhận được ngay khi bàn chân vừa chạm xuống, lùi lại thật mau, nếu không cái
mạng già này đã chấm dứt rồi. Tên không có độc, xem như ta gặp vận son.”
“Cháu cũng có cảm giác giống như bác, không biết những kí hiệu
trong mộ thất phía trước mặt chúng ta sẽ gây ra tác động gì?”
“Là một thứ tâm trạng gần giống với tức giận, nhưng nặng nề hơn,
làm ta bỗng chốc như người bị mắc bệnh hoang tưởng, kích động tới nỗi muốn gầm thét
cho thỏa sức.”
“Tâm trạng ấy có lẽ là điên cuồng đấy bác ạ, vì có một loại ám
hiệu có thể khiến người ta phát điên”, Hạ Hầu Anh tiếp lời.
“Hầu Anh, bây giờ chúng ta phải làm thế nào?”, tôi hỏi Hạ Hầu
Anh.
“Em hơi sơ ý, tác động những kí hiệu trong mấy gian mộ thất này
mỗi lác một tăng dần và tích tụ lại trong tâm lí của con người tạo ra sức công phá
mạnh có thể kích động mọi trạng thái tâm lí tiêu cực của con người. Vệ lão tiên
sinh, bác cho cháu mượn lọ chất lỏng ban nãy bác dùng để xoa đế giày được không
ạ?”
“Cầm lấy này!”, vừa nói ông lão Vệ Bất Hồi vừa ném chiếc lọ nhỏ
bằng nhựa về phía Hạ Hầu Anh.
Hạ Hầu Anh vặn nắp lọ, ngón trỏ chấm vào một ít rồi bảo ông lão
Vệ Bất Hồi: “Bác chìa tay phải của bác ra, tay trái của bác bị thương rồi. Cháu
vẽ kí hiệu ám thị lên tay bác, bác vừa đi vừa nhìn, nó sẽ làm giảm tác động của
những kí hiệu trong mộ thất với bác. Cháu mong nó sẽ không làm bác phân tâm.”
“Phân tâm một chút vẫn tốt hơn bị hoang tưởng nhiều”, ông lão
Vệ Bất Hồi hơi nghiêng người về phía trước, chìa bàn tay phải ra cho Hạ Hầu Anh
vẽ.
Hạ Hầu Anh vẽ xong, ông lão Vệ Bất Hồi xoay người, tiếp tục tiến
lên phía trước.
“Lần này thì ổn rồi”, nghe ông lão Vệ Bất Hồi báo bình an, tấm
lòng thấp thỏm của tôi mới bình yên trở lại.
Chẳng mấy chốc, tôi đã bước tới vị trí của Hạ Hầu Anh ban nãy
và cũng chìa bàn tay ra để cô ấy vẽ kí hiệu. Tôi có cảm giác rất kì lạ khi ngón
tay búp măng của Hạ Hầu Anh lượn vòng trong lòng bàn tay tôi. Nó hơi ngứa ngứa khiến
tôi muốn rụt tay về.
“Có lẽ anh đã biết tại sao Tôn Huy Tổ lại vặt đầu người chết chạy
ra ngoài rồi”, tôi tìm một chủ đề khác để chuyển hướng sự chú ý của bản thân, “gian
mộ thất này tạo ra ám thị tức giận và nó lập tức tác động lên tâm trí tức giận và
nó lập tức tác động lên tâm trí của Tôn Huy Tổ khi lá cờ vừa bị xé rách. Nhưng nhờ
sức vóc phi thường nên hằng hà sa số những mũi tên găm trên cơ thể không thể đánh
gục ông ta trong chốc lát. Cũng bởi thế, ông ta tận mắt trông thấy anh em ruột tử
nạn, lửa giận ngút trời, một lòng muốn báo thù rửa hận cho huynh đệ, bèn xông thẳng
vào bên trong. Ma lực của gian mộ thất tiếp theo khiến người ta phát điên, chẳng
khác nào thêm dầu vào lửa. Tôn Huy Tổ trong cơn cuồng loạn đã vặt đầu người chết,
dù ông ta dũng mãnh đảm lược hơn người cũng không thể chạy ra xa hơn được.”
Hạ Hầu Anh rụt tay lại, khẽ thở dài, quay người tiếp tục bước
về phía trước theo dấu chân của ông lão Vệ Bất Hồi.
Gian mộ thất tiếp theo quả nhiên là một nét chấm. Nền nhà la liệt
những mũi tên sắt ngắn ngủn, không phân biệt rõ đâu là những mũi tên của năm xưa,
đâu là những mũi tên vừa bắn ra ban nãy do ông lão Vệ Bất Hồi sơ ý khởi động bẫy
ngầm. Tôi sợ những bẫy ngầm trong ngôi mộ này hoạt động theo cơ chế tự động, có
thể tự động nhiều lần. Tôn Huy Tổ năm đó chạm đến chúng, cả người bị tên găm chi
chít, thế mà bây giờ những mũi tên sắt ấy vẫn còn và lại tiếp tục bắn ra ngoài.
Tôi vừa giẫm lên dấu chân trên nền nhà vừa nhìn vào kí hiệu quái
dị trong lòng bàn tay, cuối cùng chúng tôi cũng vào tới gian mộ thất cuối cùng,
không kinh sợ, không hoảng loạn và không gặp nguy hiểm.
Gian mộ thất cuối cùng này được tạo nên bởi nhiều mảnh của một
phiến đá đen khổng lồ được cắt ra và ghép lại với nhau, bề mặt của nó nhẵn nhụi,
không có kí hiệu hay bất cứ cơ quan ngầm nào. Chính giữa đặt một chiếc quan tài
ngọc cực lớn. Nắp quan tài bị đập vỡ, những mảnh vụn bắn tung tóe ra ngoài.
Cảnh tượng bày ra trước mắt làm tôi hơi bất ngờ. Chủ nhân ngôi
mộ cổ này là người có thân phận tôn quý, chiếc quan tài ngọc bệ vệ có thể chứa nhiều
đồ tùy táng, nhưng so với những chiếc quan tài thiết kế nhiều ngăn thạch thất đựng
vô số đồ tùy táng của các bậc vương hầu thì nó lại quá đỗi đơn giản.
Tôi bước lại gần chiếc quan tài ngọc. Thi thể bên trong đã vụn
mủn. Năm xưa Tôn Huy Tổ trong cơn điên loạn đã muốn hủy hoại nó.
Đồ tùy táng vẫn nguyên vẹn. Bộ xương bị dập nát, cột sống gãy thành mấy khúc, xương
cánh tay phải bị bẻ gãy, cái xác không đầu nằm ngoẹo về một bên.
Tôi có thể nhận ra cách xếp đặt ban đầu bên trong chiếc quan tài
ngọc, chính giữa là di thể của chủ nhân ngôi mộ cổ, phía bên tay trái đặt một ít
binh khí, bên tay phải đặt rất nhiều thẻ tre, phía dưới chân là tửu khí[1].
Nhưng bây giờ, bố cục ấy đã trở nên lộn xộn.
[1] Tửu khí: dụng cụ để uống rượu.
Hạ Hầu Anh lần tay dọc theo quan tài, nhìn trân trối vào bộ xương
mất đầu, trầm ngâm không nói.
Ông lão Vệ Bất Hồi thở một hơi rất dài: “Sinh thời kiêu hùng biết
bao nhiêu - Ngoảnh đầu về nghiệp bá là không – Xương kia rồi cũng tro tàn nát tan.”
Có lẽ Hạ Hầu Anh cũng biết thân phận của chủ nhân ngôi mộ này,
nhưng tôi biết cô ấy đang giữ bí mật. Tôi chịu ơn cứu mạng của người ta, không tiện
hỏi đến cùng, nghe khẩu khí của Vệ Bất Hồi thì hình như ông lão cũng biết điều còn
ẩn giấu ấy?
“Bác biết người nằm trong quan tài ngọc này là ai ạ?” Tôi không
thể kìm nén nổi thắc mắc lớn nhất trong lòng lâu hơn được nữa.
“Nực cười, nếu ta không biết chủ nhân ngôi mộ cổ này là ai thì
năm xưa đâu cần mất nhiều tâm sức để nghiên cứu nó đến thế? Còn anh, cho đến tận
bây giờ vẫn không biết đây là mộ của Tào Tháo Tào Mạnh Đức sao?”
Trong phút chốc, tôi như bị sét đánh, kinh ngạc tới nỗi không
thể nói thành câu hoàn chỉnh: “Tào… Tào Tháo ư?”
Đây chính là Tào Tháo, gian hùng nổi tiếng nhất trong lịch sử
Trung Quốc, chủ nhân nước Ngụy thời Tam Quốc, thần từ ép thiên tử lệnh cho chư hầu,
thác xuống suối vàng còn bố trí 72 ngôi mộ giả ư?!
Ông lão Vệ Bất Hồi quay đầu liếc sang phía Hạ Hầu Anh, hỏi: “Cô
mang họ Hạ Hầu, ta nghĩ chắc cô có liên quan nào đó với Tào Tháo?”
Tào? Hạ Hầu? Những điều ghi chép có liên quan đến hai dòng họ
này trong bộ “Tam Quốc Chí” viết rằng, phụ thân của Tào Tháo – Tào Tùng vốn họ Hạ
Hầu, do nhận hoạn quan Tào Đằng làm nghĩa phụ nên đổi họ thành Tào. Hạ Hầu là một
gia tộc lớn, sau khi Tào Tùng tự tách thành một chi và đổi họ, những người khác
vẫn giữ họ Hạ Hầu. Hai vị mãnh tướng dưới trướng của Tào Tháo là Hạ Hầu Uyên và
Hạ Hầu Đôn trên thực tế là họ hàng thân thích của Tào Tháo.
Hạ Hầu Anh lúc này mới lấy lại tâm trạng gật đầu đáp lời: “Tào
Tháo là tổ tiên của cháu, tính ra, cháu là hậu duệ đời thứ 47 của ngài.”
“Thì ra Tào Tháo có con mắt thứ ba!”, tôi buột miệng.
“Con mắt thứ ba nào cơ?”, Hạ Hầu Anh cau mày, hoàn toàn không
hiểu ý của tôi.
“Chính là con mắt thứ ba ở phía trên chính giữa cung lông mày
ấy.”
“Đó không phải là con mắt thứ ba đâu anh ạ”, Hạ Hầu Anh lắc đầu
phủ nhận sau khi hiểu rõ ý tôi.
Lần này, cả ông lão Vệ Bất Hồi cũng bàng hoàng nhìn Hạ Hầu Anh.
Rõ ràng ông cũng muốn tỏ tường lời giải.
Hạ Hầu Anh lại thở dài, nói: “Điều này chỉ người trong gia tộc
em biết, nhưng đó không phải là một bí mật quá lớn lao, kể cho anh và bác nghe cũng
không sao. Những kí hiệu ám thị được viết trên bốn bức tường trong các gian mộ thất
tạo thành chữ “Tâm”, ban nãy chúng ta vừa đi qua và những kí hiệu vẽ trên quần áo
em thực chất là một môn học gia truyền từ hàng ngàn năm nay của gia tộc Hạ Hầu chúng
em. Môn học này cao sâu vô cùng vô tận, uy lực khủng khiếp, nhưng nó cũng có một
nhược điểm rất lớn, ấy là khiến người theo học nó mắc một bệnh đau đầu tai quái,
nghiêm trọng. Hoặc cũng có thể não bộ của bản thân người tạo ra ám thị cũng bị tổn
thương cùng lúc với việc tác động ám thị lên người khác.”
Trong giây phút. Tôi sực nhớ tới cơn đau đầu bột phát của Hạ Hầu
Anh lúc trên máy bay, hóa ra nó là hậu quả của việc nghiên cứu tuyệt kĩ mật truyền
này. Chẳng phải lịch sử đã ghi lại. Tào Tháo chết do bệnh đau đầu ư?
“Những người nghiên cứu môn học này qua các thế hệ trong gia tộc
em đạt đến mức độ cao minh phần lớn đều chết do bệnh đau đầu, những người phát điên
nhiều không kể xiết. Vì thế, từ gần một trăm năm nay, số người tiếp cận với những
kí hiệu này ngày càng thưa dần. Khi em còn nhỏ, ông nội em vì không muốn tuyệt kĩ
mật truyền qua hàng ngàn năm của gia tộc bị thất truyền nên dạy cho em một ít. Không
ngờ, em đam mê nó ngay và tiến bộ rất nhanh. Từ năm mười bốn tuổi trở đi, chứng
bệnh đau đầu của em bắt đầu trở nặng. Gia phả dòng tộc ghi lại, Tào Tháo là thiên
tài của gia tộc, tài trác tuyệt của ngài từ xưa tới nay chưa ai vượt qua được. Nếu
ngài không am hiểu các ám thị một cách tinh diệu như thế thì ngài không thể có được
Trung Nguyên, càng không thể ép thiên tử lệnh cho chư hầu.”
Tôi há hốc miệng lắng nghe. Thì ra, Tào Tháo có thể trội bật trong
thời buổi rối ren loạn lạc, có thể thu phục biết bao hiền thần mãnh tướng không
chỉ nhờ vào một sức hấp dẫn tử tài xuất chúng của bản thân mà còn nhờ một lực hút
sâu sa hơn thế - Những ám thị vô hình ảnh hưởng tới nhân tâm con người. Thậm chí
ngay cả trên chiến trường, những ám thị ấy cũng phát huy tác dụng to lớn. Lá quân
kì đó là một minh chứng hùng hồn.
“Trong gia phả dòng tộc cũng ghi, Tào Tháo sau khi qua đời đã
bố trí nhiều ngôi mộ giả ở Trung Nguyên. Người trong thiên hạ đều cho rằng, mộ Tào
Tháo chắc chắn nằm trong phạm vi thế lực của ngài, mà không biết rằng, ngài đã ngầm
ước định với Ngô chủ, sau khi băng hà, sẽ gửi mình trên đất Ngô, đại quân của Ngụy
sẽ không vượt sông Trường Giang. Về sau, nước Ngụy xuất binh đánh Thục nhưng chưa
bao giờ đem đại binh tấn công Ngô. Mật ước này được duy trì trong thời gian khá
dài, bởi thế, sau khi nhà Tấn thay nước Ngụy, thời gian tồn tại của Đông Ngô lâu
hơn Tây Thục nhiều. Có điều, năm xưa Tào Tháo chọn nơi xa xôi nhất trên đất Ngô
làm cát địa xây dựng lăng mộ cho mình, sắp đặt nghi binh ở nhiều nơi và dốc lòng
bố trí các ám thị nên cả Ngô chủ và mấy người chúng ta đều không biết rốt cuộc mộ
Tào Tháo chính xác nằm ở chốn nào.”
Nói tới đây, Hạ Hầu Anh ngước mắt lên nhìn tôi, mỉm cười chua
xót: “Lúc em tới gặp anh ở Nê-pan, nghe anh kể chuyện và nhìn nửa lá cờ, em đã biết
anh thâm nhập mộ Tào Tháo. Người ta vẫn nói, Tào Tháo chết do bệnh đau đầu. Bản
thân em phải chịu đựng sự dày vò của nó suốt bao nhiêu năm qua, nhưng trong lòng
vẫn thầm nuôi hi vọng, một nhân tài có tư chất kiệt xuất như Tào Tháo ắt hẳn đã
tìm được biện pháp chống lại căn bệnh quái ác. Nhưng ban nãy, khi em nhìn thấy chiếc
đầu lâu ở bên ngoài cửa mộ, em đã hiểu biện pháp của ngài lúc xưa là gì.”
Tôi đã thầm đoán ra điều ấy, nhưng câu trả lời của Hạ Hầu Anh
khiến người ta quá đỗi kinh ngạc, nên tôi vẫn không kìm nén được: “Biện pháp nào
hả em?”
“Hoa Đà bổ sọ!”, Hạ Hầu Anh chưa kịp đáp ứng, ông lão Vệ Bất Hối
đã phản ứng ngay.
Dã sử chép, Tào Tháo bị chứng đau đầu, phải mời thần y Hoa Đà
tới chẩn trị. Thần y Hoa Đà bảo phải bổ sọ. Tào Tháo không tin, ra lệnh tống giam
Hoa Đà. Kết quả Hoa Đà chết trong ngục. Tào Tháo chết do bệnh đau đầu.
Sự thật thì, cuối cùng Tào Tháo chấp thuận biện pháp bổ sọ trị
bệnh của thần y Hoa Đà. Nhưng ca phẫu thuật ngoại khoa vượt xa thời đại lúc bấy
giờ thất bại, Tào Tháo thiệt mạng, Hoa Đà bị xử tội chết.
Thảo nào mà Hạ Hầu Anh ủ rũ thất vọng khi trông thấy vết thương
trên trán của Tào Tháo.
Hạ Hầu Anh lục lọi đống thẻ tre, lấy ra từng cuộn một. Chất liệu
của thẻ tre không phải sợi tơ hay sợi bông, không sởn mòn qua biết bao nhiêu năm
tháng, có lẽ giống với chất liệu dệt lá quân kì.
Hạ Hầu Anh mở he hé thẻ tre, quan sát một lúc lâu rồi nói: “Quả
nhiên trong này chỉ ghi chép một số điều tâm đắc về ám thị và kĩ xảo vận dụng chúng.
Bốn anh em nhà họ Tôn muốn tìm thứ này, nhưng môn học cao siêu này đâu thể một sớm
một chiều học thành tài được?”
“Đây… đây là cuốn sách ghi gì thế?”
Hạ Hầu Anh giơ phần đầu thẻ tre ra trước mặt tôi. Đôi mắt tôi
bất giác trợn tròn.
“Mạnh Đức Tâm Thư”!
“Ồ, thì ra đây là chữ ‘tâm’, không phải là chữ ‘tân’ trong chữ
‘tân cựu’, tức ‘cũ’ và ‘mới’. Chẳng phải sử sách vẫn ghi, Tào Tháo viết một cuốn
‘Mạnh Đức Tân Thư’, về sau thấy không hài lòng nên đã đốt bỏ à?”
Ông lão Vệ Bất Hồi cười ha hả: “Những điều nhầm lẫn trong sử sách
nhiều không kể xiết, làm sao có thể tin hết được? Ta đã trộm vô số ngôi mộ cổ, chỉ
cần tiết lộ một trong hằng hà sa số sự thật ta biết, giới sử học Trung Quốc hẳn
sẽ bị chấn động như khi vừa trải qua một trận động đất mạnh bảy độ. Lần thám hiểm
này cũng khiến ta không khỏi ngỡ ngàng, nhưng nó cũng chỉ là một trong muôn vàn
trải nghiệm của ta mà thôi. Đó cũng là một thú vui trong nghề trộm của ta.”