Lá cờ ma - Chương 03 - Phần 2

Website nội bộ của Thư viện Thượng Hải là một dự án được bắt đầu thực hiện từ khá lâu, với mục đích đưa dữ liệu của hàng triệu cuốn sách mà thư viện lưu giữ vào trong máy tính và xây dựng một quy trình tìm kiếm để giúp người sử dụng dễ dàng tìm kiếm. Dự án này bao quát cả một khối công việc đồ sộ, nên tuy người sử dụng đã có thể tìm thấy danh mục điện tử của những cuốn tiểu thuyết hay các tác phẩm đương đại, nhưng nếu muốn tìm kiếm nhiều hơn thì phải rà lần lượt và đối chiếu từng tí một. Bởi vậy, qua mấy năm thực hiện, tới tận bây giờ, dự án này vẫn chưa hoàn thành được non nửa. Ngay cả khi hoàn thiện dự án, trang mạng nội bộ của thư viện cũng không để mở hoàn toàn cho người sử dụng tra tìm dữ liệu, nói chi đến khi dự án chưa hoàn thành như bây giờ.

“Thực ra thì chúng tôi đã hoàn thành xong phần hệ thống từ lâu rồi, công việc bây giờ chỉ là nhập dữ liệu chi tiết vào thôi. Sách lịch sử, sách khoa học, địa chí các địa phương… được nhập trước nên bây giờ có thể tra cứu rồi”, Triệu Duy mở giao diện, đứng dậy nói với tôi.

Tôi vào danh mục tìm kiếm, gõ chữ “khu ba tầng”, cách một khoảng cách trống rồi gõ tiếp “anh em nhà họ Tôn”, ngẫm nghĩ một lúc, tôi sửa cụm từ “anh em nhà họ Tôn” thành “Tôn Diệu Tổ.”

Rồi nhấp chuột vào nút tìm kiếm.

Có bốn dòng thông tin liên quan tới “khu ba tầng”, liệt kê những cuốn sách ghi chép các công trình kiến trúc cũ, trong đó có cuốn “Những công trình kiến trúc cũ của Thượng Hải” tôi đã xem lần trước. Tôi nghĩ, nội dung của những cuốn sách này đều từa tựa nhau.

Không có dòng thông tin nào viết đồng thời về “khu ba tầng” và Tôn Diệu Tổ, nhưng có một dòng thông tin liên quan tới Tôn Diệu Tổ

Đó là cuốn “Sạp Bắc năm 1937.”

Trong sách ghi chỉ đúng nội dung: “Một người tên là Tôn Diệu Tổ đã thực hiện dự án lấp ao Khâu Gia để xây vườn hoa Sạp Bắc với danh nghĩa hỗ trợ chính quyền. Công trình này được khởi công vào tháng 2, tới tháng 9 thì hoàn thành.”

Sạp Bắc, năm 1937, tháng 2 khởi hành, tháng 9 hoàn thành, Tôn Diệu Tổ, từ thời gian và địa điểm ghi trong sách có thể xác định người này chính là người anh cả Tôn Diệu Tổ trong bốn anh em nhà họ Tôn.

Ngón tay của tôi lẹ làng lướt trên màn hình máy tính, nếu tôi đoán không nhầm thì cái ao Khâu Gia này cũng giống như bãi Triệu Gia, là một cái ao tù nên việc lấp ao xây vườn hoa quả là một nghĩa cử cao đẹp, tạo phúc cho những người dân xung quanh.

Nhưng vì bốn anh em nhà họ Tôn hành động kì quặc và bí ẩn nên tôi không thể nào tin rằng họ lại vô duyên cớ làm một việc công ích cho xã hội như thế.

Cái ao Khâu Gia này có mối quan hệ như thế nào với “khu ba tầng”?

Tôi gọi Triệu Duy, chỉ cho anh ta xem mẩu thông tin vừa rồi.

“Chính phủ Quốc dân thời đó liệu có văn bản ghi chép về những sự việc như thế này không nhỉ?”

Triệu Duy gật đầu: “Có lẽ sẽ có những văn bản như Biên bản ghi nhớ chẳng hạn.”

“Có cách nào tìm được văn bản ấy không?”

“Những văn bản như thế này hiện vẫn lưu trữ trong thư viện, có điều, thứ nhất là lượng tài liệu nhiều quá, tìm rất mất thời gian; thứ hai là…”, vẻ mặt Triệu Duy hơi khó coi một chút.

“Không sao đâu, cứ có văn bản để tra tìm là tốt rồi, để tôi đi tìm Âu Dương Hưng và nói với anh ấy một tiếng.”

Nếu mấy vị lãnh đạo biết được Triệu Duy trực tiếp đưa tôi đi tìm đọc những tài liệu đã được lập hồ sơ và niêm phong lưu trữ thì anh ta thật khó ăn khó nói. Tôi bèn gọi điện cho Âu Dương Hưng, phó giám đốc thư viện. Âu Dương Hưng là người thích xuất đầu lộ diện, anh ta thường tham gia những cuộc họp báo về việc đăng tải tin quan trọng, tôi đã chụp ảnh cùng anh ta mấy lần, cũng có thể coi là quen biết.

Việc tôi nhờ cũng không lớn lắm, Âu Dương Hưng vui vẻ gật đầu, bảo để Triệu Duy trực tiếp đưa tôi đi, nhưng dặn lại tôi chỉ được tra cứu, không được mượn về.

Chúng tôi mở cánh cửa lớn của khu nhà B là nơi lưu trữ các hồ sơ văn bản, một thứ mùi riêng có của đống giấy chất lâu ngày xộc thẳng vào mũi, khiến mũi tôi hơi ngưa ngứa.

Triệu Duy dẫn tôi đến tủ sách ở hàng số năm, chỉ vào một tủ sách sắt phía trước mặt tôi nói: “Ở trong này đấy. Nhưng anh phải tự tìm nhé, tôi còn cả núi việc phải giải quyết, mà anh nhớ đừng làm lộn xộn nhé, lấy ở đâu thì cất lại vào chỗ đó hộ tôi.”

“Tất nhiên rồi”, ngoài miệng tôi tới tấp đồng ý mà trong lòng thì âm thầm kêu khổ, một đống sách lớn như vậy, biết tìm đến bao giờ!

Hai tiếng sau, tôi bước chân ra khỏi Thư viện Thượng Hải, tới siêu thị Lawson ngay bên cạnh mua hai hộp cơm ăn cho qua bữa. Sau đó, tôi tìm một salon tóc để vào gội đầu, mấy ngày chưa gội, lại hì hụi lật giở đống tài liệu của thế kỉ 20 lúc ban sáng, khiến người tôi dính đầy bụi bặm, đầu tóc ngứa ngáy khó chịu.

Bàn tay của anh thợ gội đầu tác động một lực rất vừa phải lên da đầu làm tôi cảm thấy vô cùng dễ chịu, những việc nhỏ nhặt như thế này lại khiến người ta thấy sảng khoái, thật tuyệt vời biết bao!

Sau khi xả nước và lau khô tóc, anh thợ gội đầu bắt đầu mát xa. Tôi bảo anh nên chú ý mát xa phần vai và cổ, dùng lực thật mạnh vì những người phải làm việc lâu với máy tính như tôi, tuy còn trẻ nhưng đốt sống cổ đã bắt đầu trục trặc rồi.

Anh thợ gội ấn mạnh đến mức tôi phải nghiến răng nghiến lợi, nhưng lại cảm thấy rất đã. Phần vai được thư giãn nhiều, đầu óc lại bắt đầu vận động, những thông tin có được lúc ban sáng giúp tôi quay ngược thời gian, mơ hồ cảm nhận được kế hoạch của bốn anh em nhà họ Tôn năm xưa.

Buổi chiều tôi nhận được nhiệm vụ của tòa soạn. Độc giả gọi điện tới đường dây nóng phản ánh bà lão nhà bên suốt ngày nhặt đồ thiu thối mang về nhà khiến cả một tầng lầu bốc mùi nồng nặc. Phần lớn thời gian của những phóng viên cơ động là dành để tìm hiểu và đưa tin về những vấn đề mà độc giả phản ánh tới đường dây nóng. Những lúc không có nhiệm vụ quan trọng, ngay cả một phóng viên gạo cội như tôi cũng bị xoay như chong chóng bởi những cuộc điện thoại do nhân viên trực tổng đài đường dây nóng thông báo, giống hệt như mấy cô cậu phóng viên tẹp nhẹp mới chân ướt chân ráo về tòa soạn.

Phỏng vấn xong tôi về tòa soạn viết bài. Buổi tối tôi ăn luôn ở tòa soạn. Mỗi phóng viên đều có trong tay dăm ba số điện thoại mua hàng bên ngoài ở những cửa hàng gần tòa soạn, lâu dần mọi người giao lưu với nhau để cho giản tiện, bớt rườm rà phức tạp, những đồ còn lại đều là hàng chất lượng. Hôm nay tôi gọi món sủi cảo Đông Bắc, vỏ mỏng nhân thơm.

Về tới nhà đã gần 9 giờ tối, tôi bật máy tính vào mạng như thường lệ. Thời gian trôi vèo trong khi tôi chat trên MSN và xem Đông Du Kí. 10 giờ, tôi bật truyền hình vệ tinh, nó giúp tôi xem được nhiều chương trình truyền hình của Đài Loan. Từ 10 giờ đến 11 giờ mỗi tối, tôi đều phải xem chương trình “Khang Hy đến” của đài truyền hình tổng hợp Trung Thiên, hai MC là tiểu S và Thái Khang Vĩnh phối hợp rất ăn ý với nhau, kẻ tung người hứng. Những kênh truyền hình của Trung Quốc đại lục không có chương trình trò chuyện nào thú vị như vậy, cả ngàn chương trình đều rập khuôn giống nhau, càng xem càng nhảm.

11 giờ, tôi tắt ti vi và máy tính, ngồi trước bàn viết, giơ cuốn Sổ tay công tác ra.

Cuốn sổ kẻ ô vuông từ bao năm rồi vẫn chẳng đổi thay này tôi nhận từ phòng hành chính của tòa soạn. Hàng tháng, mỗi phóng viên đều được cấp phát một cuốn sổ. Nhiều phóng viên không tới phòng hành chính nhận sổ, vì kiểu sổ này thời nay trông quê kệch và xấu xí, khi phỏng vấn lấy ra ghi chép rất mất mỹ quan, mà nó lại nhỏ quá. Phóng viên chúng tôi thích dùng sổ to, không phải lật giở nhiều, đỡ ảnh hưởng tới tốc độ viết.

Tôi nhận cuốn Sổ tay công tác này không phải để ghi chép khi phỏng vấn mà để ghi vào cuốn sổ tay nho nhỏ rất đỗi tầm thường đó những sự việc không tầm thường.

Cũng giống như học trò viết nhật kí hàng ngày, chỉ cần điều kiện cho phép, mỗi tối trước khi đi ngủ, tôi đều ghi lại vắn tắt những sự việc liên quan xảy ra trong ngày. Tôi làm như thế có hai mục đích, một là để làm cho đầu óc tỉnh táo, giúp tôi lần tìm manh mối, tiếp cận chân tướng sự việc; hai là để làm cơ sở cho cuốn “Bút kí Na Đa” mà từ nay về sau tôi sẽ chính thức viết.

“Thứ ba, ngày 15 tháng 6 năm 2004,

Tìm được thông tin về bốn anh em nhà họ Tôn lấp ao Khâu Gia xây dựng công trình vườn hoa Sạp Bắc.

Tìm thấy Biên bản ghi nhớ được kí kết giữa bốn anh em nhà họ Tôn với chính quyền địa phương.

Biên bản ghi nhớ nêu rõ, bốn anh em nhà họ Tôn giúp chính quyền xây dựng công trình này vô điều kiện. Lấy danh nghĩa là đào hầm trú ẩn dưới nền nhà, phần đất thừa dùng để lấp ao Khâu Gia.

Với chính quyền, đó là cái cớ để người thiện làm việc thiện, không cần phải truy cứu.”

Tôi dùng bút gạch hai gạch dưới cụm từ “hầm trú ẩn.”

Hầm trú ẩn ư? Lấy đâu ra hầm trú ẩn? Nếu có hầm trú ẩn thật sự thì tại sao khi quân Nhật ném bom, người ta không trốn dưới đó?

Câu trả lời rất đơn giản. Bốn anh em nhà họ Tôn đào thứ gì đó dưới nền đất của “khu ba tầng.” Có thể họ đào đường hầm nhưng tuyệt đối không phải là hầm trú ẩn. Hầm trú ẩn có những tiêu chuẩn riêng, sức chống đỡ của mỗi một centimét vuông đều có yêu cầu tương ứng, không phải người ta cứ tùy tiện đào một cái hầm thì được gọi là hầm trú ẩn. Bởi vậy, khi quân Nhật ném bom, bốn anh em nhà họ Tôn mới lo lắng đến thế, họ sợ công trình họ đang thực hiện dưới mặt đất kia sẽ bị ảnh hưởng bởi trận bom. Lúc ấy, họ đang cách thành công rất gần, rất gần rồi.

Tôi liên tưởng tới lời kể của bác Chung Thư Đồng. Tôi đã biết thứ mà bác nhìn thấy nhưng không rõ cụ thể là vật gì trong sớm tháng năm năm ấy. Thứ người ta chất lên xe đẩy rồi đẩy ra khỏi khu nhà chính là đất được đào lên từ dưới nền nhà. Đám công nhân đào đất vào buổi tối và vận chuyển tới cái ao Khâu Gia cách đó không xa, đổ xuống để lấp ao để xây vườn hoa.

Có cái ao Khâu Gia làm lá chắn, lượng đất khổng lồ đào lên từ dưới nền nhà sẽ có điểm đến hợp pháp. Nếu tôi đoán đúng thì lượng đất đào lên từ dưới nền nhà “khu ba tầng” lớn hơn gấp nhiều lần lượng đất người ta đào lên khi làm hầm trú ẩn. Giả sử không có cái ao Khâu Gia làm lá chắn, sớm muộn người ta cũng thấy hành động của bốn anh em họ Tôn thật kì lạ.

Vừa là một việc làm công ích vừa có thể che đậy vết chân ngựa to lớn.

Kế hoạch của bốn anh em nhà họ Tôn thật chu đáo và tỉ mỉ vô cùng.

Câu hỏi đặt ra bây giờ là làm thế nào để đặt chân vào công trình ngầm dưới đất ấy?

Bác Chung Thư Đồng và bác Tô Miễn Tài đều không biết lối vào, không biết lão Trương Khinh gàn dở, người luôn không chịu phối hợp với tôi có biết không nhỉ?

Dù thế nào đi nữa thì ông lão Tiền Lục chắc chắn phải biết.

Lòng tôi bất giác rung động, tôi bèn viết một câu vào trong cuốn sổ.

“Ra quân chưa thắng thân tan trước - Mãi để anh hùng tay áo ướt.”

Trong câu thơ mà ông lão Tiền Lục đọc lên cho tôi nghe ấy, liệu có ẩn giấu bí mật về lối vào đường hầm dưới lòng đất kia hay không?

Hay là bốn anh em nhà họ Tôn sau khi tiến vào đường hầm rồi thì vĩnh viễn không bao giờ trở ra nữa, tất cả bọn họ, đều ở đó!

“Khu ba tầng” rốt cuộc cất giấu bí mật gì dưới lòng đất của nó?

Khi tôi tỉnh dậy, trời đã trưa.

Tôi có thói quen để mình thức dậy tự nhiên, nhưng hiếm khi chào ngày mới vào lúc gần 12 giờ trưa như hôm nay. Phải khó khăn lắm tôi mới mở mắt ra được vì cảm thấy đầu óc nặng trĩu.

Có một thứ mùi là lạ vấn vít trong không khí. Tôi bật điều hòa cả đêm, tuy thế nó không phải là nguyên nhân gây ra thứ mùi lạ này.

Tôi cố gắng ngồi nhỏm dậy trên giường và đột nhiên thấy mình hít phải một luồn hơi lạnh.

Có người đã tới đây!

Căn phòng bị lật tung, ngăn kéo và tủ sách để mở. Tôi quay đầu nhìn về phía giường, chiếc túi của tôi cũng bị lục lọi.

Có trộm vào nhà, một việc tày trời như thế, tại sao tôi không hề có chút phản ứng nào nhỉ?

Chắc chắn là do tác dụng ma quái của thứ mùi đó, có lẽ nó là một thứ gì đó giống như thuốc gây mê.

Tôi mở toang cửa sổ để thứ mùi dị thường đó mau chóng bay hết ra ngoài.

Rồi tôi chạy tới mấy gian phòng xem xét suốt một lượt. Tình trạng của các gian phòng gần giống nhau, những chỗ có thể cất đồ đều bị lật tung. Tôi kiểm tra cửa ra vào, không có dấu vết của một sự tấn công mạnh bạo, thời buổi ngày nay thật hiếm có gã trộm nào cao tay như thế.

Cũng may là tôi không để tiền trong nhà, tất cả đều gửi vào thẻ tín dụng, mật mã không phải là ngày sinh nên dù kẻ trộm có lấy được chứng minh thư của tôi đi nữa cũng không thể làm gì, nhưng cũng phải nhanh chóng trình báo mất giấy tờ. Đầu tôi ong ong như phát điên khi nghĩ tới một mớ việc phiền toái sau này.

Trước khi báo cảnh sát, tôi phải kiểm tra xem mất bao nhiêu đồ đạc.

Ít nhất thì tôi cũng mất tiền và thẻ tín dụng để trong chiếc ví da, mong là cái gã chôm chỉa kia không cuỗm mất chứng minh thư và thẻ bảo hiểm xã hội của tôi.

Tôi lấy ví ra khỏi túi, mở ra nhìn và bỗng sửng sốt.

Các loại thẻ tín dụng vẫn còn nguyên trong ví. Số tiền hơn một nghìn tệ không mất đi đồng nào.

Sau khi kiểm tra tất cả đồ đạc, tôi đẩy ngăn kéo và túi sách về chỗ cũ, tự tay hủy hiện trường. Vì tôi không hề bị thiệt hại về tài chính.

Tuy thế, tôi không thể vui lên được bởi vì tôi đã mất một thứ.

Cuốn Sổ tay công tác tôi để trên bàn viết trước khi đi ngủ đã không cánh mà bay.

Hôm qua, tôi đã tự tay tắt chiếc điện thoại di động thế mà hôm nay nó lại bị mở, gã trộm chắc chắn đã kiểm tra nhật kí điện thoại và tin nhắn của tôi.

Máy tính cũng bị gã bật lên và sử dụng, dù gã đã tắt máy khi dùng xong nhưng công tắc ổ điện cắm dây nguồn thì hắn quên không tắt.

Thì ra những kẻ quan tâm tới “khu ba tầng” không chỉ có một mình tôi.

Lần đột nhập này có thể coi là một hành động thị uy của hắn với tôi không? Hay là tôi nắm giữ bí mật mà kẻ đột nhập không biết? Trong điện thoại di động và máy tính không có một thông tin nào hữu ích cả, nhưng trong cuốn Sổ tay công tác thì lại khác, tôi đã ghi vào đó những trải nghiệm của tôi kể từ khi sự việc bắt đầu xảy ra cho tới hôm qua và cả những suy đoán của bản thân nữa.

Tôi không bị người ta trực tiếp uy hiếp hay làm hại, điều đó chứng tỏ kẻ đột nhập nhà tôi không phải là người từng tham gia vào câu chuyện năm xưa, mà gã cũng chỉ là một người muốn biết chân tướng sự việc giống như tôi.

Xem chừng mình phải đề cao cảnh giác rồi, tôi tự nhủ. Vốn dĩ, tôi cứ nghĩ, chỉ một mình tôi đơn thương độc mã trên hành trình khám phá sự thật, không ngờ vẫn còn có kẻ song hành với mình trong bóng tối.

Tôi tin là nếu tiếp tục theo dõi thì tất có một ngày tôi sẽ gặp kẻ song hành đó.

Tôi quyết tâm đẩy nhanh tốc độ, nên vội gọi điện cho trưởng phòng xin nghỉ ngày hôm nay với lí do nhà bị trộm. Thời điểm hiện tại tòa soạn không có cuộc phỏng vấn nào quan trọng, vì thế xin nghỉ khá dễ.

Tôi định tới vườn hoa Sạp Bắc tìm kiếm manh mối, không biết bây giờ nó có còn tồn tại không.

Chắc chắn vườn hoa Sạp Bắc nằm trong quận Sạp Bắc và cách “khu ba tầng” không xa lắm. Tôi gọi một chiếc taxi, đi được nửa đường, tôi bảo anh lái xe đổi hướng, tôi muốn tới Thư viện Thượng Hải thêm lần nữa.

Quả nhiên, tôi đã tìm thấy vị trí của vườn hoa Sạp Bắc trên tấm bản đồ Thượng Hải năm 1935.

Tuy trên tấm bản đồ không chú thích rõ là “ao Khâu Gia” nhưng vị trí của nó ở ngay gần “khu ba tầng.” Tôi lấy tấm bản đồ hiện tại ra so sánh, phát hiện thấy vườn hoa Sạp Bắc chính là Công viên Giao thông ngày nay. Diện tích của Công viên Giao thông lớn hơn diện tích của ao Khâu Gia một chút.

Tôi tự đi bộ từ “khu ba tầng” tới Công viên Giao thông. Tôi định tới thăm ông lão Tiền Lục trước với hi vọng có thể dò được chút tin tức nào đó, không ngờ cánh cửa trước gian phòng ngầm đã bị khóa chặt.

Ông lão Tiền Lục đã về cõi tiên.

Hôm qua, lúc đến gõ cửa gian phòng ngầm, nhân viên thu tiền nước của Tổ dân phố phát hiện ông lão Tiền Lục đã chết trên giường. Ông lão tử vong trước đó vì bệnh tim. Tôi không thể ngăn nổi suy đoán trong lòng mình, không biết cuộc thăm viếng của tôi ngày hôm kia có phải là nguyên nhân khiến bệnh tim của ông lão bột phát hay không. Có điều, ông lão đã ngót tám mươi tuổi, lại thêm cả ngày chỉ quanh quẩn trong gian phòng âm u tối tăm, ít khi ra ngoài hoạt động nên cơ thể vốn rất yếu.

Ông lão Tiền Lục sống lẻ loi một mình, đơn vị công tác trước đây đã bị phá sản, vì thế người dân trong phố góp tiền lo hậu sự cho ông lão. Khi ông lão Tiền Lục còn sống, gian phòng ngầm luôn để ngỏ cửa, giờ ông lão đã sang thế giới bên kia, gian phòng liền bị khóa cửa im ỉm.

Từ “khu ba tầng” tới vườn Công viên Giao thông chỉ mất chừng mười lăm phút.

Tôi ước chừng Công viên giao thông cách “khu ba tầng” khoảng một cây số. Ở đây không phải mua vé vào cửa. Tôi đi qua công trình phá tường trồng cây xanh của thành phố Thượng Hải, trước mắt tôi hiện ra một khu đất xanh công cộng. Công viên không có nhiều người. Mặt trời đã lên rất cao, các cụ già tới công viên tập thể dục buổi sáng đa phần đã về nhà.

Tôi tìm tới phòng quản lí công viên. Phòng bật điều hòa, người nhân viên quản lí tuổi ngoài ngũ tuần đang vừa uống trà vừa đọc báo.

Đúng như tôi nghĩ, sau ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, người ta xây dựng Công viên Giao thông trên cơ sở mở rộng từ vườn hoa Sạp Bắc ngày trước.

“Anh cứ đi thẳng về phía trước sau đó rẽ trái, đi thẳng, tới khi trông thấy một tượng đài bằng đá là nó đấy”, nhân viên quản lí giơ tay về phía khung cửa sổ ngăn cách chỉ cho tôi đường tới vườn hoa Sạp Bắc ngày trước.

Vườn hoa Sạp Bắc ngày trước được hợp nhất với công trình xanh được xây dựng mở rộng sau này, cây xanh được cắt tỉa theo cùng một kiểu, bởi thế giữa vườn hoa Sạp Bắc và Công viên Giao thông không có quá nhiều điểm khác biệt, chỉ có một thứ duy nhất làm tôi thấy u uẩn trong lòng, ấy là tượng đài bằng đá trong vườn hoa Sạp Bắc.

Tượng đài này chạm khắc hình ảnh của một cổ nhân, ngẩng cao đầu, và đứng ngạo nghễ trên bệ tượng, cánh tay phải giơ thẳng, chỉ về phía xa xăm, sống mũi cao và đôi mắt sâu nổi bật trên gương mặt. Hình hài của con người ấy không giống với người phương Đông.

Có lẽ tượng đài này đã sừng sững ở đây từ ngày xưa, khi mới xây dựng vườn hoa Sạp Bắc, nhưng để tưởng nhớ nhân vật nào?

Tôi tiến lại gần, khom lưng, quan sát kĩ những nét chữ khắc trên bệ tượng:

“Tôn Quyền[2], tự Trọng Mưu…”

[2] Tôn Quyền (182 - 252), tức Ngô Thải Tổ hay Ngô Đại Đế, tên tự là Trọng Mưu, người Phú Xuân, Ngô Quận (nay là Phủ Dương, Chiết Giang), là vị vua đầu tiên của nước Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Tại sao tượng đài Tôn Quyền lại được đặt ở chốn này?

Nếu tượng đài này tạc bốn anh em nhà họ Tôn…

Thình lình, một ý nghĩ khẽ lướt qua đầu óc tôi.

Trong sử sách có miêu tả về tướng mạo của Tôn Quyền, râu tía mắt biếc, bốn anh em nhà họ Tôn khi vừa tới quận Sạp Bắc người ta cứ lầm tưởng là người nước ngoài…

Lẽ nào bốn anh em nhà họ Tôn lại là hậu duệ của Tôn Quyền?

Nếu thế, lòng đất dưới nền “khu ba tầng” hẳn nhiên cất giấu vật liên quan tới Ngô chủ Tôn Quyền của hơn hai nghìn năm về trước?

Là mộ Tôn Quyền? Bốn anh em nhà họ Tôn muốn vào mộ Tôn Quyền, phải thế hay không? Mộ Tôn Quyền nằm dưới “khu ba tầng” ư?

Ý nghĩ ấy quẩn quanh trong đầu tôi một lúc rồi lại bị chính tôi phủ định ngay tức khắc, đám con cháu làm sao dám trộm mộ của tổ tông mình cơ chứ? Nếu họ cả gan làm chuyện đại nghịch bất đạo như thế thì không thể đúc tượng để tưởng nhớ tổ tiên ở vườn hoa Sạp Bắc được.

Vậy câu thơ “Ra quân chưa thắng thân tan trước - Mãi để anh hùng tay áo ướt” mà ông lão Tiền Lục cảm khái đọc lên vốn dĩ để gợi nhớ Khổng Minh Gia Cát Lượng[3], liệu có ám chỉ tượng đài này hay không?

[3] Khổng Minh Gia Cát Lượng (181 - 234), hiệu là Ngọa Long tiên sinh, là một vị quân sư và đại thần của nước Tây Thục thời Tam Quốc. Ông đồng thời là một vị chính trị gia, nhà quân sự, học giả và nhà phát minh kĩ thuật.

Nói thế hơi miễn cưỡng vì nước Ngô của Tôn Quyền tuy cuối cùng vẫn bị diệt vong, nhưng Tôn Quyền sống khá thọ, đâu đến nỗi phải dùng câu “Ra quân chưa thắng thân tan trước” để hình dung.

Tôi ngắm nghía tượng đài Tôn Quyền rồi quay đầu bước đi theo cánh tay người quản lí công viên chỉ.

Theo hướng đó thẳng về phía trước khoảng ba mươi mét là một cây to.

Cây long não này hai vòng tay người ôm không xuể, dễ có đến vài trăm năm tuổi rồi. Tại sao nó lại được trồng ở đây nhỉ? Hơn một trăm năm trước, nơi này vẫn là một cái ao tù, cái cây đại thụ này chắc chắn là do người ta sau này bứng đến.

Tôi bước đến trước cái cây, ngẩng đầu nhìn lên, ở chỗ cách mặt đất chừng ba mươi mét có một hốc cây lớn. Không biết khoảng bao nhiêu năm về trước cái cây này đã từng bị sâu đục, nhưng nó vẫn kiên cường vươn mình giữ lấy sự sống.

Hốc cây vừa đủ để một người trèo vào. Tôn Quyền chỉ tay về phía này, lẽ nào ông ta muốn ngầm bảo, bên dưới gốc cây là một con đường có thể thông tới lòng đất “khu ba tầng” cách đó hơn một cây số?

Tôi nhìn xung quanh, không có ai cả. Tôi đang ngẫm nghỉ xem nên bấu vào đâu để trèo lên, chui vào hốc cây quan sát thử thì bỗng nghe thấy đám lá trên đầu kêu xào xạo, một người thò đầu ra khỏi hốc cây.

Gã thanh niên khoảng hai mươi tuổi, mặt mày xanh xám, trán lấm tấm lá cây khô. Gã nhổ phì đám mùn vụn trong miệng. Trông bộ dạng của gã thì hình như gã đang cáu tiết. Lúc này, tôi và gã bốn mắt nhìn nhau, cả hai cùng sững sờ.

Gã chần chừ một lúc rồi nhoài người ra khỏi hốc cây, bàn tay bám chặt trên cành cây, hắn đu người, nhảy xuống đất rất lẹ làng.

“Anh...”, gặp gỡ trong hoàn cảnh này khiến người trong cuộc có phần hơi lúng túng, nếu tôi đoán không nhầm thì...

“Đầu không đau nữa chứ hả? Cái thứ đồ chơi đó tuy không có tác dụng phụ nhưng vẫn làm đầu óc người ta choáng váng khá lâu sau khi thức dậy đấy!.” Gã thanh niên gạt lá cây vương trên mặt, chìa tay về phía tôi, “Chào anh, tôi là Vệ Tiên.”

Tôi chìa tay ra bắt tay gã, lòng thầm kinh ngạc về mức độ thẳng thắn của cái gã chôm chỉa này, có điều người ta đã nói như thế thì mình cũng phải tỏ ra khí khái một chút: “Tôi là Na Đa, chắc anh biết rồi!.”

“Nhưng tại sao anh lại thẳng thắn thừa nhận như thế?” Tôi nhếch miệng cười hỏi dù trong lòng có chút bực dọc. Tôi thấy mình hơi bị động nên đành cố làm ra vẻ nắm chắc mọi thứ, không muốn để gã ăn trộm chiếm thế thượng phong.

“Tôi không thừa nhận thì anh cũng đoán ra thôi. Tôi vốn nên nói mà. Anh tìm ra nơi này nhanh như thế xem ra cũng đủ trình để cùng chiến tuyến với tôi đấy.”

Tôi hừ một tiếng, không thèm đáp lời.

“Song trên thực tế...”, Vệ Tiên bẻ một cành cây, “ở đây chẳng có gì cả, chỉ là một hốc cây không sâu lắm, hai ta đã đi nhầm hướng rồi. Nói ra thì cũng là do cuốn sổ của anh dẫn tôi đi sai đường đấy. Muốn tìm ra lối vào mộ, tôi nghĩ hai ta phải thành thực hợp tác với nhau, như thế sẽ tốt hơn.” Vừa nói hắn vừa rút ra cuốn sổ đã chôm của tôi, “mượn xem một lúc giờ trả nó lại cho chủ cũ.”

“Không có gì ư?” Rốt cuộc tôi cũng không thể giả đò trấn tĩnh thêm được nữa. Gương mặt tôi lộ rõ vẻ sửng sốt.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3