Lá cờ ma - Chương 02 - Phần 1
Chương 2: Bốn anh em cầm cờ
Tôi báo cáo tình hình tổng thể với sếp Lam, có nhắc
tới kì tích năm xưa và cho anh xem bản scan của tấm ảnh. Sếp Lam tỏ ra vô cùng phấn
khởi. Anh đồng tình với xuất phát điểm của tôi trên hành trình đưa tin, đồng thời
nhấn mạnh nhất định tôi phải tìm thật chi tiết về bí ẩn làm nên kì tích đó. Xem
ra vị lãnh đạo này cũng biết nhìn xa đấy.
Tôi nói với anh, hai đối tượng phỏng vấn của tôi ở cách
tòa soạn khá xa, hơn nữa lần điều tra thu thập thông tin để viết bài lần này có
thể sẽ trở thành một cuộc điều tra tương đối rộng, nên tôi không thể nộp bài viết
cho anh trong ngày một ngày hai được. Khi nói như thế tôi vốn muốn sếp Lam điều
cho tôi một chiếc xe công vụ để đi phỏng vấn nhưng không ngờ anh ta lại vỗ vỗ vào
vai tôi và bảo: “Na Đa, anh đừng để ý tới thời gian, tôi chỉ cần anh điều tra sâu
và điều tra tỉ mỉ để làm sáng tỏ việc này, một tuần hay hai tuần mới nộp bài cũng
không sao. Ngoài ra, anh cũng không cần phải lo lắng về lượng công việc của tháng
này, hoàn thành phóng sự này, nhuận bút và tiền thưởng của anh không thành vấn đề
đâu.”
Và thế là tôi đi tàu điện ngầm tuyến số 2 tới nhà ông
lão Dương Thiết.
Ông lão Dương Thiết sống trong một căn hộ gồm hai phòng
ngủ và một phòng khách cùng với các con trai và con gái. Ban ngày, các con đều đi
làm, hiếm khi có khách trẻ tuổi tới chơi nhà, vì thế ông lão tỏ ra rất vui mừng
khi thấy tôi đến.
Trông dáng vẻ bên ngoài thì ông lão Dương Thiết già
yếu hơn nhiều so với bác Trương Khinh và bác Tô Miễn Tài, mà xem chừng thần trí
của ông không còn được minh mẫn lắm.
“Ái chà, quả là một sự may mắn đấy, tôi còn nhớ, năm
đó, khi quân xâm lược Nhật ném bom Thượng Hải, chúng kéo theo cả một phi đội bay
đông đảo. Phi đội bay của quân Nhật lượn ở tầm thấp, tiếng bom rơi đạn nổ ầm ầm,
khi ấy, những người trải qua cảnh đó như chúng tôi tưởng chừng như tất cả mọi thứ
đều đã chấm hết, chúng tôi trốn miết trong nhà không dám ra ngoài.” Ông lão Dương
Thiết kể lại chuyện năm xưa, chẳng chút e dè, sợ sệt.
“Thế nhưng vì sao chúng lại không hủy diệt được bốn
tòa nhà ba tầng trong khi các tòa nhà xung quanh không thoát khỏi tai kiếp ạ?”
Đúng lúc tôi đang thầm nghĩ không biết trí nhớ của ông
lão có kém đi vì tuổi già hay không thì hình như ông lão đã đáp lời tôi ngay.
“Ồ, không phải là anh cho rằng tôi đã từng sống ở ‘khu
ba tầng’ vào thời điểm quân Nhật ném bom oanh tạc đấy chứ?”
“Á, chẳng lẽ không phải như thế sao hả bác?” Tôi bật
ra một câu hỏi nằm ngoài dự định.
“Không phải thế, không phải thế. Tôi chuyển đến sinh
sống tại ‘khu ba tầng’ vào năm 1939, trận ném bom xảy ra năm 1937 tôi không có mặt
ở đó, nhưng khi thảm họa qua đi, tôi đã đích thân đến đó xem xét, thật vô cùng kì
lạ.”
Mãi tới năm 1939 mới chuyển đến sinh sống cơ mà! Có
lẽ, theo quan điểm của Tổ dân phố khu ba tầng thì những cư dân này cũng có thể được
coi là một trong những cư dân sinh sống lâu năm nhất trong khu, nhưng đối tượng
mà tôi muốn phỏng vấn lại là những người đã từng sống ở đó vào thời điểm quân Nhật
oanh tạc Thượng Hải năm 1937 kia!
“Ồ, xem ra cháu nhầm lẫn thật rồi. Vốn dĩ, cháu còn
muốn hỏi bác chuyện về lá cờ ngoại quốc nữa cơ.” Lòng tôi chợt rầu rĩ. Biết làm
sao được, đã tới rồi thì không thể ra về như thế được nên tôi muốn hỏi một số chuyện
khác.
“Lá cờ ngoại quốc ư?”
“Đúng thế đấy bác ạ. Cháu nghe nói có người nào đó ở
bên trong tòa nhà đã giương cao một lá cờ ngoại quốc, lính Nhật trông thấy lá cờ
ấy nên thôi không ném bom tòa nhà”, tôi thuận miệng đáp lời ông lão Dương Thiết.
Gương mặt ông lão Dương Thiết đờ đẫn một hồi, phần da
thịt trên hai má khẽ giần giật.
“Lá cờ, anh hỏi lá cờ ngoại quốc, bọn họ đã giương cao
lá cờ ư?”
“Cháu đọc một cuốn tư liệu thấy người ta viết thế bác
ạ.”
“Là lá cờ đó, thảo nào, thảo nào!”, ông lão gật gật
đầu, đôi mắt ánh lên thần thái khó hiểu.
“Bác biết chuyện về lá cờ đó ạ?”, trong lòng tôi rộn
ràng một niềm vui như khi qua hết chốn hiu quạnh bỗng gặp thôn làng.
“Những người sống ở ‘khu ba tầng’ thời đó ai cũng biết
lá cờ đó.”
“Lá cờ đó là quốc kì của nước nào hả bác?”, dù trong
lòng đã mơ hồ cảm nhận rằng lá cờ ngoại quốc này không đơn giản như thế nhưng tôi
vẫn hỏi ông lão Dương Thiết câu này.
“Cái này thì tôi cũng không biết. Chúng tôi biết tất
cả những lá quốc kì tung bay trước gió trong khu tô giới của thành phố Thượng Hải
nhưng chưa từng trông thấy lá cờ này.”
“Vậy người cầm lá cờ đó là người nước nào ạ?” Tôi thầm
rủa mình ngu ngốc ngay khi câu hỏi này vừa buột ra khỏi miệng. Vào thời điểm ấy,
ông lão Dương Thiết không có mặt ở đó, làm sao biết được ai là người giương lá cờ
cơ chứ.
“Người nước nào ư?”, ông lão Dương Thiết nở một nụ cười,
“Người Trung Quốc đấy.”
“Người Trung Quốc ạ?” Xem chừng ông lão Dương Thiết
biết rất rõ lá cờ đó và cả chủ nhân của nó, chẳng lẽ tư liệu viết trong sách lại
sai?
“Cũng không trách được. Ban đầu chúng tôi cứ ngỡ bọn
họ là người nước ngoài, mãi về sau, khi tiếp xúc nhiều hơn với họ và thấy họ nói
giọng Bắc Kinh chuẩn hơn mọi người, chúng tôi mới biết, con cháu trong gia tộc họ
từ đời này sang đời khác sở hữu một mái tóc hơi ngả vàng và một đôi mắt không phải
màu đen, không biết tổ tông họ là người Hồ[1] bắt đầu từ đời nào.”
[1] Người Hồ: thời xưa người Hán gọi các dân tộc thiểu
số ở miền bắc và miền tây Trung Quốc là người Hồ.
“Bác biết bọn họ ạ?”
Ông lão Dương Thiết vỗ đầu nói: “Giờ tôi già rồi, nói
năng lộn xộn hết cả, thật ngại quá. Bọn họ chính là những người đã xây lên ‘khu
ba tầng’, tức bốn anh em nhà họ Tôn đấy.”
Lại thêm một câu trả lời nữa nằm ngoài ý nghĩ của tôi.
“Theo như bác nói thì bọn họ chính là người đã ở trong
tòa nhà và giương cờ vào thời điểm đó, phải không ạ?” Ông lão Dương Thiết nói chắc
như đinh đóng cột, chừng như ông lão đã chìm vào trong hồi ức về những chuyện ngày
xa xưa, chỉ có điều hồi ức ấy có lẽ không phải là một kỉ niệm đẹp.
Những lời ông lão Dương Thiết vừa chia sẻ ban nãy khiến
tôi biết được người nước ngoài vẫn được nhắc tới trên thực tế không hề tồn tại và
lá cờ ngoại quốc kia thực chất chỉ có một lá chính nhờ nó mà cả “khu ba tầng” được
bảo vệ nguyên vẹn trong mưa bom bão đạn.
Lá cờ ấy rốt cuộc là lá cờ như thế nào?
“Chỉ một lá cờ làm sao lại có được sức mạnh to lớn nhường
ấy hả bác?”, tôi thắc mắc với ông lão Dương Thiết điều tôi vẫn hoài nghi trong lòng.
“Đó là vì anh chưa nhìn thấy lá cờ đó thôi.” Ông lão
Dương Thiết hít một hơi thở dài rồi kể lại kí ức mà mấy mươi năm qua ông vẫn luôn
giấu kín bằng chất giọng khàn khàn.
Hồi ấy, những người dân sống ở quận Sạp Bắc chỉ biết
bốn anh em nhà họ Tôn nói giọng Bắc Kinh nhưng rốt cuộc họ là người địa phương nào
và từ đâu đến thì không ai biết. Họ chỉ biết một hôm, bốn anh em nhà họ Tôn cùng
ngồi trên một chiếc xe ô tô mui trần từ từ chạy qua địa phận quận Sạp Bắc. Trong
bốn anh em ngồi trên xe ô tô, có một người vóc dáng khôi ngô vạm vỡ khác người,
to cao hơn hẳn ba người còn lại. Người này đứng trong xe, hai tay giơ cao một lá
cờ lớn. Mãi về sau ông lão Dương Thiết mới biết người đó là Tôn Tam Gia. Ông lão
Dương Thiết không biết Tôn Tam Gia tên thật là gì, chỉ nghe người ta nói, Tôn Tam
Gia từng là cấp dưới của Tôn Điện Anh[2], giữ chức phó sư trưởng, cả
hai người đều họ Tôn, không biết có họ hàng gì không.
[2] Tôn Điện Anh, 1887 - 1947, là một lãnh chúa quân
phiệt Trung Hoa trong thời kì quân phiệt. Năm 1925, Tôn Điện Anh gia nhập Quân đội
Cách mạng Quốc dân. Năm 1928, ông thực hiện vụ đào trộm mộ tai tiếng tại Đông Lăng
của các hoàng đế triều Mãn Thanh, trong đó có cả mộ Từ Hi Thái Hậu. Về sau, Tôn
Điện Anh cùng Phùng Ngọc Tường và Diệm Tích Sơn tham gia nhiều phong trào chống
Tưởng Giới Thạch.
Tôn Điện Anh? Tôi bỗng thót tim khi nghe thấy cái tên
này. Tôn Điện Anh, là tay quân phiệt[3] đã đào mộ Từ Hi Thái Hậu ư?
[3] Quân phiệt: chỉ thủ lĩnh cát cứ một vùng theo cách
dùng từ cổ.
Nghe nói, trước khi tới quận Sạp Bắc, bốn anh em nhà
họ Tôn vừa ngồi trên xe vừa giương cao lá cờ, cứ như thế rong ruổi qua rất nhiều
nơi, thậm chí không biết làm cách nào mà họ đi qua cả khu tô giới. Cuối cùng họ
vẫn tới quận Sạp Bắc.
Kì lạ ở chỗ, khi lái xe tới quận Sạp Bắc, bốn anh em
nhà họ Tôn không cho xe đi thẳng qua như những nơi khác mà vòng đi vòng lại nhiều
lần qua khắp các ngõ lớn ngách nhỏ của quận Sạp Bắc. Họ lái như thế luôn mấy hôm
rồi bỗng một hôm, họ bắt đầu thôi không lái xe nữa mà vác lá cờ đi khắp phố lớn.
“Lá cờ đó to cỡ nào hả bác?”
Ông lão Dương Thiết chỉ cánh cửa ra vào ngay bên cạnh
đáp lời tôi: “Lá cờ đó to thật đấy, to bằng cánh cửa này, người ta có thể nghe thấy
tiếng ràn rạt phát ra từ nó mỗi khi gió thổi qua.”
“Ôi, lá cờ to như thế thì chắc hẳn cái cán của nó cũng
phải dài lắm bác nhỉ. Bốn anh em nhà họ Tôn vác lá cờ đó đi diễu phố hình như có
ý muốn khoe khoang thì phải.” Vừa nói tôi vừa thầm ước lượng, để giương cao lá cờ
ấy suốt một ngày ròng người ta phải cần tới bao nhiêu sức vóc và lòng kiên trì cơ
chứ.
“Khoe khoang à?”, nét mặt ông lão Dương Thiết trở nên
kì quặc. Ông lão chậm rãi lắc đầu.
“Bác bảo sao cơ ạ, như thế chẳng nhẽ không phải cố ý
phô trương thanh thế ạ? Nếu bây giờ có người nào đó cầm lá cờ to như thế đi diễu
phố thì chắc chắn sẽ tắc đường vì những người hiếu kì đứng xem bác nhỉ?”, tôi nói.
“Anh đừng coi thường bộ xương cốt yếu mòn, ra khỏi cửa
đi được vài bước đã run lẩy bẩy này của tôi bây giờ nhé, chà chà, nhớ năm xưa, cái
tên lão Thiết này của tôi lẫy lừng khắp mấy con phố đấy. Tôi còn có một tên khác
là Dương Thiết Đảm. Hễ anh mà chọc tức tôi thì dù anh là nhân vật tai to mặt lớn
đi nữa, tôi cũng chẳng ngần ngại. Như cái lão Tiểu Lục Tử ở ngay phố bên cạnh thích
đối đầu với tôi đấy, lão ấy mời hẳn một tay tiểu đội trưởng của phủ Tuần phủ tới
định để dằn mặt tôi, thế mà cuối cùng tay tiểu đội trưởng phải gọi tôi một câu người
anh em đấy.”
Tôi nhủ thầm, thật không ngờ ông lão ngồi trước mặt
tôi đây năm xưa lại là một tay trùm lưu manh. Ông lão Dương Thiết nói say sưa đến
nỗi bắn cả nước bọt, càng nói càng hăng. Lão không ngừng giơ nắm đấm như thể muốn
diễn lại cảnh của một thời đã xa. Ngày ấy, quả đấm này có lẽ đã làm khiếp đảm những
người trông thấy nó, nhưng giờ thì nó quắt queo đến thảm hại. Lão Dương Thiết ơi
là lão Dương Thiết, lão đi lạc đề quá xa mất rồi, tôi tới đây không phải là để nghe
lão ôn lại những “sự tích huy hoàng” ngày xưa.
Tôi tỏ ý mấy lần, ông lão Dương Thiết mới ngừng lại.
Lão uống ngụm trà, thưởng thức những vụn trà trong chén, bàn tay bưng chén trà của
lão run rẩy. Tôi nghĩ, chắc là do cơn hưng phấn vừa rồi vẫn chưa tan biến hết.
Ông lão Dương Thiết cũng chú ý tới bàn tay đang rung
rung của mình. Ông lão đặt chén trà xuống, mỉm cười gượng gạo: “Giờ tôi già và trở
nên vô dụng mất rồi. Lão Dương Thiết Đảm năm xưa bây giờ nhớ lại lá cờ đó lại sợ
hãi tới mức này đây, khà khà.”
“Ban nãy tôi kể chuyện mình chỉ muốn nói với anh lá
cờ đó quái dị đến mức nào thôi. Một người to gan lớn mật, dám ngủ trên nấm mồ người
chết, dám đánh lại người của phủ Tuần phủ như tôi mà vừa trông thấy lá cờ đó đã
thấy ớn lạnh thấu tim gan.” Lão Dương Thiết uống thêm một ngụm trà nữa, cơ hồ lão
muốn dùng luồng hơi nóng rẫy của nước trà để xua đi nỗi ớn lạnh trong lòng.
“Tôi mà còn thế, nói gì đến người khác! Mới đầu, không
ai dám lại gần lá cờ đó, chỉ đứng từ xa nhìn lại, người ta cũng thấy chân tay bủn
rủn, tim đập hoảng hốt rồi. Vì thế, bốn anh em nhà họ Tôn và lá cờ đó đi tới đâu,
ở đó không có người, lá cờ đó khiến người ta sợ hãi đến nỗi phải vội vàng tránh
xa.”
Lão Dương Thiết lại uống thêm một ngụm trà lớn, trông
điệu bộ của lão thì hình như không phải lão đang thưởng thức trà Long Tỉnh của Tây
Hồ, mà lão đang uống một thứ rượu mạnh có thể thiêu đốt ruột gan như ngọn lửa thiêu
đốt lưỡi đao trong bễ rèn.
“Khà khà, nhưng cái tên Dương Thiết Đảm của tôi cũng
không phải hữu danh vô thực đâu nhé. Hồi ấy tôi nghĩ, bốn anh em nhà họ Tôn dám
giương cao lá cờ đó, lẽ nào Dương Thiết Đảm tôi lại không dám tới gần nó? Tôi không
những muốn tới gần nó mà còn muốn thử chạm vào nó. Về sau, khi trông thấy lá cờ
đó nhiều lần, cảm giác sợ hãi trong lòng dần biến mất, đôi chân thôi không mềm nhũn
nữa. Một lần tôi bạo gan theo gót bốn anh em nhà họ Tôn, càng tới gần lá cờ đó,
khà khà, anh đoán thử xem, sẽ như thế nào?”
Bị kích thích trí tò mò, tôi hỏi ngay tức khắc: “Như
thế nào hả bác?”
“Khi tôi chỉ còn cách lá cờ đỏ chừng ba, bốn chục bước
chân, cảm giác sợ hãi mất hẳn. Anh đừng cho là tôi duy tâm nhé, cảm giác đó rất
thực, như thể đang trong tiết trời tháng chạp bỗng đột ngột chuyển sang buổi đầu
xuân.”
“Cảm giác đông qua xuân tới ấy ạ?”, tôi chau mày, cố
gắng nghiền ngẫm hàm ý ẩn trong câu nói của ông lão.
“Phải, lúc ấy thay vì sợ hãi tôi lại cảm thấy một luồng
khí nóng bừng tràn trề khắp cơ thể, dường như có một nguồn sức mạnh vô cùng vô tận.
Anh nói thử xem, như thế có quái đản không?”
“Thế bác có chạm tay vào lá cờ đó không ạ?” Tôi hỏi.
“Không, vì bốn anh em nhà họ Tôn không cho tôi sờ.”
Gương mặt ông lão Dương Thiết lộ rõ vẻ ủ rũ.
“Ha ha, không phải là bác, ngay cả tiểu đội trưởng của
phủ Tuần phủ cũng không sợ sao, thế mà bốn anh em nhà họ Tôn không cho bác sờ vào
lá cờ đó, bác lại ngoan ngoãn nghe lời ạ?” Tôi cười hỏi.
“Chậc, chuyện đã qua sáu, bảy chục năm rồi, anh khích
tôi phỏng có ích gì? Nói thật với anh nhé, hồi còn trẻ, tôi cũng học quyền ở võ
đường mấy ngày, công phu chưa đến mức nhà nghề nhưng cũng biết võ vẽ một ít. Người
cầm lá cờ đó là Tôn Tam Gia. Tôn Tam Gia không chỉ to cao vạm vỡ, cơ bắp cuồn cuộn
mà tôi vừa nhìn đã biết, Tôn Tam Gia võ nghệ siêu phàm, một gã như tôi, ông ấy chỉ
tóm nhẹ đã khiến xương cốt tôi gãy răng rắc rồi ấy chứ.”
Tôi gật đầu, Tôn Điện Anh xuất thân từ con nhà võ tướng,
thuộc hạ của ông ấy người nào cũng hung hãn cả, có thể giữ chức phó sư trưởng dưới
trướng của ông ấy hẳn nhiên không phải nhân vật tầm thường.
Ông lão Dương Thiết đã uống cạn chén trà. Lão đứng lên
rót thêm nước vào trong chén rồi tiếp tục kể chuyện năm xưa.
“Về sau, xảy ra một chuyện, mà kể từ đó, bốn anh em
nhà họ Tôn thôi không cầm cờ rong ruổi khắp mọi nơi nữa. Họ chọn bốn mảnh đất rồi
vẽ một vòng tròn dọc theo bốn mảnh đất đó. Họ cho mỗi hộ gia đình sinh sống trên
các con phố nằm trong vòng tròn đó một nghìn đồng đại dương để chuyển ra ngoài ở.
Khoảng hai năm sau, khi họ xây nhà xong, những hộ gia đình đó nếu lưu luyến nơi
ở cũ có thể lại chuyển về sinh sống trong khu nhà mới xây theo quy mô lớn nhỏ ban
đầu, có điều những hộ như thế mỗi hộ chỉ được nhận năm trăm đồng đại dương. Chà,
năm đó khoản tiền này là một khoản kếch xù đấy. Tôi cũng là một trong những hộ gia
đình được hưởng lợi năm đó. Những hộ gia đình sinh sống trên các con phố bên cạnh
ao ước được như chúng tôi lắm lắm, nhưng bốn anh em nhà họ Tôn không khoanh vùng
nơi định cư của họ, bọn họ biết phải làm thế nào? Sau này, khi bốn anh em nhà họ
Tôn không còn, chính phủ quốc dân muốn thu hồi lại nhà ở, song trong tay chúng tôi
có thỏa thuận nhà đất, thế là hai năm sau, chúng tôi chuyển về đó ở một cách thuận
lợi.”
Nghe xong, tôi cảm thấy như có một đám sương mù bao
phủ, lời kể vừa rồi của ông lão Dương Thiết chứa đựng biết bao nhiêu dấu chấm hỏi.
“Khoan đã bác ơi, bác nói về sau xảy ra một chuyện,
là chuyện gì thế ạ?”, tôi lần theo thứ tự trong lời kể của ông lão để hỏi chuyện
mơ hồ đầu tiên.
Ông lão Dương Thiết chau mày, lắc đầu đáp lời: “Thật
tình là tôi không rõ chuyện đó lắm vì lúc xảy ra sự việc, tôi không có mặt ở đó,
những người tận mắt chứng kiến thì không thể giải thích nổi tại sao nó lại như thế,
hơn nữa người nào người nấy đều sợ hãi mất mật.”
“Không thể giải thích nổi tại sao nó lại như thế, sao
có thể thế được ạ?”
“À, là như vậy, tôi cũng chỉ nghe người ta nói thôi.
Sự việc phát sinh đột ngột trong lúc bốn anh em nhà họ Tôn cầm lá cờ đó đi diễu
phố, mọi người xung quanh kinh hồn tán đảm. Tôi có hỏi qua mấy người nhưng không
ai chịu mở miệng, bởi vì họ không biết mình đang nói gì. Kể từ sau sự việc đó, bốn
anh em nhà họ Tôn không bao giờ giương lá cờ đó lên nữa, à, hình như chuyện đó xảy
ra tại tòa nhà ba tầng nằm giữa hiện nay đấy.”
“Bác nói bốn anh em nhà họ Tôn vẽ một vòng tròn, tức
là như thế nào ạ?”, tôi tiếp tục hỏi.
“Bốn tòa nhà đó cách nhau rất xa đúng không?”
“Vâng, đúng thế ạ.”
“Vậy thì đúng rồi, những con phố nằm giữa các tòa nhà
ba tầng đều nằm trong vòng tròn.”
Ông lão Dương Thiết nói không rõ ràng chút nào. Tôi
phải hỏi mấy lần mới hiểu rõ cái vòng tròn đó là vòng tròn như thế nào. Tôi thật
không thể nào ngờ, tôi vốn cho rằng điểm nghi vấn lớn nhất trong bức ảnh của 67
năm về trước lại tìm được lời giải theo kiểu này.
Bốn anh em nhà họ Tôn lấy tòa nhà ba tầng ở chính giữa
làm tâm và khoảng cách giữa ba tòa nhà ba tầng ở bên ngoài làm bán kính vẽ một vòng
tròn đánh dấu phạm vi. Tất cả những hộ gia đình nằm trong vòng tròn đó nhanh chóng
chuyển ra ngoài sinh sống sau khi nhận được tiền của họ.
Tôi bất giác hít một hơi thở dài, cả một khu lớn như
vậy với không ít hộ gia đình, bốn anh em nhà họ Tôn phải tốn biết bao nhiêu tiền,
thảo nào mà ông lão Dương Thiết nói đó là “một khoản kếch xù.”
Mua cả một khu đất lớn như vậy chỉ để xây bốn tòa nhà,
còn với những ngôi nhà mái bằng thấp nhỏ khác khi thì họ bảo xây vườn hoa, lúc lại
nói là xây mấy ngôi nhà tầng, nói tóm lại, bốn anh em nhà họ Tôn thuê một đội thi
công tới xúc ủi những tòa nhà mái bằng đó, tuyệt nhiên không thấy họ xây dựng công
trình nào.
Như thế cũng có nghĩa là trước khi quân Nhật ném bom,
những ngôi nhà quây xung quanh bốn tòa nhà ba tầng đã trở thành một đống hoang tàn.
Quân xâm lược Nhật không thể thực hiện ném bom chính xác “như dao mổ” của người
bác sĩ vào thời điểm đó được, cơ bản là họ không ném bom bất cứ công trình nào trong
phạm vi “khu ba tầng”, có điều sau trận oanh tạc, khắp nơi ngổn ngang gạch ngói
vỡ vụn nên khi nhìn vào bức ảnh đó sẽ khiến người ta tưởng lầm.
Vậy là điểm nghi vấn này giờ chuyển từ câu hỏi “Vì sao
quân xâm lược Nhật không ném bom bốn tòa nhà ba tầng?” sang câu hỏi “Vì sao quân
xâm lược Nhật không ném bom khu vực này?” Những câu hỏi này vẫn là một câu hỏi chưa
thể tìm ra lời giải như câu hỏi trước.
“Bác ơi, ban nãy bác nói bốn anh em nhà họ Tôn không
còn, nghĩa là sao hả bác?” Câu hỏi này với tôi rất quan trọng bởi lẽ tôi đã hướng
sự chú ý sang bốn anh em nhà họ Tôn, nếu tìm được bốn anh em nhà họ Tôn hoặc hậu
duệ của họ thì mọi việc sẽ sáng tỏ.
“Mất tích, không ai biết họ đi đâu cả. Chuyện xảy ra
khoảng một tháng sau ngày quân Nhật ném bom. Về sau, người ta không cho những người
không phận sự vào trong khu đất mà bốn anh em họ Tôn đã mua. Khi quân Nhật trở lại
tấn công khu vực này lần nữa thì đội ngũ vẫn trở nên rối loạn. Tôi cũng không biết
rốt cuộc bốn anh em họ mất tích vào lúc nào, nghe nói phủ Tuần phủ phải lập hồ sơ
điều tra vụ án, phái người đi tìm nhưng không có kết quả.”
Tối đến, tôi ngồi dựa vào đầu giường. Tờ giấy trong
tay tôi vàng vọt dưới ánh đèn ngay đầu giường.
Ban ngày, lúc sắp sửa ra về, tôi bảo ông lão Dương Thiết
phác họa lại cho tôi hình dạng của lá cờ kì dị in trong trí nhớ ông lão. Lá cờ này
gây cho ông lão ấn tượng khá sâu sắc nên chỉ loáng một cái, ông lão đã vẽ xong nó
bằng thứ mực của bút bi. Ông lão chỉ vào những hoa văn trên lá cờ và nói dõng dạc
như tuyên thệ: “Đúng nó đấy.”
Tất nhiên, nó không phải là quốc kì của một đất nước
nào cả. Không cần quan sát kĩ nó, chỉ lướt nhìn mấy chỗ bí ẩn chạy dọc theo đường
viền của nó cũng đủ biết, làm gì có lá quốc kì nào quái dị như thế? Tôi chỉ hi vọng
có thể khám phá ra xuất xứ của nó từ những hoa văn phác họa trên nó. Vì tôi cũng
có kinh nghiệm trong lĩnh vực này rồi, không đến nỗi mù tịt những kí hiệu bí ẩn
như người bình thường.
Nhưng tôi lại chẳng khám phá ra điều gì. Nhìn những
nét vẽ vòng vèo, chệch choạc như con nòng nọc, tôi thật tình không thể liên hệ nó
với bất kì một kí hiệu nào hằn in trong đầu óc tôi.
Tôi nhìn lá cờ rất lâu. Những nét vẽ vòng vèo dường
như động đậy. Tôi tiện tay đặt tờ giấy lên cái tủ kê phía đầu giường ở ngay bên
cạnh. Tôi biết nó chỉ là ảo giác, giống như khi ta nhìn chăm chăm vào một chữ trong
thời gian dài thì ngay cả một chữ mà vốn dĩ ta có thể nhận ra dù nó bé xíu cũng
trở nên xa lạ. Cái lá cờ do ông lão Dương Thiết vẽ này chẳng hấp dẫn như lá cờ mà
Tôn Tam Gia giương cao trong tay như trong trí nhớ của ông.