Nhấn chuông đi, đừng đợi - Chương 02
2
CÂU HỎI: Bộ phim nào của
Powell và Pressburger được chuyển thể từ một câu chuyện của Hans Christian
Andersen, công chiếu năm 1948, trong đó Moira Shearer nhảy múa đến chết trước
một đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước?
TRẢ LỜI: Giày đỏ.
***
Số 16 đường Archer, giống như
tất cả những ngôi nhà khác trên đường này, cũng là một maisonette, một dạng
giảm nhẹ của danh từ tiếng Pháp (giống cái) maison, nghĩa đen là “ngôi nhà
nhỏ”. Tôi sống ở đây cùng mẹ tôi, và nếu bạn muốn nhìn thấy một cách bày biện
thật sự bất tiện thì bạn sẽ không phải thất vọng trước cảnh một thằng con trai
mười tám tuổi và một phụ nữ góa chồng bốn mươi mốt tuổi cùng sống trong một
ngôi nhà nhỏ đâu. Vụ sáng nay là một ví dụ. 8 giờ rưỡi sáng, tôi vẫn đang nằm
trong chiếc chăn lông vịt, nghe chương trình “Chào buổi sáng” và ngắm nhìn cái
máy bay mô hình treo toòng teng trên trần nhà. Tôi nên tháo chúng xuống, tôi
biết chứ, nhưng ở một thời điểm nào đó, cách đây hai năm, chúng từ một thứ đồ trẻ
con đáng yêu đã biến thành một thứ vô dụng buồn cười, nên tôi cứ để kệ chúng
trên đấy.
Mẹ bước vào, sau đó gõ cửa.
“Chào buổi sáng, ngái ngủ à.
Hôm nay là một ngày trọng đại đấy!”
“Mẹ chưa bao giờ gõ cửa thì
phải, mẹ nhỉ?”
“Mẹ có gõ mà con!”
“Không, mẹ bước vào, sau đó
mới gõ cửa. Đấy có phải là gõ cửa đâu...”
“Thế thì sao nào? Không phải
con đang làm gì đó chứ?” Bà liếc nhìn ranh mãnh.
“Không phải, nhưng mà...”
“Đừng nói là con giấu cô gái
nào trong đây nhé,” và bà giật một góc chăn. “Coi nào, cháu yêu, đừng có
ngượng, chúng ta hãy nói về điều đó đi. Ra đây nào, ra đây, cháu là ai cũng
được mà...”
Tôi kéo mạnh cái chăn qua
đầu. “Một phút nữa con xuống...”
“Ở đây bốc mùi, thật sự bốc
mùi, con có thấy vậy không?”
“Mẹ chẳng nghe gì hết...”
“Mùi giống con trai. Thật ra
thì các cậu nhóc làm gì để tạo ra cái mùi giống như vậy nhỉ?”
“Thật tốt vì con sắp đi, đúng
không?”
“Chuyến tàu của con lúc mấy
giờ vậy?”
“12 giờ 15.”
“Vậy sao con vẫn còn ở trên
giường hả? Nè, quà chia tay cho con...” và bà ném một cái túi đựng hàng xuống
chăn. Tôi mở ra; bên trong là một ống nhựa trong suốt, kiểu thường dùng để đựng
bóng tennis, nhưng nó chứa ba cái quần lót nam vải cotton được cuộn tròn lại,
màu đỏ, trắng và đen, các màu trên quốc kỳ Đức Quốc xã.
“Mẹ, mẹ không nên...”
“Ôi dào, đáng bao nhiêu đâu
mà.”
“Không, ý con là con mong mẹ
không nên tốn ít như vậy.”
“Đừng có láu cá, chàng trai
trẻ. Dậy mau. Con còn phải gói ghém đồ đạc đấy. Và cảm phiền mở cửa sổ ra cho
thoáng đi.”
Sau khi bà đi khỏi, tôi giũ
mấy cái quần ra khỏi ống nhựa để chúng rơi xuống tấm chăn, tận hưởng cảm giác
trọng đại của sự kiện này. Vì, thật lòng, đây là Những Chiếc Quần Cuối Cùng Mẹ
Mua Cho Tôi. Cái màu trắng cũng được, cái màu đen thì theo như tôi thấy là sẽ
bền đây, nhưng còn cái màu đỏ? Chúng không phải hơi chói sao? Với tôi, quần đỏ
là những thứ nói “Dừng lại” và “Nguy hiểm”.
Nhưng với tinh thần phiêu lưu
mạo hiểm, tôi bước ra khỏi giường và mặc cái quần đỏ vào. Điều gì xảy ra nếu
chúng lại giống như Giày đỏ, và tôi không tài nào cởi ra được? Tôi hy vọng không
phải, vì khi đó xét hình ảnh phản chiếu trong chiếc gương tủ quần áo thì tôi
trông chẳng khác gì vừa bị bắn vào háng. Dù sao thì tôi cũng mặc cái quần dài
từ hôm qua, mang hơi thở bốc mùi chua ngọt cùng hàm răng xỉn màu và cảm giác
váng vất do Skol đêm qua đi xuống nhà ăn sáng. Sau đó tôi sẽ đi tắm, rồi gói
ghém quần áo, và đi. Tôi không thể tin rằng mình thực sự rời đi. Tôi không thể
tin là mình được phép đi.
Nhưng dĩ nhiên khó khăn lớn
nhất của ngày hôm nay là gói ghém quần áo, rời khỏi nhà và lên xe lửa mà không
nghe mẹ nói những từ như, “Bố tự hào về con.”
***
Một tối thứ Ba vào tháng Bảy,
trời bên ngoài hãy còn sáng, màn được kéo lại một nửa để chúng tôi xem ti vi
cho rõ. Tôi mặc pyjama và áo choàng tắm, bốc mùi xà bông Dettol, đang tập trung
cao độ vào chiếc Airfix Lancaster Bomber bằng 1/72 kích thước thật trên khay
trà trước mặt. Bố tôi vừa tan sở về, ông đang uống một lon bia đắng, khói từ
điếu thuốc ông hút lơ lửng trong ráng chiều tà.
“Phần thi Thách thức Đại học
dành cho bạn; Triều đại nào của vương quốc Anh là triều đại cuối cùng chứng
kiến hoạt động quân sự đối kháng?”
“George Đệ Ngũ,” bố nói.
“George Đệ Tam,” Wheeler, Đại
học Jesus, Cambridge nói.
“Chính xác. Vòng điểm thưởng
của thí sinh sẽ được bắt đầu với một câu hỏi về địa chất.”
“Có biết gì về địa chất không
đấy Bri?”
“Một chút ạ,” tôi đánh bạo
nói.
“Bề ngoài như có dạng tinh
thể hoặc bóng loáng, loại nào trong ba loại đá chính được hình thành do sự
nguội lại và đông đặc của vật chất trái đất bị nung chảy...?”
Cái này tôi biết, tôi chắc là
cái này tôi biết. “Đá núi lửa!” tôi đáp.
“Đá mácma,” Armstrongs trường
Jesus, Cambridge nói.
“Chính xác.”
“Con gần đúng,” bố nói.
“Đá mácma bao gồm các tinh
thể lớn dễ nhận thấy được gọi là tinh thể ban có kết cấu là gì?”
Tôi trả lời đại. “Dạng hạt,” tôi
nói.
Johnson, trường Jesus,
Cambridge nói: “Thuộc đá Pocfia?”
“Chính xác.”
“Con suýt đúng,” bố nói.
“Bài thơ Người tình của
Porphyria, trong đó nhân vật chính siết cổ người yêu bằng bím tóc của cô...” -
xem nào, tôi biết câu trả lời thật - “là bài thơ tự sự của nhà thơ thời
Victoria nào?” Là Robert Browning. Chúng tôi đã học về bài thơ này trong giờ
Ngữ Văn tuần trước. Đó là Browning, tôi biết đúng là như vậy.
“Robert Browning!” tôi trả
lời, cố hết sức để không hét lên.
“Robert Browning?” Armstrong,
trường Jesus, Cambridge nói.
“Chính xác!” Và có tiếng vỗ
tay cho Armstrong trường Jesus, Cambridge từ phía khán giả trường quay, nhưng
cả hai bố con đều biết rằng tiếng vỗ tay thật sự dành cho tôi.
“Trời đất, làm thế nào mà con
biết câu trả lời hả Bri?” bố hỏi.
“Chỉ là con biết thôi,” tôi
nói. Tôi muốn quay lại nhìn mặt ông, để xem ông có cười hay không - ông không
cười nhiều, nhất là sau một ngày làm việc - nhưng tôi không muốn mình trông có
vẻ tự mãn nên bèn ngôi im và nhìn cái bóng đẫm ánh nắng của ông trên màn hình
ti vi. Ông nuốt khói thuốc lá vào, đặt nhẹ bàn tay cầm điếu thuốc lên đầu tôi,
giống như một vị hồng y giáo chủ, vuốt tóc bằng với những ngón tay dài vàng
khè, và bảo với tôi rằng:
“Không chừng một ngày nào đó
con sẽ ở đó đấy,” tôi tự mỉm cười với chính mình, cảm thấy mình thật thông minh
sáng dạ và đúng đắn, như một người hoàn toàn khác.
Dĩ nhiên, sau đó tôi trở nên
tự mãn và cố gắng trả lời mọi câu hỏi, rồi trả lời sai mọi câu hỏi, nhưng
chuyện đó không thành vấn đề bởi vì tôi đã đúng một lần, và tôi biết rằng ngày
nào đó mình sẽ lại đúng một lần nữa.
***
Tôi nghĩ, nói rằng mình không
bao giờ là nô lệ của những thay đổi thất thường của thời trang thì cũng chẳng
ngoa. Thế không có nghĩa tôi là người phản thời trang, chỉ là không có trào lưu
nào trong các trào lưu thanh niên chủ yếu ở thời đại tôi sống thật sự phù hợp.
Chung quy thì, có một thực tế phũ phàng thế này, nếu bạn là fan của Kate Bush,
Charles Dickens, trò sắp chữ, David Attenborough và Thách thức Đại học thì bạn
chẳng có được nhiều lựa chọn về một trào lưu thanh niên.
Không phải tôi chưa từng thử
qua. Từng có một thời gian dài tôi hay trằn trọc khó ngủ vì lo sợ rằng mình có
thể trở thành một người Gothic, nhưng tôi nghĩ đó chỉ là một giai đoạn mà thôi.
Vả lại, đàn ông Gothic căn bản đều ăn mặc giống ma cà rồng quý tộc, và nếu có
thứ gì tôi chẳng bao giờ tin, thì đó chính là ma cà rồng quý tộc. Tôi chỉ không
có xương gò má. Hơn nữa, trở thành một người Gothic nghĩa là bạn phải nghe nhạc
Gothic, cái này thì thật hết chịu nổi.
Vậy nên cuộc chạm trán chớp
nhoáng duy nhất của tôi với văn hóa thanh niên ít nhiều chỉ có thế. Tôi tin là
bạn sẽ nói rằng cảm nhận của cá nhân tôi về phong cách có thể được mô tả đúng
nhất là không trang trọng nhưng cổ điển. Tôi thích quần vải cotton xếp li hơn
quần denim, nhưng thích vải denim sậm màu hơn sáng màu. Áo bành tô phải nặng,
dài, và cổ áo bị sờn, khăn quàng cổ phải có núm tua nhỏ, màu đen hoặc đỏ tía,
và là thứ không thể thiếu từ đầu tháng Chín cho đến cuối tháng Năm. Giày chắc
chắn phải đế thấp và không quá nhọn đầu, và (điều này rất quan trọng) chỉ mang
giày màu đen hoặc màu nâu với quần jean.
Nhưng tôi cũng không sợ thử
nghiệm, đặc biệt là khi giờ đây tôi đang có cơ hội để làm mới chính mình. Vì
vậy với chiếc va li cũ của bố mẹ mở toang đặt trên giường, tôi xem lướt qua mấy
bộ quần áo mới mua dành riêng cho ngày đặc biệt này. Đầu tiên là áo gió dày,
một cái áo màu đen trông nặng nề, dày đến không tin nổi, hệt như một cái áo da
lừa. Tôi khá hài lòng với nó, và với sự pha trộn đầy ẩn ý giữa mỹ thuật và lao động
chân tay - “có chiếc áo Shelley này là đủ rồi, tôi khỏi mặc thêm cái gì bên
ngoài nữa”.
Tiếp theo là năm cái áo sơ mi
dài tay không cổ, với tông màu hòa phối của trắng và xanh dương, tôi mua với
giá 1 bảng 99 xu một cái trong chuyến đi chơi trong ngày đến phố Carnaby cùng
Tone và Spencer. Spencer ghét những cái áo này, nhưng tôi thì nghĩ chúng thật
tuyệt, đặc biệt khi phối với cái áo gi lê màu đen mà tôi đã mua với giá 3 bảng
ở gian đồ cũ của Hội Giúp đỡ Người Cao tuổi. Tôi đã giấu mẹ cái áo gi lê, không
phải vì bà có bất kỳ điều gì phản đối Hội Người Cao tuổi, mà bởi vì bà nghĩ
rằng đồ cũ thật là dung tục và chẳng khác gì nhặt đồ ăn trên sàn nhà. Cái mà
tôi đang hướng đến khi kết hợp áo gi lê/áo sơ mi dài tay không cổ/kính mắt gọng
tròn là hình tượng một sĩ quan trẻ tuổi bị suy nhược thần kinh bởi chiến tranh,
có tật nói lắp và một cuốn sổ tay đầy những thơ, anh ta được gửi về từ mặt
trận, nhưng đang hoàn thành nghĩa vụ của người công dân yêu nước bằng cách làm
việc tại một trang trại ở ngôi làng Gloucestershire xa xôi, ở đó anh ta bị
người dân địa phương đối xử với vẻ ngờ vực thô lỗ, nhưng lại được cô con gái
của mục sư, người đòi quyền bầu cử cho phụ nữ, ham đọc sách, xinh đẹp, một
người theo chủ nghĩa hòa bình, ăn chay và lưỡng tính thầm thương trộm nhớ. Đây
thực sự là một cái áo gi lê ra trò. Và ngoài ra, nó không phải đồ cũ, nó là đồ
cổ.
Tiếp theo là chiếc áo vét
nhung kẻ nâu của bố. Tôi trải áo trên giường và cẩn thận xếp cánh tay áo dọc
theo ngực. Có một vết ố nước trà nhỏ ở đằng trước từ cách đây hai năm, khi tôi
sai lầm mà mặc nó đến dự buổi khiêu vũ của trường. Tôi biết việc này bị coi là
hơi bệnh, nhưng tôi lại nghĩ đó là một cử chỉ đẹp, một kiểu bày tỏ lòng tôn
kính. Dù vậy thì đáng lẽ tôi cũng nên hỏi ý mẹ trước, bởi vì khi thấy tôi mặc
chiếc áo vét của bố đứng trước gương, bà đã la lên và ném cốc trà về phía tôi.
Cuối cùng khi nhận ra đó là tôi, bà liền òa khóc và nằm trên giường nức nở suốt
nửa tiếng đồng hồ, tôi phải nói để bạn biết đó là sự khuấy động ra trò trước
một bữa tiệc. Và khi bà bình tĩnh lại, tôi đi đến dự buổi khiêu vũ thật và đã
có cuộc trò chuyện sau đây với Janet Parks, tình-yêu-đời-tôi trong tuần đó.
TÔI: Janet, nhảy điệu chậm
nhé?
JANET PARKS: Bri này, áo vét
đẹp đấy.
TÔI: Cám ơn cậu!
JANET PARKS: Cậu lấy nó ở đâu
ra vậy?
TÔI: Đây là áo của bố tớ!
JANET PARKS: Nhưng không phải
bố cậu đã... mất rồi sao?
TÔI: Phải!
JANET PARKS: Vậy cậu đang mặc
cái áo vét của người bố quá cố à?
TÔI: Đúng vậy. Thế điệu nhảy
thì sao nhỉ?
... và đến lúc ấy thì Janet
đưa tay lên che miệng, lủi đi và bắt đầu chỉ trỏ thì thầm trong góc phòng với
Michelle Thomas và Sam Dobson, sau đó đi ve vãn Spencer Lewis. Không phải tôi
chịu một lời nguyền về cái áo hay gì đó đâu. Với lại, ở trường đại học, cái
tiểu sử này sẽ chẳng quan trọng. Không ai biết bất cứ điều gì về nó, ngoại trừ
tôi. Ở trường đại học, nó chỉ là một chiếc áo vét nhung kẻ đẹp. Tôi gấp áo lại
rồi để vào va li.
Mẹ bước vào, sau đó gõ cửa,
và tôi nhanh tay đóng va li lại. Bà trông như vừa khóc đủ rồi, không cần chiếc
áo vét của bố khơi gợi nỗi buồn thêm nữa. Sau cùng, bà đặc biệt xin nghỉ làm
sáng nay để có thể khóc.
“Sắp xong chưa con?”
“Gần xong rồi.”
“Con có muốn lấy cái chảo
chiên không?”
“Không, thiếu nó thì con vẫn
ổn mà mẹ.”
“Nhưng con sẽ ăn gì?”
“Mẹ biết rồi đấy, con sẽ ăn
nhiều thứ chứ đâu chỉ có khoai tây chiên!”
“Không, con sẽ không ăn được
món nào khác đâu.”
“À, có thể con sẽ bắt đầu ăn
như vậy. Dù sao thì cũng có khoai tây đút lò.” Tôi nhìn xem bà có cười hay
không.
“Con nên đi rồi nhỉ?” Tàu còn
lâu mới tới, nhưng mẹ nghĩ việc đón tàu cũng giống như du lịch nước ngoài bằng
đường hàng không vậy, tức là ta phải có mặt trước khi khởi hành bốn tiếng đồng
hồ để làm thủ tục. Không phải do chúng tôi từng đi máy bay hay gì khác, thế
nhưng, thật là kỳ lạ khi bà vẫn chưa khiến tôi bỏ ra đường kiếm việc.
“Nửa tiếng nữa con đi,” tôi
nói, và im lặng bao trùm. Mẹ muốn nói gì đó nhưng không sao thốt nên lời, chắc
là đại loại như bố tự hào về tôi, nhưng bà quyết định để dành những lời đó nói
sau, và quay lưng bỏ đi. Tôi ngồi lên va li để cố đóng nó lại, sau đó nằm dài
trên giường nhìn quanh phòng lần cuối - kiểu thời khắc mà, nếu hút được thuốc
thì tôi đã hút rồi.
Tôi không thể tin điều này
xảy ra thật. Đây là tuổi trưởng thành tự lập, cảm giác là như thế này đây.
Không có nghi lễ nào nhỉ? Ở một số bộ lạc châu Phi xa xôi buổi lễ kỷ niệm những
sự kiện quan trọng trong đời người thường kéo dài bốn ngày với những nghi thức
kỳ quái như xăm mình và dùng những chất gây ảo giác mạnh được chiết xuất từ
nhái, các bô lão trong bộ lạc thì trét máu khỉ khắp người ta, nhưng ở đây, nghi
thức chỉ gói gọn trong ba cái quần mới và chiếc chăn lông vịt của ta được nhồi
nhét vào một túi nhựa lót thùng rác.
Khi xuống lầu tôi thấy mẹ đã
gói một bọc đồ to tướng, hai hộp bằng vải lớn chứa hầu hết các vật dụng trong
nhà cho tôi. Đảm bảo là có cái chảo chiên ở đó, được vùi khéo léo trong đống
vật dụng nấu nướng, cái lò nướng tôi thó được từ Ashworth Electricals, một cái
ấm, cuốn sách Bữa ăn tuyệt vời với Mince, và một rổ đựng bánh mì với sáu ổ bánh
nhỏ dẹt rắc bột và một ổ Mighty White. Thậm chí có cả bàn bào phô mai, mà bà
biết rõ tôi không ăn phô mai. “Mẹ ơi, con không thể vác nguyên đống đồ này theo
được,” tôi nói, và vì vậy những giây phút cuối cảm động và là biểu tượng cho
thời niên thiếu của cuộc đời tôi được dành để cãi cọ với mẹ về việc tôi có cần
đồ đánh trứng hay không - phải, sẽ có một cái vỉ nướng bánh mì nữa, phải, tôi
thật sự cần máy nghe nhạc và cặp loa - và khi cuộc thương lượng cuối cùng cũng
ngã ngũ thì hai mẹ con đã giảm tải xuống còn một va li, một ba lô đựng mấy đồ nghe
nhạc và sách vở, hai túi nhựa đen lót thùng rác đựng chiếc chăn lông vịt và
gối, đồng thời, mẹ kiên quyết bắt đem theo một đống khăn lau bát đĩa.
Cuối cùng đã đến giờ. Tôi hết
sức kiên quyết không cho mẹ tiễn ra ga bởi vì đi một mình thì trông sẽ có vẻ
mạnh mẽ và có phong cách hơn. Tôi đứng ở bậc cửa trong khi bà lấy ví ra, từ tốn
nhét một tờ bạc 10 bảng gấp rất nhỏ vào tay tôi, trông như một viên hồng ngọc.
“Mẹ...”
“Không sao, cầm lấy đi.”
“Con sẽ ổn mà, thật đấy...”
“Con đi nhé. Nhớ giữ gìn sức
khỏe...”
“Con...”
“Thỉnh thoảng cố ăn ít hoa
quả tươi...”
“Con sẽ cố...”
“Còn nữa...” Đến rồi đây. Bà
nuốt nước mắt nói, “... con biết là bố sẽ rất tự hào về con, đúng không?” Tôi
vội hôn lên đôi môi khô đang mím lại của mẹ rồi chạy, từng quãng ngắn, cật lực,
ra ga.
***
Trên tàu tôi nhét tai nghe
vào và nghe cuốn băng tuyển tập chọn lọc đặc biệt của mình, những bài hát được
yêu thích mọi thời đại của Kate Bush. Đó là một tuyển tập khá hay, nhưng nhà
tôi không có dàn âm thanh hifi thích hợp, vì vậy bạn có thể nghe tiếng mẹ nói
vọng lên lầu bảo rằng miếng sườn đã chín già nửa trong âm thanh của bài “Người
đàn ông với hình ảnh đứa bé trong đôi mắt”.
Tôi trịnh trọng mở quyển thơ
Nữ hoàng Faerie mới cứng của thi sĩ Spencer ra, chúng tôi sẽ phải học quyển này
trong học kỳ đầu tiên. Tôi thích nghĩ rằng mình là một độc giả khá chân chính,
đầu óc cởi mở và đủ tính tốt khác, nhưng những vần thơ này thì hình như chẳng
có ý nghĩa gì cả, vì vậy tôi bỏ cuốn Nữ hoàng Faerie xuống sau mười tám dòng
đầu tiên, và thay vào đó tập trung nghe Kate Bush hát, đồng thời ngắm cảnh thôn
quê nước Anh thoáng vụt qua, rồi tạo cái dáng vẻ trầm ngâm, phức tạp và thú vị.
Tôi có một ô cửa sổ to, bốn chỗ ngồi và một cái bàn riêng, một lon Coca và
Twix, và với tôi bây giờ thì điều duy nhất có thể làm cho cuộc sống tươi đẹp
hơn là có một cô gái hấp dẫn bước vào, ngồi đối mặt với tôi và nói gì đó kiểu
như...
“Xin lỗi, mình để ý thấy cậu
đang đọc cuốn Nữ hoàng Faerie. Có khi nào cậu đang tình cờ trên đường đến khoa
Ngữ Văn ở đại học không nhỉ?”
“Ừ, đúng rồi đấy!” tôi trả
lời.
“Thật tuyệt vời! Cậu không
phiền nếu mình ngồi đây chứ? Nhân tiện, mình là Emily. Nói mình nghe nào, cậu
có thường nghe nhạc của Kate Bush không...?”
Thế rồi cuộc trò chuyện giữa
chúng tôi diễn ra rất tinh tế và lịch sự và hài hước, rồi có một luồng điện vô
hình xẹt ngang làm trỗi dậy những ham muốn nhục dục giữa hai đứa, thế là lúc
ghé trạm Emily liền ngả người qua bàn, e lệ cắn làn môi dưới đầy đặn, và nói,
“Brian này, tớ hầu như không biết gì về cậu, và trước đây tớ cũng chưa bao giờ
nói điều này với người đàn ông nào, nhưng chúng mình có thể đi đến... khách sạn
hay chỗ nào đó được không? Chỉ là tớ không biết liệu có thể cưỡng lại nó lâu
hơn được không,” và tôi bèn chấp nhận với một nụ cười mệt mỏi, như thể muốn nói,
“Tại sao chuyện này cứ phải xảy ra mỗi lần mình lên tàu thế nhỉ,” và dắt tay cô
ấy vào khách sạn gần nhất...
À mà khoan. Đầu tiên, tôi
phải làm gì với đống hành lý của mình nhỉ? Tôi không thể xuất hiện ở khách sạn
với hai cái túi nhựa lót thùng rác đúng không? Và rồi còn tiền phòng nữa. Số
tiền kiếm được từ việc làm thêm mùa hè của tôi đã bị tiêu sạch vào tiền phòng
trọ rồi, tấm séc trợ cấp thì tận tuần sau mới đến tay, và mặc dù trước giờ chưa
ở khách sạn lần nào, tôi biết tiền phòng sẽ không rẻ - dễ phải bốn mươi, năm mươi
bảng gì đấy - và hãy đối mặt với chuyện đó, toàn bộ chuyện đó sẽ kéo dài, xem
nào, mười phút nếu tôi may mắn, cùng lắm là mười lăm phút, mà tôi thì không hề
muốn trải qua giây phút chìm đắm trong nhục dục ngây ngất mà phải đồng thời lăn
tăn về vụ tiền nong. Tôi cho là Emily có thể sẽ đề nghị chia đôi tiền phòng,
nhưng tôi sẽ phải từ chối thôi, không cô ấy lại nghĩ tôi đúng là đồ giẻ rách.
Còn giả sử cô ấy cứ khăng khăng đòi trả tiền và tôi đồng ý, cô ấy vẫn sẽ phải
đưa ra tiền mặt, mà cho dù chúng tôi làm việc đó trước hay sau khi làm tình, nó
chắc chắn cũng sẽ khiến cho cuộc gặp gỡ bớt đi một chút phiền muộn sầu não và
cả sự ngọt ngào. Liệu cô ấy có nghĩ tôi là thằng không bình thường nếu tôi ở
lại sau đó để tận dụng hết các tiện nghi tuyệt nhất của khách sạn không nhỉ?
“Emily yêu quý, cuộc mây mưa của chúng mình thật tuyệt vời và thấm thía lạ
lùng. Bây giờ cậu lấy giúp mình cái khăn tắm ở ba lô được không?” Hơn nữa, nhảy
thẳng lên giường với một cô gái sắp học chung trường có thật là một ý tưởng hay
ho không? Chuyện gì xảy ra nếu tình trạng căng thẳng tình dục giữa chúng tôi
cản lối con đường học hành của hai đứa? Thực tế thì, có lẽ đó không phải là một
ý tưởng hay. Có khi tôi nên chờ đợi để hiểu rõ Emily hơn một chút trước khi cả
hai tiến tới mối quan hệ thể xác.
Và đúng lúc xe lửa vào ga,
tôi thật sự cảm thấy nhẹ nhõm vì Emily chỉ là một hình ảnh trong tưởng tượng
của tôi mà thôi.
Tôi kéo mấy cái túi nhựa và
hành lý ra khỏi ga tàu nằm trên một quả đồi nhìn xuống được toàn thành phố. Đây
mới là lần thứ hai tôi đến đây sau buổi phỏng vấn, và cũng không tệ, dù không
phải trường Oxford hay Cambridge, nhưng đây là trường đại học tốt thứ nhì. Điều
quan trọng là nó có tháp hình chóp. Một kiểu mơ mộng.