Khoảng trống - Phần I - Chương 01 phần 1 - 2

Phần một

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

6.11
Ghế khuyết ngoài dự kiến xuất hiện tính từ khi:

(a)
ủy viên hội đồng không thể tuyên bố nhậm chức trong thời hạn hợp lý, hoặc

(b)
hội đồng nhận được đơn từ chức của ủy viên; hoặc

(c)
ủy viên hội đồng qua đời

Charles
Arnold Baker

Điều lệ Ban quản trị hội đồng địa phương

In lần thứ Bảy

CHỦ NHẬT

Barry Fairbrother thật ra không
muốn ra ngoài ăn tối chút nào. Cơn nhức đầu bám riết ông suốt kỳ nghỉ cuối
tuần, đã thế, ông còn phải đua với hạn nộp bài cho tòa soạn.

Nhưng vợ ông suốt bữa trưa đã
không thèm nói năng gì, hẳn tấm thiệp mừng kỉ niệm ngày cưới thôi thì không đủ
bù đắp chuyện im ỉm khóa cửa làm việc suốt sáng. Đã thế bài ông đang viết lại
về Krystal, Mary chẳng ưa gì con bé dù đã khéo giấu.

- Mary này, ta ra ngoài ăn tối
nhé. - Ông vờ hào hứng để xua tan không khí lạnh lẽo. - Thế mà đã mười chín năm
rồi đấy, các con! Mười chín năm đấy nhé, mẹ các con bây giờ vẫn tươi tắn như
hoa!

Thấy vợ đã dịu đi và chịu mỉm
cười, ông liền gọi điện thoại cho câu lạc bộ golf đặt bàn vì chỗ này gần và thể
nào họ cũng được dành chỗ. Ông gắng tạo cho vợ những niềm vui nho nhỏ như thế
vì dần nhận ra suốt hai mươi năm qua ông đã khiến bà thất vọng trong biết bao
nhiêu chuyện lớn khác. Tất nhiên không lần nào là do ông cố ý cả. Đơn giản là
họ bất đồng về chuyện nên dành thời gian cho những ưu tiên nào trong đời.

Bốn đứa con cũng đã khá lớn nên
không cần thuê người trông trẻ. Khi ông chào tạm biệt, bọn chúng vẫn đang dán
mắt vào tivi, chỉ có đứa bé nhất ngoái đầu giơ tay vẫy chào lại.

Cơn nhức đầu vẫn dội từng cơn
thùm thụp khi Barry de xe rồi lái xuyên qua thị trấn Pagford nhỏ bé xinh đẹp,
hai vợ chồng đã dọn về đây ngay sau đám cưới. Họ xuôi xuống Church Row, con phố
dốc thoải, hai bên sừng sững những dinh thự xa hoa kiểu Victoria đắt đỏ bậc
nhất khu này, vòng qua góc đường có ngôi nhà thờ xây theo kiến trúc Gôtíc Phục
Hưng, ông từng vào xem hai cô con gái sinh đôi diễn vở Joseph và chiếc áo
choàng muôn màu kỳ diệu trong đó. Họ tiếp tục băng ngang quảng trường, từ đó
thấy rõ được bộ khung đổ nát của tòa tu viện cũ vạch bóng đen sẫm trên nền trời
tím than, che khuất cả đường chân trời.

Vừa đánh tay lái rẽ theo các
khúc cua quen thuộc, Barry vừa nghĩ đến mấy lỗi sai không tránh khỏi lúc vội
vội vàng vàng viết cho xong rồi email bài báo cho tờ Yarvil và District
Gazette. Bình thường ông là người hoạt khẩu và cuốn hút, nhưng thể hiện thế
mạnh đó trong bài viết thật chẳng dễ chút nào.

Cách quảng trường bốn phút chạy
xe, câu lạc bộ golf chỉ quá khỏi mấy căn nhà gỗ cũ kĩ một chút, thị trấn chạy
dài ra tới đó thì đuối dần rồi chấm dứt. Barry đậu xe ngoài nhà hàng Burdie của
câu lạc bộ rồi nán lại giây lát cho vợ dặm lại son môi. Làn gió đêm mát mẻ ve
vuốt mặt ông một cách dễ chịu. Ông nhìn đường golf nhòe dần trong bóng hoàng
hôn, tự hỏi sao mình vẫn cứ giữ chân hội viên ở chỗ này làm gì. Ông vốn chơi
golf dở tệ, cú swing chuệnh choạng còn điểm chấp thì cao. Khi chơi cũng chẳng
bao giờ được yên vì điện thoại liên tục réo. Cơn đau đầu của ông trở nên nhức
nhối hơn bao giờ hết.

Mary tắt đèn cạnh gương trên xe
rồi sập cửa. Barry bấm nút khóa tự động trên chìa; đôi giày cao gót của bà vợ
gõ lóc cóc trên mặt đường, hệ thống khóa xe kêu bíp, ông thấy buồn nôn và tự
hỏi không biết cảm giác này có dịu bớt đi khi dùng bữa không.

Cơn đau xé chưa từng thấy chợt
xoáy vào não ông như dùi. Ông thậm chí không cảm thấy đau khi đầu gối quỵ xuống
đập vào mặt đường lạnh lẽo; sọ ông như ngập trong máu và lửa nóng rừng rực; cơn
tra tấn thật quá sức, nhưng ông vẫn phải quằn quại chịu đựng cả phút trước khi
rơi vào hư vô.

Mary rú lên. Vài người đàn ông
ở trong bar chạy lại. Một người chạy vội vào tòa nhà thử tìm mấy vị bác sĩ đã
nghỉ hưu của câu lạc bộ. Một cặp vợ chồng có biết nhà Barry nghe động vội bỏ
món khai vị đang dùng dở trong nhà hàng chạy ra giúp một tay. Ông chồng rút di
động gọi 999.

Xe cấp cứu nằm tận bên thành
phố Yarvil, như vậy phải mất hai mươi lăm phút mới tới được. Đến khi ngọn đèn
xanh chớp tắt hiện ra thì Barry đã nằm dài bất động trên đất, trên đống nôn mửa
của chính mình; Mary phục bên cạnh, quần tất rách toạc chỗ đầu gối, vừa nắm
chặt tay chồng vừa nức nở khóc gọi.

THỨ HAI

I

- Bố gắng mà trấn tĩnh nhé! -
Miles Mollison nói trước, anh đang đứng trong gian bếp của một trong những dinh
thự hoành tráng trên phố Church Row.

Miles đã định đợi đến sáu rưỡi
sáng mới gọi. Đêm qua ngủ nghê thật chẳng ra làm sao, anh thức chong chong, thi
thoảng mới chợp đi được một giấc ngắn mệt mỏi. Lúc bốn giờ, anh thấy vợ cũng đã
tỉnh, hai người thì thầm nói chuyện với nhau trong bóng tối một lúc. Dù còn sốc
và sợ hãi khi nhắc tới vụ tai nạn phải chứng kiến bất đắc dĩ ấy, Miles vẫn cứ
ngứa ngáy sốt ruột muốn báo ngay tin này cho ông bố. Lúc đầu anh định ráng đợi
đến bảy giờ, nhưng lại e có người hớt trước nên gọi luôn.

- Có chuyện gì? - Howard hỏi,
giọng lão trầm vang, pha chút kim. Miles bật loa ngoài cho cô vợ Samantha cùng
nghe. Chiếc áo ngủ màu hồng nhạt của cô dính mấy vệt nâu, cô đang tranh thủ bữa
dậy sớm bôi một vốc đầy kem nhuộm rám nắng lên làn da đã bợt đi. Căn bếp nồng
mùi café tan và dầu dừa tổng hợp.

- Fairbrother chết rồi. Gục ở
câu lạc bộ golf tối qua. Lúc đó con với Sam đang ăn tối ở nhà hàng Birdie.

- Cái gì, Fairbrother chết rồi
hả? - Lão Howard rống lên.

Rõ ràng là lão luôn mong làm
một cú ngoạn mục lật nhào địa vị của Barry Fairbrother, nhưng không ngờ đến cái
chết này.

- Gục ngay bãi xe. - Miles lặp
lại.

- Trời đất. Tay ấy mới quá bốn
chục tuổi, phải không? Quỷ thần ơi.

Miles và Samantha nghe tiếng
lão Howard thở phì phò như ngựa trong ống nghe. Lão hay bị khó thở vào buổi
sáng.

- Mà sao thế? Do tim à?

- Hình như não có vấn đề, mấy
bác sĩ bảo thế. Tụi con đi cùng bà Mary tới bệnh viện, rồi...

Nhưng lão Howard không nghe
tiếp. Miles và Samantha nghe tiếng lão văng vẳng từ ống nghe.

- Barry Fairbrother! Chết rồi!
Thằng Miles gọi báo!

Miles cùng Samantha nhấp café,
chờ lão Howard quay lại. Áo ngủ của Samantha trễ bung khi cô ngồi bên bàn bếp,
để lộ đường cong của bộ ngực phì nhiêu đang tì lên cánh tay. Ở tư thế bị ép lại
như vậy, đôi vú trông có vẻ phồng căng và mịn màng hơn khi đong đưa không áo
ngực. Phần da phía trên vú trông như da thuộc hằn mấy đường nhăn li ti không
mất đi ngay cả khi không tì ngực như thế nữa. Lúc trước cô đã tắm nắng quá
nhiều.

- Sao? - Howard lại cầm máy
lên. - Con nói vụ bệnh viện thế nào?

- Con với Sam đi theo xe cấp
cứu. - Miles đáp rõ ràng. - Hộ tống bà Mary và cái xác.

Samantha để ý khi kể lại lần
này, Miles nhấn mạnh vào khía cạnh có thể xem là “hút khách” hơn trong vụ tai
nạn đó. Cô không trách anh. Chuyện vừa xảy ra đâu có dễ chịu gì, thế nên một
khi đã gắng trải qua được thì họ có quyền kể cho người khác chứ. Chắc mình
chẳng thể nào quên được cảnh tượng ấy, cô nghĩ, Mary thì kêu khóc, mắt Barry
hãy còn mở he hé trên gương mặt bị chụp ống thở như đeo rọ mõm; cô và Miles
gắng nhét vào đầu lời giải thích của nhân viên cấp cứu; lòng xe chật chội xóc
nảy; những cửa sổ xe tối đen; nỗi kinh hoàng bao phủ.

- Trời đất ơi! - Hovvard lại
rên lên lần thứ ba, mặc kệ bà Shirley đang khẽ hỏi gì đó phía sau, lão chỉ tập
trung nghe Miles. - Ông ta cứ thế là gục xuống bãi xe mà chết hả?

- Vâng. - Miles đáp. - Con vừa
nhìn thấy ông ta là đã biết hết đường cứu rồi.

Anh nói dối, tránh nhìn vợ khi
nói câu này. Cô hãy còn nhớ cảnh anh vòng cánh tay rộng ôm lấy đôi vai run rẩy
của Mary an ủi: Ông ấy không sao đâu... ông ấy sẽ ổn thôi...

Nhưng dù sao đi nữa, Samantha
nhân nhượng nghĩ, muốn tỏ ra công bằng với Miles, làm sao biết được chuyện gì
xảy ra khi mà người ta chụp mặt nạ cho ông ấy, lại còn tiêm mấy mũi nữa? Khi đó
dường như họ đang gắng cứu Barry, và chẳng ai biết chắc mọi chuyện là vô vọng
trước khi cô bác sĩ trẻ bước lại chỗ bà Mary đang đợi trong bệnh viện. Lạ lùng
là Samantha hãy còn nhớ rõ mồn một mọi thứ, gương mặt chết điếng, trôi sạch
phấn son của Mary, vẻ điềm tĩnh pha chút thận trọng của cô bác sĩ trẻ tuổi đeo
kính, tóc chải mượt, mặc chiếc áo choàng trắng... Cảnh giống như trong mấy phim
truyền hình dài tập kinh điển, chỉ khác rằng đây là sự thật...

- Không có dấu hiệu gì cả. -
Miles đang nói tiếp. - Mới thứ Năm vừa rồi Gavin còn chơi bóng quần với ông ấy
mà.

- Lúc đó ổng có vẻ vẫn bình
thường hả?

- Vâng. Còn thắng cả Gavin.

- Trời đất ơi. Đúng là chuyện
gì cũng có thể xảy ra. Chờ đã, mẹ con muốn nói vài câu này.

Nghe lách cách một lúc, rồi
giọng dịu dàng của bà Shirley vang lên trong ống nghe.

- Thật khủng khiếp quá, Miles
ạ. Con không sao chứ?

Samantha hớp một hớp to café,
vụng về để café tràn qua khóe miệng xuống cằm bèn lấy luôn ống tay áo quệt
miệng và ngực. Miles liền chuyển sang giọng anh thường dùng khi nói với mẹ:
trầm hơn, kiểu không-có-gì-làm-con-cuống, đầy sức thuyết phục và lý lẽ. Đôi
khi, nhất là lúc say, Samantha nhại kiểu Miles nói chuyện với mẹ “Mẹ đừng lo
gì. Có con ở đây. Chàng lính nhỏ của mẹ đây.” “Con trai tuyệt vời của mẹ ơi,
con mới to khỏe, dũng cảm thông minh làm sao chứ.” Sau này, có một hai lần
Samantha còn diễn trò này trước người khác khiến Miles vừa bực vừa ngại, nhưng
vẫn phải vờ cười phá lên. Lần trước họ đã cãi nhau một trận tơi bời trên đường
lái xe về nhà cũng vì thế.

- Con đi cùng cô ấy suốt quãng
đường đến bệnh viện à? - Bà Shirley hỏi.

Chẳng tự nguyện gì đâu. -
Samantha nghĩ, tới nửa đường thì hai đứa đều chịu hết nổi, chỉ mong mau cho
thoát nợ.

- Ít nhất con cũng phải làm thế
chứ mẹ. Chỉ tiếc là không giúp được nhiều hơn.

Samantha đứng dậy ra chỗ lò
nướng bánh mì.

- Hẳn là Mary mang ơn con lắm.
- Shirley nói. Samantha mở túi bánh mì, lấy ra bốn lát nhét vào khe nướng.
Giọng Miles đã trở nên tự nhiên hơn.

- Vâng, lúc các bác sĩ kể, ý
con là khẳng định rằng ông ấy chết hẳn, Mary muốn gọi Colin và Tessa Wall lên.
Sam gọi cho vợ chồng nhà ấy, chúng con đợi họ lên tới nơi rồi mới về.

- Ồ, may cho Mary là có tụi con
ở đó. - Shirley nói. - Bố muốn nói chuyện tiếp này Miles. Mẹ đưa máy cho bố
nhé. Nói chuyện sau nhé.

- Nói chuyện sau nhé! -
Samantha lắc lắc đầu, dài giọng nhại từ chỗ đặt ấm nước. Sau một đêm mất ngủ,
cặp mắt màu hạt dẻ của cô hằn tia đỏ, và trò giễu nhại càng khó chịu hơn. Trong
lúc lật đật dỏng tai nghe Howard nói gì, cô vô ý làm rơi kem nhuộm rám da vào
vành bếp.

- Hay là tối nay con với Sam
ghé đây đi. - Lão Howard lại oang oang. - Khoan, chờ tí, mẹ con nhắc tối nay có
hẹn chơi bài với nhà Bulgens. Vậy mai nhé. Đến ăn cơm. Khoảng bảy giờ.

- Con chưa biết nữa. - Miles
đáp, liếc mắc nhìn Samantha. - Để con hỏi xem Sam có bận gì không.

Nhưng cô không hề tỏ ý muốn đi
hay không. Không khí trong bếp có vẻ nhẹ hẳn đi sau khi Miles gác máy.

- Bố mẹ bất ngờ lắm. - Miles
nói, như thể nãy giờ vợ anh chẳng nghe thấy gì.

Họ im lặng ăn bánh mì nướng,
uống café mới pha. Trong khi ăn, tâm trạng Samantha có khá hơn. Cô nhớ lúc sáng
sớm, khi giật mình thức dậy trong phòng ngủ tối đen, mình đã mừng và nhẹ nhõm
thế nào khi cảm thấy Miles nằm cạnh, cao lớn, bụng to, người thoảng mùi cỏ
vetiver và mùi mồ hôi đọng. Rồi cô tưởng tượng cảnh mình sẽ kể cho khách hàng
trong tiệm nghe chuyện có người quỵ xuống chết ngay trước mặt thế nào, và mình
đã tử tế đi theo đến bệnh viện ra sao. Cô nghĩ cách làm sao thêm mắm dặm muối
cho chuyến đi đó và đoạn cao trào là lúc gặp bác sĩ. Vẻ trẻ trung của người phụ
nữ điềm đạm đó dường như làm cho tin xấu càng khó chấp nhận hơn. Đáng ra họ
phải giao nhiệm vụ báo tin cho bác sĩ nào đứng tuổi hơn chứ. Thế rồi, khi đã
vui vẻ hơn lên, cô nhớ ra ngày mai mình có hẹn với đại diện bán hàng khu vực
Champêtre, cô và tay này đã tán tỉnh nhau tí đỉnh khá vui trên điện thoại.

- Anh phải đi thôi. - Miles
nói, uống cạn cốc café, liếc mắt nhìn màu trời sáng rõ ngoài cửa sổ. Anh thở
dài, vỗ vai vợ khi đem bỏ cốc đĩa bẩn vào máy rửa bát.

- Lạy chúa, thế nhưng vụ này
cũng làm mọi chuyện đâm ra đúng kế hoạch, phải không?

Miles lắc lắc mái tóc xám cắt
sát, bỏ ra khỏi bếp.

Đôi khi Samantha thấy Miles
thật lố bịch, thậm chí là đần độn. Nhưng cũng có lúc cô thích vẻ phô trương của
anh, nhất là trong mấy dịp long trọng. Dù sao thì sáng nay cũng nên ra vẻ trang
nghiêm đạo mạo một chút. Cô ăn nốt bánh mì, dọn dẹp bữa sáng rồi tập trung nghĩ
làm sao kể lại chuyện này cho hay ho với tay trợ lý.

II

- Barry Fairbrother chết rồi. -
Ruth Price hào hển thông báo.

Cô đi như chạy qua lối mòn lạnh
lẽo trong vườn để kịp gặp chồng vài phút trước khi anh ta đi làm. Không kịp
dừng lại để cởi áo choàng, cô mang nguyên khăn quàng găng tay lao vào nhà bếp,
chỗ Simon và hai cậu con trai tuổi teen đang ăn sáng.

Ông chồng sững sờ, chậm rãi bỏ
xuống miếng bánh mì nướng chưa kịp đưa tới miệng. Hai cậu con trai đã sẵn sàng
trong bộ đồng phục đi học không mấy quan tâm, hết nhìn bố lại nhìn mẹ.

- Các bác sĩ nói có lẽ là chứng
phình mạch. - Ruth vừa nói vừa rút găng, tháo khăn và cởi nút áo khoác, hơi thở
hãy còn hơi gấp gáp. Cô thuộc tạng người gầy gò xám xịt, cặp mắt ủ rũ hùm hụp,
bộ đồng phục y tá màu xanh cứng nhắc khá hợp với cô. - Ông ta gục xuống câu lạc
bộ golf, Sam và Miles Mollison đưa ông ấy vào viện, rồi sau Colin với Tessa
Wall cũng vào...

Cô đi vội ra hiên treo đồ đạc
lên rồi quay vào kịp đáp lời Simon vừa quát hỏi:

- Cái gì mà bình mạch?

- Phình, phình mạch. Nghĩa là
động mạch chính trong não vỡ ra.

Cô lướt lại chỗ đặt ấm nước,
bật lên, rồi vừa quét vụn bánh mì nướng rơi vãi quanh lò vừa nói không ngừng.

- Ông ấy xuất huyết não ghê
lắm. Bà vợ ông ấy, tội ơi là tội, bà ấy suy sụp hẳn...

Đột nhiên bị xúc động, Ruth
nhìn qua cửa sổ nhà bếp, bãi cỏ bị sương giá đóng cứng trắng xóa, bên kia thung
lũng là tu viện ảm đạm in bộ khung trơ trụi lên nền trời xám ánh hồng, tầm nhìn
bao quát khắp thị trấn chính là niềm tự hào lớn nhất của Nhà Trên Đồi. Thị trấn
Pagford về đêm chỉ thấy vài đốm sáng lấp lánh trong thung lũng sâu đen kịt, giờ
ló dạng trong ánh bình minh lạnh lẽo. Ruth ngó ra ngoài nhưng không thấy gì cả:
cô còn mãi mường tượng cảnh ở bệnh viện, khi Mary ra khỏi phòng đặt xác Bary,
mọi thiết bị hồi sinh gắn vào người ông đều bị tháo bỏ. Ruth Price thường cảm thấy
thương cảm mạnh mẽ và chân thành nhất với những người mà cô nhận thấy giống
mình. “Không, không, không”, Mary rên rỉ, kiểu phủ nhận đầy bản năng ấy dội
đúng vào lòng Ruth, vì cô thoáng nhận ra chính mình trong hoàn cảnh hệt như
thế...

Không chịu nổi ý nghĩ ấy, cô
quay sang nhìn Simon. Mái tóc nâu sáng của anh ta vẫn còn khá dày, vóc dáng hầu
như vẫn dẻo dai như thuở hai mươi, còn những nếp nhăn nơi khóe mắt chỉ khiến
Simon trông hấp dẫn thêm. Nhưng khi trở lại nghề y tá sau một thời gian dài
gián đoạn, Ruth đã chứng kiến cả triệu cách mà cơ thể con người đi dần tới
ngưỡng hư hoại. Hồi trẻ, cô ít chú ý hơn, giờ mới cảm nhận rõ con người ta hãy
còn sống tới giờ là chuyện kỳ diệu đến thế nào.

- Họ không làm gì cho ông ấy à?
- Simon hỏi. - Nút cái lỗ ấy lại không được sao?

Giọng anh ta có vẻ cáu kỉnh,
như thể giới y khoa lại phạm lỗi cẩu thả trong nghề và từ chối chữa chạy một ca
đơn giản rõ ràng như thế.

Andrew rùng mình trong cơn
khoái trá cuồng nộ. Dạo này nó phát hiện ra cứ mỗi khi mẹ dùng thuật ngữ y học
nào đó là ông bố liền dùng lời thô lỗ đập lại. Xuất huyết não ồ ạt. Nút cái lỗ.
Mẹ nó không nhận ra ông bố có ý gì. Bà chưa khi nào nhận ra cả. Andrew nhai món
ngũ cốc điểm tâm, chiêu nó xuống với lòng căm ghét sôi sục.

- Lúc ông ấy được đưa đến bệnh
viện thì đã quá trễ rồi. - Ruth đáp, nhúng mấy túi trà vào bình. - Ông ấy chết
trên xe cứu thương, ngay trước khi đến được bệnh viện.

- Chết tiệt thật! - Simon hầm
hừ. - Ông ta bao nhiêu tuổi rồi, bốn mươi hả?

Nhưng Ruth đã nhãng đi vì
chuyện khác.

- Kìa Paul, tóc gáy con rối bù
kia kìa. Con có chải đầu không đấy?

Cô rút trong túi xách ra cái
lược, ấn vào tay cậu con nhỏ.

- Không có dấu hiệu gì trước đó
à? - Simon hỏi trong khi Paul xọc cây lược vào mớ tóc dày.

- Vài ngày trước ông ấy bị đau
đầu nặng lắm, dấu hiệu quá rõ còn gì.

- À. - Simon vừa nói vừa nhai
bánh mì. - Thế mà ông ta cứ để kệ thế à?

- À, vâng, ông ấy không hề ngờ
tới chuyện này.

Simon nuốt miếng bánh trong
miệng xuống.

- Đấy, thấy chưa? - Simon vênh
vang bảo. - Phải biết tự coi sóc bản thân chứ.

Thông minh ghê nhỉ. - Andrew
điên giận nghĩ; nghe mới sâu sắc làm sao. Thế nghĩa là Barry Fairbrother bị vỡ
tung não hoàn toàn do lỗi của ông ấy đấy. Đồ khốn kiếp tự mãn, Andrew quát thầm
trong đầu.

Simon trỏ con dao vào cậu con
lớn: - À, nhân thể nói luôn. Nó phải đi mà tìm việc đi. Cái thằng Mặt Pizza kia
kìa.

Ruth giật mình ngoảnh lại nhìn
hai bố con. Mấy nốt mụn trên gò má đỏ tía của Andrew tím lại, lồ lộ bóng loáng
khi nó chúi xuống bát bột ngũ cốc màu nâu nhạt của mình.

- Đúng thế. - Simon nói. - thằng
nhãi lười biếng này phải học cách cày tiền đi là vừa. Nếu nó muốn hút thuốc thì
cứ tự lấy lương mà mua. Không có tiền tiêu vặt gì nữa sất.

- Andrevw. - Ruth rền rĩ. -
chẳng lẽ con..?

- Đúng thế đấy. Tôi bắt gặp nó
hút trong kho củi. - Giọng Simon đầy vẻ ác ý.

- Kìa Andrew!

- Đừng hòng xin tiền nữa. Mày
thèm khói thì tự đi mà mua. - Simon bảo.

- Nhưng mà anh, - Ruth thút
thít nói. - mình đã thỏa thuận là con nó đang sắp phải thi...

- Xem cái kiểu nó chơi bời như
thế thì qua môn nào ăn may môn đấy thôi. Thế thì đi làm cho McDonald sớm đi,
cho nó quen. - Simon vừa nói vừa đứng dậy xô ghế ra, khoái trá trước ánh nhìn
của Andrew, mặt lộ vẻ độc địa. - Vì chẳng ai nuôi mày thi lại đâu con ạ. Đậu
hoặc chấm hết.

- Nói gì thế anh Simon. - Ruth
khẽ trách.

- Sao hả?

Simon sầm sầm xông về phía bà
vợ. Ruth co rúm người dựa vào bồn rửa. Chiếc lược nhựa màu hồng tuột khỏi tay
thằng Paul.

- Tôi không muốn dung dưỡng cái
thói đó của thằng đần này! Cái thói láo lếu của nó, ai cho nó thở khói phì phì
trong kho củi của tôi!

Khi nói tới “của tôi” Simon đập
tay vào ngực đánh thịch khiến Ruth phải nhăn mặt.

- Tôi mang tiền về nhà từ hồi
mới là thằng nhãi con. Nếu nó muốn hút thì cứ việc tự kiếm mà trả, nghe chưa?
Nghe rõ chưa?

Anh ta dí sát vào mặt Ruth.

- Vâng, Simon. - Cô lí nhí đáp.

Bát ngũ cốc của Andrew dường
như đã chảy thành nước. Nó mới tự thề với chính mình cách đây chưa đầy mười
ngày, lẽ nào thời điểm đó lại tới sớm thế? Nhưng Simon đã bước khỏi nhà bếp ra
phía hiên. Ruth, Andrew lẫn Paul vẫn bất động, như thể họ đã ngầm hứa không
nhúc nhích khi ông bố đi khỏi.

- Cô có nhớ đổ xăng không đấy
hả? - Simon gào lên, cứ mỗi lần cô lấy xe đi làm ca đêm là anh ta lại hỏi thế.

- Có đấy! - Ruth gọi với ra, cố
gắng làm cho câu đáp có vẻ bình thường vui vẻ.

Cánh cửa trước kêu lách cách
rồi dập đánh sầm.

Ruth lăng xăng với bình trà,
chờ không khí căng thẳng trong phòng dịu bớt. Mãi tới lúc Andrew sắp đi đánh
răng, cô mới bảo:

- Chỉ vì bố lo cho con đấy
thôi, Andrew. Lo cho sức khỏe của con.

Khốn nạn, hắn ta như cứt thì
có.

Andrew lôi cả đống ngôn từ thô
tục đấu với ông bố Simon trong trận chiến tưởng tượng. Ít ra trong óc nó thì
hai cha con có thể chơi một trận công bằng.

Rồi nó nói to đáp lời mẹ:
“Vâng. Con biết.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3