Cô phương bất tự thưởng (Tập 1) - Chương 21 - Phần 1
Chương 21
Tháng Mười Một, Bắc Mạc
đón trận tuyết lớn đầu tiên trong năm.
Thượng tướng quân Tắc Doãn
vào cung, xin Bắc Mạc vương cho mình được từ quan.
“Sao lại đường đột như
vậy?” Bắc Mạc vương không còn lòng dạ thưởng tuyết, quay phắt sang nhìn Tắc
Doãn vẻ kinh ngạc.
Tắc Doãn nói: “Biên cương
đã sạch bóng thù, Tắc Doãn cũng nên thực hiện lời hứa với Dương Phượng.”
“Không còn can dự chinh
chiến, cùng ái thê ngắm cảnh non xanh nước biếc, sống một đời thư thái, đúng
không? Quân tử nhất ngôn.” Bắc Mạc vương im lặng quay đi, lát sau mới nói: “Dương Phượng vẫn canh cánh trong lòng
việc hai vương tử Đông Lâm bị hại sao?”
Tắc Doãn thở dài, trầm giọng đáp: “Đại sự
quốc gia đâu có chỗ cho lòng nhân từ của bậc nữ nhi, việc này không thể trách
Đại vương.”
“Quả nhiên Dương Phượng vẫn còn canh
cánh trong lòng, bao nhiêu tặng phẩm cũng chẳng so được với vị hảo hữu đó.” Bắc
Mạc vương cười khổ, gật đầu: “Quả nhân còn biết nói gì đây? Thôi vậy, thôi vậy,
Tắc Doãn thượng tướng quân hãy đi đi.”
Tại phủ thượng tướng quân Bắc Mạc, giữa
trời tuyết trắng tấm hoành phi do đích thân Bắc Mạc vương chấp bút treo trên
cánh cổng lớn được tháo xuống.
Việc Tắc Doãn từ quan, người trong phủ
đã rỉ tai nhau từ nhiều ngày trước. Đám thị tòng đều là những thân tín theo Tắc
Doãn bao nhiêu năm nay, chủ đâu tớ đấy là lẽ thường tình. Thế nên, khi tin tức
được chính thức công bố, trong phủ vẫn hoàn toàn bình tĩnh, mọi người thầm hiểu
ý nhau, ai nấy thu dọn đồ đạc gọn ghẽ, chuẩn bị rời khỏi Bắc Nha Lý.
Tuyết đã rơi liên tục bảy ngày nay. Chưa
biết khi nào mới dừng lại. Trên con đường lớn ra vào Bắc Nha Lý, tuyết phủ
trắng xóa, đoàn ngựa xe chậm rãi đi trong gió tuyết. Bánh xe lăn tròn, in hằn
hai vệt dài mãi trên đường.
Trên chiếc xe ngựa hoa lệ nhất ở chính
giữa, lò sưởi đang rất đượm. Dương Phượng cúi xuống nhìn bảo bối trong lòng
mình. Đứa trẻ này sinh lực dồi dào giống hệt phụ thân, ru mãi mới chịu ngủ.
Dương Phượng nở nụ cười ngọt ngào, đặt
hài nhi vào chiếc chăn nhung, khẽ ngáp một cái rồi ngồi dựa bên cửa sổ.
“Ngủ rồi à?” Tắc Doãn khẽ khàng nhòm
vào, nín thở nhìn hài nhi đang say ngủ. Vốn xuất thân võ tướng, Tắc Doãn đã
quen với việc múa kiếmvung đao, nay nhìn bảo bối yếu đuối non nớt nằm kia,
cũng không dám bế vì sợ làm con đau. Lần đầu làm cha, hắn còn thấy khiếp vía
hơn lần đầu ra sa trường.
Nhìn điệu bộ của phu quân, Dương Phượng
bật cười, ngồi xích lại gần Tắc Doãn, chăm chú nhìn hài nhi, cưng nựng: “Chàng
nhìn cái mũi, cả cái miệng nhỏ xíu của hài nhi kìa, đúng là một tiểu Tắc Doãn.”
“Khuôn mặt giống hệt mẫu thân.” Tắc Doãn
vui sướng nói, “Hài nhi giống mẫu thân, sau này chắc chắn có tiền đồ. Dương
Phượng, may mà có nàng.”
Dương Phượng bỗng giật mình: “May mà có
thiếp làm sao?”
“May mà có nàng, nếu không làm sao có
được bảo bối đáng yêu thế này?”
“Chàng nói gì vậy?” Dương Phượng vừa
giận vừa buồn cười, không muốn làm ồn đến hài nhi nên kéo áo Tắc Doãn. Hai
người ngồi vào chiếc ghế ngang đặt đệm lông dày, Dương Phượng bỗng hạ giọng, “Phu
quân có cảm thấy Dương Phượng quá tùy tiện không?”
“Làm gì có chuyện đó?”
“Dương Phượng ép phu quân từ bỏ chức vị
thượng tướng quân, rời khỏi Bắc Nha Lý đi ẩn cư. Tuyết vẫn chưa ngừng rơi,
Khánh nhi vẫn chưa đầy tháng mà thiếp vẫn ép phu quân lên đường. Nay nghĩ lại,
đúng là thiếp đã quá tùy tiện.”
Tiếng cười thấp trầm của Tắc Doãn vô
cùng êm tai, bàn tay to bè ôm lấy khuôn mặt Dương Phượng, hói: “Tắc Doãn đâu
phải hạng người có thể bị người khác bắt phải từ quan. Từ quan, rời khỏi Bắc
Nha Lý là tâm nguyện của nàng. Đã là tâm nguyện của nàng, tất nhiên ta nên cam
tâm tình nguyện giúp nàng thực hiện chứ.” Tắc Doãn hơi dừng lại, giọng nói trầm
hơn đến vài phần, khẽ thở dài, “Huống hồ, ta biết nàng vì chuyện của Sính Đình
mà cảm thấy bất an. Sống trong phủ thượng tướng quân liên tục nhận ban thưởng
của Đại vương, càng khiến nàng như ngồi trên đống lửa.”
Nhắc đến Sính Đình, khuôn mặt Dương
Phượng lộ vẻ âu sầu, hạ giọng: “Hôm qua thiếp lại mơ thấy Sính Đình, muội ấy
đứng trước mặt thiếp, không cười, không nói. Thiếp giơ tay định chạm vào muội
ấy thì bỗng như một cái bóng, không sao nắm bắt được. Tắc Doãn, chính thiếp đã
khẩn cầu Sính Đình giúp Bắc Mạc nghĩ cách đối kháng Đông Lâm...”
“Ta biết.” Tắc Doãn ôm Dương Phượng vào
lòng, ánh mắt đau đớn, “Bắc Mạc ta lấy oán trả ơn, đổ cho Sính Đình tội mưu hại
hai vương tử Đông Lâm. Ta thật không có mặt mũi nào mà gặp lại Sính Đình.”
“Bản thân Sính Đình cũng không muốn rửa
nỗi oan này.” Dương Phượng buồn bã, “Từ lúc chàng thăm dò được nơi ẩn cư của Sở
Bắc Tiệp, thiếp đã sai người đưa tới cho Sính Đình ba bức thư, muốn muội ấy nói
rõ ràng mọi chuyện với Sở Bắc Tiệp, người ra độc kế hãm hại hai vương tử chính
là Hà Hiệp, nhưng Sính Đình không trả lời thiếp.”
“Chắc Sính Đình đang bị giam lỏng nên
không nhận được thư, có lẽ nào người của Sở Bắc Tiệp đã chặn lại toàn bộ thư
từ?”
Dương Phượng lắc đầu: “Sở Bắc Tiệp đọc
thì đã tốt. Nhưng, hiện tại vẫn không thấy quân Đông Lâm tăng cường truy bắt Hà
Hiệp, chứng tỏ họ vẫn chưa biết chính Hà Hiệp đã làm việc này. Sở Bắc Tiệp là
người cao ngạo, chắc không làm cái việc chặn hoặc đọc trộm thư của Sính Đình.
Chỉ sợ Sính Đình chẳng chịu giải oan cho chính mình, vậy phải làm thế nào?”
Hai hàng lông mày của Tắc Doãn chau lại,
vẻ không hiểu: “Sính Đình đã biết Hà Hiệp thay đổi, sao vẫn cam tâm tình nguyện
nhận tội thay hắn?”
Dương Phượng như bỗng cảm thấy lạnh, bèn
đổi tư thế ngồi trong lòng Tắc Doãn, lại càng nghe rõ hơn tiếng tim đập của phu
quân, ánh mắt nhìn về phía hài nhi đang ngủ say, khẽ thở dài: “Thất vọng về một
người là một chuyện, hận một người lại là chuyện khác. Sính Đình hiểu rõ, chỉ
cần muội ấy nói ra chân tướng sự việc, Hà Hiệp sẽ trở thành kẻ thù số
một của Đông Lâm, làm thế khác nào tự tay đẩy Hà Hiệp vào chỗ chết? Tình nghĩa
mười lăm năm đâu dễ dứt.”
Giọng Dương Phượng ngày càng nhỏ dần,
như gánh theo bao tâm sự nặng trĩu. Chần chừ hồi lâu, nàng nói tiếp: “Thiếp chỉ
sợ Sính Đình một đời thông minh lại nhất thời hồ đồ, không những không chịu
giải nỗi oan của mình với Sở Bắc Tiệp, mà còn dùng việc ấy để kiểm chứng tấm
lòng của Sở Bắc Tiệp. Haizzz, trái tim nam nhi đâu dễ dàng kiểm chứng đến vậy?”
Những lời của Dương Phượng chất đầy ai
oán. Nàng sinh Khánh nhi chưa đầy tháng mà suốt ngày phiền não, Tắc Doãn sợ thê
tử của mình mắc chứng hậu sản, bèn thương xót vỗ nhẹ vai nàng, khuyên nhủ: “Nàng
đừng nghĩ nhiều, tuy từ quan về ở ẩn, nhưng ta vẫn còn chút ít năng lực. Nếu
Sính Đình cần, chắc chắn chúng ta sẽ giúp được.”
“Hy vọng ông Trời phù hộ cho Sính Đình.”
Dương Phượng chắp tay trước ngực, khấn thầm trong lòng.
Khi đoàn xe ngựa của Tắc Doãn đang chậm
rãi tiến về phía trước trong gió tuyết, tại vương cung của Vân Thường quốc,
pháo hoa rợp trời.
Trong cung giăng đầy lụa đỏ, thị nữ
khoác trên mình những bộ y phục có màu sắc của ngày đại lễ, trên tay bưng đủ
loại điểm tâm ra vào như mắc cửi. Tiếng nhạc trống hoan hỷ vượt qua tường cung,
vang đến khắp ngõ ngách nơi thành đô, khiến dân chúng xôn xao bàn tán.
“Công chúa điện hạ sắp thành thân rồi!”
“Vân Thường chúng ta đã có phò mã rồi
sao?”
“Công chúa phải tìm phò mã từ lâu rồi
mới phải. Công chúa có giỏi giang đến đâu thì cũng là phận nữ nhi, không
thể suốt ngày lo việc triều chính, nên phải tìm phò mã. Công chúa chỉ cần
an tâm sinh một tiểu vương tử bụ bẫm là được.”
“Ha ha, nói thật có lý.”
“Xem ra, Công chúa của chúng ta thật
biết kén chọn. Sau khi Đại vương băng hà, những người đến cầu hôn Công chúa
đông đến nỗi làm đổ cả cổng lớn vương cung, nhưng Công chúa chẳng hề để mắt đến
ai, chỉ chọn mỗi người này.”
“Đúng thế! Đúng thế! Không hổ là Công
chúa điện hạ của Vân Thường chúng ta, nhãn quang thật không tồi. Có vị phò mã
này, Vân Thường chúng ta chẳng phải sợ cái gì mà Sở Bắc Tiệp của Đông Lâm hay
Tắc Doãn của Bắc Mạc nữa! Ha ha, chúng ta cạn cốc vì Công chúa và Phò mã nào!”
Rượu ngon thơm phức sánh cả ra ngoài.
Đi ngang qua đám thị nữ xiêm áo lộng lẫy
như đàn ong bướm, Quý Thường Thanh mặc y phục và trang sức triều thần long
trọng bước vào gian phòng hoa lệ quyền quý, yên tĩnh nhất ở sườn tây
của vương cung.
Lục Y, thị nữ quyền lực nhất trong vương
cung Vân Thường, đang đứng ở cửa dặn dò hai thị nữ khác: “Mang đai lưng loan
phượng mạ vàng mấy hôm trước được tiến cống vào đây. Ngoài ra lấy thêm quả hồng
khô bày ra hai đĩa màu đỏ, mỗi đĩa chín mươi chín lát hồng khô, nhớ kỹ, chín
mươi chín lát, không được nhiều hơn cũng không được ít hơn. Ta đã nói rõ rồi,
hôm nay là ngày đại hỷ của Công chúa, kẻ nào dám sai sót dù chỉ một chút, cứ
cẩn thận cái chân của mình.”
Nói xong một hồi, Lục Y quay lại, thấy
Quý Thường Thanh thì vội vàng cười nói: “Quý thừa tướng đến rồi, mời Thừa tướng
vào trong. Công chúa đã mấy lần hỏi sao Thừa tướng vẫn chưa tới. Thừa tướng còn
chưa tới, chắc Công chúa lại đích thân sai nô tỳ đi mời.”
Quý Thường Thanh cười điềm tĩnh bước vào
trong phòng.
Căn phòng xông hương ấm áp. Ở đây, tiếng
nhạc trống hoan hỷ ngoài kia chỉ còn là những dư âm mơ hồ. Sau tấm rèm buông,
một dáng người gầy gò mảnh khảnh đang ngồi trước gương.
Quý Thường Thanh đứng trước rèm, chưa
kịp lên tiếng, đã nghe giọng nói trong trẻo của Công chúa Diệu Thiên: “Mời Thừa
tướng vào.”
Quý Thường Thanh vén rèm, bước vào đứng
trước gương.
Công chúa trong gương xinh đẹp hơn ngày
thường, đầu đội mũ phượng khảm đầy bảo thạch, trên mũ rũ xuống một hàng trân
châu không ngừng lay động, nhưng vẫn không che nổi đôi mắt sáng lấp lánh của
nàng.
Khẽ đặt chiếc bút kẻ mắt trong tay
xuống, Công chúa nhìn lại mình trong gương, rồi hạ giọng cười hỏi: “Thừa tướng,
Diệu Thiên trang điểm có đẹp không?”
Quý Thường Thanh nhìn chăm chú người đối
diện rồi gật đầu trả lời: “Đẹp lắm,” im lặng một hồi, dường như trong lòng vô
cùng cảm khái mà thở dài một tiếng, “Cuối cùng Công chúa cũng sắp thành thân.
Tiểu cô nương hay bắt các thị nữ trong vương cung đuổi bắt đến bở hơi tai đã
sắp có phu quân. Thời gian trôi qua thật nhanh... Công chúa có vui không?”
“Vừa vui vừa lo lắng.” Diệu Thiên ngắm
nghía mình trong gương, “Khi còn sống mẫu thân từng nói, con gái xuất giá giống
như thò tay vào một huyệt động tối om, không biết mình sẽ tìm được viên trân
châu quý giá hay bắt phải con rắn độc chết người. Thừa tướng là đại thần trung
thành nhất của vương tộc Vân Thường, sau khi phụ thân mất đi, nếu không có sự
phò trợ của Thừa tướng, ta không thể quản lý nổi việc quốc gia triều chính. Hôm
nay Diệu Thiên muốn hỏi Thừa tướng một câu, mong Thừa tướng đáp ứng sự thực.”
Quý Thường Thanh nghiêm túc trả lời: “Công
chúa cứ hỏi.”
“Ta chọn Hà Hiệp, tất cả các đại thần và
bách tính đều hồ hởi vui mừng, nhưng sao khi biết tin này, Thừa tướng lại mặt ủ
mày chau?”
Không ngờ Diệu Thiên công chúa đột nhiên
hỏi tới việc này, Quý Thường Thanh có chút ngạc nhiên, bèn sắp xếp lại suy nghĩ
rồi trả lời: “Đại vương mất sớm, không có Vương tử, Công chúa là phận nữ nhi
phải quản lý chuyện quốc gia triều chính. Tất cả mọi người đều hiểu, người được
Công chúa chọn làm phò mã sẽ nắm giữ đại quyền của Vân Thường ta. Thế nên, thần
luôn khuyên nhủ Công chúa phải thận trọng kén phu quân, không được để kẻ bất
tài có cơ hội thâu tóm Vân Thường, khiến Vân Thường chịu họa diệt vong.”
“Hà Hiệp là kẻ bất tài sao?”
“Đúng là Công chúa rất có nhãn quang, Hà
Hiệp bị Đại vương Quy Lạc Hà Túc hãm hại, đang cần một chốn an thân lập nghiệp.
Tuy hiện giờ Hà Hiệp nhà tan cửa nát, nhưng xuất thân cao quý, lời nói cử chỉ
phong độ phi phàm. Hơn nữa, Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp được gọi là lưỡng đại danh
tướng đương thời, bậc nhân tài khó kiếm. Nay thời thế loạn lạc, các quốc gia
đều cảm thấy bất an, cần có chiến tướng dũng mãnh. Lúc này Công chúa chọn Hà
Hiệp làm phò mã, cũng có nghĩa là Công chúa xây cho Vân Thường ta một bức tường
đồng, thành sắt kiên cố. Chỉ là...” Quý Thường Thanh lắc đầu, trầm giọng, “Hà
Hiệp rất có năng lực, rất có tham vọng. Muốn nắm giữ nam nhân này lâu dài không
phải việc dễ dàng.”
Diệu Thiên công chúa cúi đầu suy nghĩ,
lo lắng hỏi: “Đã vậy, sao ngày đó Thừa tướng không dâng tấu ngăn cản? Ta lúc
nào cũng coi trọng ý kiến của Thừa tướng.”
“Nếu thần dâng tấu ngăn cản, liệu Công
chúa có thay đổi quyết định?” Quý Thường Thanh cảm thán, “Thần làm quan đã hai
mươi năm, chứng kiến Công chúa từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành, chẳng lẽ
thần còn không nhìn ra Công chúa đã xác định chắc chắn làm việc gì hay chưa?”
Diệu Thiên công chúa mím môi nghĩ ngợi,
rồi nở nụ cười, đáp: “Không hổ là thừa tướng, đúng là ta sẽ không thay đổi ý
định của mình. Từ lúc Hà Hiệp bước vào vương cung, ta đã quyết định chỉ lấy
người này. Nữ nhi nào cũng mong được gả cho một nam nhân anh dũng. Huống hồ anh
hùng trên thế gian quá ít, khả ngộ bất khả cầu[1].”
[1] Những thứ tốt đẹp chỉ có thể gặp gỡ,
không thể cưỡng ép mà có được.
Nàng đứng dậy, trang sức trên người lúc
lắc kêu vang.
“Có điều Thừa tướng nói rất đúng, muốn
nắm giữ nam nhân này lâu dài, quả không phải việc dễ dàng.” Diệu Thiên quay lại
nhìn Quý Thường Thanh, nở nụ cười ngây thơ nhưng không kém phần mưu trí, “Làm
sao mới có thể nắm giữ con người và trái tim Hà Hiệp, sau này Thừa tướng phải
dốc sức giúp ta.”
Quý Thường Thanh cúi người đáp: “Thần
xin dốc hết tâm sức.”
“Tốt lắm.” Diệu Thiên bước ra cửa, nhìn
về phía bên kia của vương cung, lẩm bẩm, “Tiếng nhạc đã gần. Hà Hiệp... chắc
chàng đang tiến vào cổng chính cung điện.”
Ở một nơi xa xôi khác, trong vương cung
Quy Lạc, Hà Túc đang nhìn sắc trời u ám, lặng im không nói.
Vương hậu từ phía sau bước lại gần, dò
hỏi: “Xem xong bức thư vừa nãy, Đại vương bỗng mặt ủ mày chau, lại có tin tức
gì không hay sao?”
Hà Túc gật đầu: “Diệu Thiên công chúa
của Vân Thường quốc đã đồng ý lời cầu hôn của Hà Hiệp, hôm nay chính là ngày
đại lễ của họ.”
Vương hậu kinh ngạc đáp: “Diệu Thiên
công chú lại chấp nhận gả cho một Hà Hiệp tay trắng ư? Sao có thể thiếu sáng
suốt như vậy?”
“Đây là một quyết định vô cùng sáng
suốt.” Hà Túc trả lời, lạnh lùng nhìn Vương hậu, “Hà Hiệp không hề tay trắng,
thứ có giá trị nhất của hắn chính là bản thân hắn. Trong thiên hạ, kẻ có của
bên người rất nhiều, nhưng có ‘của trên thân’ mới là hiếm. Diệu Thiên công chúa
đã nhìn trúng điểm này.”
Mơ hồ nghe ra ý trách của Hà Túc, Vương
hậu ngượng ngùng cúi đầu, khẽ đáp: “Đại vương trong lòng phiền muộn, hay thần
thiếp đàn một bản để Đại vương nghe.”
“Không cần.” Hà Túc bước ra ngoài điện,
nhìn về phía vương phủ Kính An, lẩm bẩm, “Quả nhân đã làm điều gì sai sao? Quy
Lạc lưỡng cầm nổi danh thiên hạ giờ đều không thuộc về Quy Lạc nữa rồi.”
Khi trước Dương Phượng trốn đi chính vì
Vương hậu nghe lời dèm pha nên gây khó dễ cho nàng. Nghe Hà Túc nhắc vậy, trong
lòng Vương hậu thoáng run rẩy, khẽ đáp: “Đó là vì sự ngu dốt của thần thiếp, thần
thiếp xin chịu trừng phạt.” Nói xong, Vương hậu nhấc váy, khiếp sợ cúi đầu quỳ
xuống.
Hà Túc im lặng hồi lâu, như nghĩ ra điều
gì, bỗng cười ha ha.
“Vương hậu đứng dậy đi.” Hà Túc quay
lại, đỡ Vương hậu đứng lên, thản nhiên đáp, “Dương Phượng tuy có tài đàn xuất
chúng, nhưng cũng chỉ là một nữ tử trong hậu cung, luận về kiến thức mưu lược
thì thua xa Bạch Sính Đình. Quả nhân mất đi Dương Phượng có đáng gì. Còn Hà
Hiệp chỉ vì chút lợi ích cỏn con trước mắt mà đánh mất Sính Đình mới thật là
một quyết định ngu muội. Sau này chắc chắn hắn sẽ phải trả giá rất đắt.”
Vương hậu nghi ngờ: “Bạch Sính Đình lợi
hại thế sao?”
“Vương hậu đã gặp Bạch Sính Đình chưa?”
Vương hậu suy nghĩ giây lát: “Nàng ta
rất ít khi vào cung nên thần thiếp mới chỉ gặp một, hai lần. Nàng ta không
thích nói chuyện, dung mạo cũng bình thường.”
“Bạch Sính Đình tuy không phải một mỹ
nhân, nhưng lại có một ma lực khiến người ta chỉ muốn giữ nàng bên cạnh, mãi
mãi chiếm hữu.” Hà Túc nhìn Vương hậu, khóe môi thoáng nét cười, “Thiên hạ này
có vô khối nữ nhân dựa vào sắc đẹp khiến nam nhân động lòng, muốn có một đêm
hoan hỷ, nhưng liệu được có mấy người khiến nam nhân có ý nghĩ ‘mãi mãi chiếm
hữu’?”
“Nhưng chẳng phải chính Hà Hiệp đã vứt
bỏ nàng ta hay sao?”
“Hà Hiệp sẽ hối hận, có khi đã hối hận rồi.
Nhưng hối hận thì còn tác dụng gì?” Hà Túc lim dim mắt, một tia lạnh lẽo thoáng
qua, “Quả nhân sẽ không để hắn dễ dàng có được Bạch Sính Đình.”
Sau khi dùng cơm, Hà Túc ở lại trong
điện xử lý quốc sự.
Vương hậu cáo lui. Đến một góc hành
lang, Vương hậu dừng bước, lấy ống tay áo lau nước mắt.
Nhũ mẫu của Vương hậu theo sau, thất
kinh hỏi: “Vương hậu sao thế?”
“Đại vương động lòng rồi.”
“Ai?”
“Bạch Sính Đình, vương phủ Kính An.”
Nhũ mẫu im lặng hồi lâu.
Khi hạ lệnh diệt trừ vương phủ Kính An,
ngày mật chiếu Hà Hiệp và Bạch Sính Đình vào cung, Đại vương từng có nghiêm
chỉ, nếu đám người kia của vương phủ Kính An có bất cứ động tĩnh gì, hãy lập
tức loại bỏ, trừ một người.
Một người phải bắt sống, không được để
bị thương.
Đó chính là Bạch Sính Đình của vương phủ
Kính An.
Đêm động phòng hoa chúc, hai má tân
nương ửng đỏ.
Tấm khăn màu đỏ phủ trên đầu nhè nhẹ rơi
xuống, hai mắt Công chúa ngước lên, thấy bóng người tuấn tú ngay trong tầm mắt.
Vị công tử quý tộc bậc nhất nhì trong tứ
quốc, tiểu Kính An vương uy danh hiển hách đang đứng trước mặt nàng.
“Công chúa.”
“Phò mã.”
Hai tiếng gọi khẽ tựa hồ không nghe rõ,
chỉ có ánh mắt gặp nhau, trái tim đã hoàn toàn loạn nhịp.
Hà Hiệp cởi bỏ dải lụa hoa trước ngực,
rồi đưa tay đỡ mũ phượng trên đầu Diệu Thiên công chúa, cười cảm thán: “Không
ngờ Hà Hiệp lưu lạc bốn phương, chẳng ai dám giữ, nay lại may mắn được Công
chúa coi trọng, đúng là Trời không bạc đãi ta.” Nụ cười vụt tắt, Hà Hiệp chăm
chú nhìn khuôn mặt điềm tĩnh của Diệu Thiên, dịu giọng, “Công chúa có chút đăm
chiêu, dường như đang có tâm sự?”
Diệu Thiên thất thần mỉm cười, đáp: “Thiếp
chỉ đang nghĩ, nếu vương phủ Kính An không gặp biến cố, không biết Diệu Thiên
còn có phúc phận được làm thê tử của phu quân?” Sóng mắt lay động, nàng dừng
bên tấm rèm buông trước giường, khẽ thở dài, “Đêm động phòng hoa chúc, nam nhân
đứng trước mặt thiếp, nam nhân sẽ chung sống với thiếp cả đời là một trang văn
võ song toàn, một bậc anh hùng cái thế. Cảnh này, người này đẹp tựa trong mộng,
chỉ lo đây là giấc mộng đẹp mà thôi.”
Hà Hiệp chau mày, đáp: “Sao Công chúa
lại nói những lời này, lẽ nào nàng không tin vào tấm lòng của Hà Hiệp?”
“Thiếp lỡ lời rồi.” Diệu Thiên công chúa
quay lại, nở nụ cười ngọt ngào với Hà Hiệp, “Nếu không tin tưởng phu quân,
thiếp sao dám hứa trước các thần dân rằng đời này kiếp này thiếp sẽ ở bên phu
quân?”
Đôi mắt lấp lánh ánh sao của Hà Hiệp
nhìn chăm chăm Diệu Thiên, tựa như hai hồ nước sâu thẳm đầy ma lực đang muốn
hút Diệu Thiên xuống tận cùng sâu thẳm. Hà Hiệp bất chợt quỳ một gối xuống,
nâng niu đôi bàn tay mềm mại của nàng, rồi ngẩng đầu nói: “Công chúa yên tâm,
Hà Hiệp đời này kiếp này không bao giờ phụ bạc nàng. Hà Hiệp xin thề với trời,
sẽ có một ngày, ta biến Công chúa thành nữ nhân tôn quý nhất thế gian, ta sẽ tự
tay đội mũ phượng Hoàng hậu tứ quốc lên đầu Công chúa.”
Đôi mắt Diệu Thiên công chúa sáng hẳn
lên, vui vẻ: “Phu quân thật có chí hướng xa vời như vậy sao?”
Hà Hiệp cười vang: “Cuộc đời ngắn ngủi,
không lập được đại nghiệp thì sao xứng với công sinh thành dưỡng dục của phụ
mẫu?”
Nghe tiếng cười tràn đầy tự tin, hào
sảng hơn người của phu quân, Diệu Thiên công chúa trong lòng càng vui
mừng, dịu dàng hỏi: “Phu quân đắc chí như vậy, chắc trong lòng đã có đại kế
thống nhất tứ quốc.”
Hà Hiệp không cười nữa, suy nghĩ một
lát, rồi đáp: “Việc đầu tiên cần làm, đương nhiên là khiến kẻ địch mạnh nhất
của đời ta là Sở Bắc Tiệp không thể tiếp tục dốc sức vì Đông Lâm.”
Vốn quản lý việc triều chính đã lâu,
Diệu Thiên công chúa nắm rõ các bậc quyền quý của từng quốc gia, nên lập tức
tiếp lời: “Sở Bắc Tiệp đã quy ẩn sơn lâm, không màng chính sự, nhưng nếu Đông
Lâm xảy ra biến cố, Sở Bắc Tiệp chắc chắn sẽ lập tức xuống núi. Phu quân có
cách nào để cắt đứt quan hệ huyết thống của Sở Bắc Tiệp với vương triều Đông
Lâm?”
Thầm khen nữ tử này thông minh, hiểu rõ
tình hình tứ quốc, Hà Hiệp tán thưởng nhìn nàng, rồi ôm lấy vòng eo nhỏ, đỡ
nàng đứng dậy, cùng nhìn lên vầng trăng treo ngoài cửa sổ.
“Có một việc sẽ khiến Sở Bắc Tiệp đoạn
tuyệt với vương tộc Đông Lâm. Cho dù Đông Lâm xảy ra cơ sự gì, Sở Bắc Tiệp cũng
vẫn khoanh tay đứng nhìn.”
Diệu Thiên công chúa chau mày nghĩ ngợi
hồi lâu, rồi lắc đầu nói: “Thiếp thực không thể nghĩ ra có việc gì lại khiến Sở
Bắc Tiệp từ bỏ gia tộc của mình...” Đôi mắt thông tuệ ngước nhìn Hà Hiệp, tìm
kiếm câu trả lời.
Khuôn mặt anh tuấn thoáng tia do dự, Hà
Hiệp ngước nhìn trăng trên trời, ngẩn người hồi lâu, bỗng như chợt nhớ ra vẫn
chưa trả lời câu hỏi của Diệu Thiên công chúa, khẽ thở dài, trầm giọng đáp: “Đó
là, vương tộc Đông Lâm khiến Sở Bắc Tiệp mãi mãi mất đi nữ nhân thân yêu nhất trong
lòng mình.”
“Nữ nhân thân yêu nhất của Sở Bắc Tiệp
là ai?”
“Nàng ấy là...” Hà Hiệp khó khăn mở lời,
mãi sau mới thốt ra được ba chữ quen thuộc, “Bạch Sính Đình.”
Công chúa Diệu Thiên sững sờ, khẽ mím
môi.
Sính Đình, Bạch Sính Đình.
Đại tổng quản thực sự của vương phủ Kính
An, thị nữ thân cận nhất của Hà Hiệp.
Tương truyền rằng, kẻ tạo ra khế ước năm
năm Đông Lâm không xâm phạm Quy Lạc chính là Bạch Sính Đình.
Tương truyền rằng, nữ tử đang bị Sở Bắc
Tiệp ôm hận giam cầm, cũng chính là Bạch Sính Đình.
Rốt cuộc, Bạch Sính Đình là nữ nhân như
thế nào?
Bạch Sính Đình là một nữ nhân như thế
nào, ngay cả Sở Bắc Tiệp cũng không thể trả lời câu hỏi này.
Sở Bắc Tiệp ngồi dậy, quay đầu, ánh mắt
không hề dịch chuyển.
Ánh mặt trời buổi sớm đang cố gắng thoát
khỏi đám mây đen bao phủ, vương trên mái tóc đen xõa của nàng. Khuôn mặt say
ngủ không hề phòng bị, khóe môi thoáng nét cười ngọt ngào.
Mộng đẹp sao? Bất giác, Sở Bắc Tiệp cúi
xuống gần nàng.
Chàng đối với nàng không tốt, chàng biết
rõ điều đó.
Trong chái nhà phía tây, đối mặt nhau
suốt tám tháng, chàng đêm đêm cưỡng bức, triền miên như người mất hồn mà chưa
một lần đối tốt với nàng.
Sao nàng vẫn có mộng đẹp? Sở Bắc Tiệp
không hiểu.
Chàng cúi xuống gần hơn một chút, muốn
nhìn rõ nét cười nơi khóe môi nàng. Hơi thở của chàng khiến những sợi tóc của
nàng khẽ lay động.
Thấy hàng mi dày khẽ động, Sở Bắc Tiệp
vội lùi ra xa, bước xuống giường.
Sính Đình mở mắt, thấy bóng dáng của Sở
Bắc Tiệp, bèn nhổm dậy, khẽ hỏi: “Vương gia tỉnh rồi sao?”
Cái bóng, mãi mãi chỉ là cái bóng.
Ân ái đêm qua chỉ như bóng mây qua mắt,
sau khi tỉnh mộng, chẳng còn chút vấn vương.
Nàng nhìn theo Sở Bắc Tiệp im lặng rời
đi giống như mọi ngày, lưng thẳng đứng, lòng gang dạ sắt.
Tám tháng, lại đến mùa tuyết rơi, mà mùa
xuân vẫn mãi nơi đâu.
“Cô nương tỉnh rồi sao?” Hồng Tường
chuyên hầu hạ nàng bưng vào một chậu đồng đầy nước nóng, đặt lên bàn, xoa tay
nói: “Hôm nay lạnh quá, trời chưa sáng mà tuyết đã rơi đầy. Tuyết không quá dày
nhưng vẫn lạnh thấu xương. Tranh thủ nước còn nóng, cô nương rửa mặt rồi chải
đầu đi.”
Nói rồi, Hồng
Tường đỡ Sính Đình dậy, thấy đôi mày nàng khẽ chau thì vội hỏi: “Sao thế, cô
nương khó chịu ở đâu ư?”
Sính
Đình ngồi bên giường, nhắm mắt dưỡng thần một lúc, rồi mở mắt ra, lắc đầu bảo:
“Không sao, dậy vội quá, không biết bị trẹo người chỗ nào.”
Nước
rất ấm.
Nước
bốc hơi nghi ngút trong chiếc chậu đồng nhẵn bóng. Mười ngón tay thon nhỏ của
nàng từ từ ngâm vào nước, cảm nhận độ ấm hoàn toàn khác nhau.
Hồng
Tường nhìn chằm chằm vào mười ngón tay ấy, khẽ khen: “Bàn tay cô nương đẹp quá.”
“Đẹp
à?” Sính Đình hỏi.
“Đẹp.”
Sính
Đình rút bàn tay ra khỏi nước, Hồng Tường lấy khăn bông màu trắng thấm nước,
lau thật khẽ. Từng ngón tay búp măng, mềm mại, đẹp đến cả đầu móng tay.
Sính
Đình cười: “Đẹp mà làm gì? Đôi bàn tay này không thể chơi đàn được nữa rồi.”
“Tại
sao?” Hồng Tường hiếu kỳ.
Dường như
không có hứng nói chuyện, Sính Đình quay đi, nhìn bầu không khí giá lạnh ngoài
cửa sổ.