Trăm năm cô đơn - Chương 11 - Phần 2
Thoạt đầu, Phecnanđa
không nói chuyện về gia đình mình, nhưng rồi dần dần nàng bắt đầu lý tưởng hoá
người cha mình. Ngay tại bàn ăn, nàng ca ngợi cụ như một con người đặc biệt từng
từ bỏ mọi nghi lễ trống rỗng và đã trở thành một vị thánh sống. Aurêlianô
Sêgunđô ngạc nhiên trước sự tán tụng không phải lúc về ông bố vợ, đã không dừng
được, đành phải giễu nhẹ sau lưng vợ mình. Cả nhà đều theo gương anh. Ngay
chính Ucsula, đang hết sức tự hào về gia đình êm ấm và ngược lại phải lặng lẽ
chịu đựng nhưng mối bất hoà trong nhà, đã có lần tự mình nói rằng thằng chít
còn oắt con của mình chắc chắn sẽ là một Hồng y Giáo chủ bởi vì hắn là “cháu
ngoại của một vị thánh, là con của một hoàng hậu và một thằng ăn trộm gia súc”.
Bất kể nụ cười mỉa ấy, bọn nhóc quen nghĩ về ông ngoại mình như nghĩ về một
nhân vật huyền thoại, người vẫn thường gửi cho chúng những vần thơ âu yếm trong
các bức thư và cứ mỗi bận lễ Noen đến lại gửi cho chúng một thùng quà to đùng gần
như không mang lọt cửa chính. Thực ra đó là những đồ vặt vãnh cuối cùng còn lại
của gia tài quyền quý xưa. Ngay tại phòng ngủ của bọn trẻ, bằng những thứ này
người ta dựng một bàn thờ với những tượng thánh to bằng cỡ người thực mà đôi mắt
thuỷ tinh của các vị này đã gây cho chúng ấn tượng sâu sắc như người thật; còn
những bộ áo quần được thêu thùa thật đẹp của các vị thì theo con mắt chúng là
những bộ quần áo đẹp nhất chưa một người dân Macônđô nào trong được mặc. Dần dần,
vẻ huy hoàng tẻ nhạt của ngôi nhà cổ kính và lạnh lẽo nọ đã được chuyển về ngôi
nhà sáng sủa của gia đình Buênđya. “Giờ đây, họ đã gửi cho chúng ta một nghĩa địa
gia đình rồi.” Có lần nào đó Aurêlianô Sêgunđô đã bình luận, “chỉ còn thiếu những
cây liễu giỏ và đá xây mồ thôi”. Mặc dù trong các thùng này không bao giờ đựng
các đồ chơi cho bọn trẻ, nhưng chúng vẫn cứ mong đợi cho chóng hết năm để đến
tháng chạp, bởi vì dù thế nào đi nữa thì các đồ cổ lỗ sĩ và luôn luôn không được
biết trước ấy cũng vẫn là một sự kiện mới lạ trong nhà.
Trong dịp lễ Noen lần
thứ mười kể từ khi Phecnanđa về nhà chồng, khi cậu bé Hôsê Accađiô đã chuẩn bị
đi thi, một chiếc hòm gỗ khổng lồ của ông ngoại được đóng đinh quét xi thật cẩn
thận và được gửi đến cho bà Phecnanđa đen Cacpiô đê Buênđya rất tôn kính viết bằng
thứ chữ gôtích quen thuộc, đã đến khá sớm hơn mọi năm. Trong lúc nàng ở trong
phòng đọc thư, những đứa trẻ nôn nóng vội mở chiếc hòm. Như thường lệ, được sự
giúp sức của Aurêlianô Sêgunđô, bọn chúng cậy các mảng xi gắn, mở nắp chiếc
hòm, moi hết mùn cưa ở bên trong ra, và chúng thấy ở bên trong một chiếc hòm
chì được các vít đồng vít lại rất chắc chắn. Trước mặt những đứa trẻ đang háo hức,
Aurêlianô Sêgunđô tháo tám chiếc vít đồng, và khi mở nắp hòm ra hầu như anh
không kịp kêu lên và đẩy bọn trẻ sang một bên, vì đã nhìn thấy đông Phecnanđô vận
đồ đen, trên ngực đeo một cây thánh giá, da dẻ nứt bung ra trong những nốt lở
khẳn mùi hôi và cái tử thi này đã được chưng trong một thứ nước thịt trai nuôi
lấy ngọc đặt trên bếp lửa cháy âm ỉ.
Sau ngày sinh bé gái
ít lâu, lễ thượng thọ không hề mong đợi của đại tá Aurêlianô Buênđya được công
khai loan báo. Chính phủ ra lệnh tổ chức nó để kỷ niệm ngày ký hiệp định
Neclanđia. Ðó là một quyết định trái với đường lối chính trị chính thống đến mức
đại tá đã mạnh mẽ tuyên bố chống lại và ngài đã từ chối lễ mừng. “Ðây là lần đầu
tiên ta nghe nói đến lễ thượng thọ.” ngài nói, “Nhưng muốn nói gì thì nói, điều
đó chỉ có thể là một lời báng bổ mà thôi”. Cái xưởng kim hoàn vốn đã hẹp rồi giờ
đây lại đông nghịt các vị sứ giả. Những luật gia mặc đồ sẫm trước đây như nhưng
con quạ lượn lờ quanh đại tá nay trở lại với dáng vẻ già nua và trang trọng hơn
rất nhiều. Khi thấy bọn họ xuất hiện như trước đây họ từng đến để ngăn cản cuộc
chiến, ngài đã không thể chịu nổi những lời tán tụng quá ư trơ trẽn cửa họ.
Ngài ra lệnh cho họ hãy để mình yên, không chịu nhận mình là một yếu nhân của
dân tộc, như lời bọn họ nói, mà chỉ là một anh thợ thủ công tầm thường với ước
muốn duy nhất là được chết vì mệt mỏi trong lãng quên và trong cảnh nghèo túng
làm những con cá vàng của mình. Ðiều khiến ngài phẫn nộ hơn cả là tin tức nói rằng
chính ngài Tổng thống nước Cộng hoà đã dự định sẽ đích thân tham gia các hoạt động
quần chúng ở Macônđô để gắn Huân chương Công huân cho đại tá.
Ðại tá Aurêlianô
Buênđya đã nhờ nói lại chính xác từng từ một với ngài Tổng thống rằng mình thật
lòng khao khát đợi cái dịp tuy là muộn mằn nhưng rất quý này để cho ngài Tổng
thống một phát súng, không phải để ngài chuộc tội vì những bất công và không hợp
thời của chế độ mà để ngài chuộc lấy cái tội dám hỗn xược đối với một cụ già vốn
không làm hại ai cả. Ðó là lời cảnh cáo đanh thép mà đại tá đã nói ra miệng, do
đó ngài Tổng thống nước Cộng hoà đến phút chót đã hoãn chuyến đi và để cho lễ mừng
thêm long trọng, ngài đã phái một đặc phái viên đi thay mình. Ðại tá Hêrinênđô
Mackêt, hoàn toàn ở yên một chỗ, đã rời bỏ giường bệnh bại liệt, đến an ủi người
bạn chiến đấu cũ của mình. Khi thấy xuất hiện một chiếc ghế xích đu được bốn
người đàn ông khiêng, và thấy người bạn từng chia sẻ với mình mọi nỗi vinh nhục
ngay từ thời trai trẻ ngồi trên nó bên những chiếc gối, thì đại tá Aurêlianô
Buênđya nhận ra ngay rằng đại tá Hêrinênđô Mackêt gắng gượng đến để bày tỏ tình
đoàn kết của mình. Nhưng khi đã biết ý định thực của chuyến viếng thăm này,
ngài đã ra lệnh đuổi người bạn cố tri của mình ra khỏi xưởng kim hoàn.
- Thật là quá muộn ta
mới hiểu rằng. - Ngài nói với bạn mình. - Nếu để chúng bắn anh thì ta đã làm phúc cho anh nhiều
đấy.
Thế là ngày lễ thượng
thọ của ngài đại tá được tiến hành không có sự tham gia của bất kỳ thành viên
nào trong gia đình Buênđya. Lễ mừng này đã ngẫu nhiên trùng với tuần lễ hội giả
trang Cacnavan nhưng không một ai có thể cởi bỏ cho đại tá Aurêlianô Buênđya
cái ý nghĩ dai dẳng cho rằng sự trùng hợp ấy cũng đã được chính phủ dự tính trước
để làm cho lời báng bổ đó càng thêm thô bạo. Từ xưởng kim hoàn vắng lặng, ngài
nghe các bản hành khúc hùng dũng, nghe hăm mốt loạt đại bác nổ, nghe những hồi
chuông vang lên bản thánh ca tạ ân, và nghe một vài câu trong cái bài diễn văn
đọc trước nhà mình khi họ lấy tên ngài đặt cho một đường phố. Khi mắt ngài nhoè
nước mắt, thứ nước mắt tủi hờn, thứ nước mắt căm giận và lần đầu tiên kể từ khi
chịu thất bại đến nay, ngài cảm thấy đau khổ vì không còn chí cái thế và sức bạt
núi thời trai trẻ để mở một cuộc chiến đẫm máu đặng quét sạch chế độ Bảo hoàng.
Giữa lúc những tiếng ồn vui vang vọng của ngày hội chưa dứt thì Ucsula gõ cửa
xưởng kim hoàn.
- Ðừng làm phiền nữa.
- Ngài nói. - Ta đang bận.
- Mở cửa mau! - Với giọng nói thường ngày,
cụ đòi mở. - Việc này chẳng can dự gì với ngày hội đâu.
Thế là đại tá
Aurêlianô Buênđya mở then cửa và ngài thấy ở trước cửa mười bảy người đàn ông
hoàn toàn khác nhau, từ vóc dáng đến màu da, nhưng tất cả đều mang vẻ cô đơn mà
qua đó ở bất cứ xó xỉnh nào trên mặt đất này người ta đều có thể nhận ra họ là
anh em. Ðó là những người con trai của ngài. Không hề bảo nhau, cũng không hề
quen nhau, họ đã đến đây từ những xó xỉnh hẻo lánh nhất của vùng duyên hải đang
rộn ràng trong ngày hội náo nhiệt. Tất cả đều tự hào mang tên Aurêlianô kèm với
tên họ của mẹ mình. Trong ba ngày ở lại nhà đại tá, để làm hài lòng Ucsula và
khiến Phecnanđa phải ngạc nhiên, đôi lúc họ gây ra những vụ ẩu đả. Amaranta lục
tìm trong đống giấy tờ cũ cuốn sổ tay trong đó Ucsula đã tự tay ghi lại tên,
ngày tháng năm sinh, ngày đặt tên của tất cả và bà chỉ cho từng người phòng ở
hiện tại thuộc về mình. Danh sách ấy cho phép nhớ lại hai mươi năm chiến tranh.
Với danh sách này người ta có thể dựng lại những hành trình ban đêm của đại tá,
kể từ buổi sáng sớm chàng đi khỏi làng Macônđô dẫn đầu hai mươi mốt chàng thanh
niên để gia nhập một cuộc khởi nghĩa đầy ảo tưởng, cho đến lần cuối cùng trở về
mình lẩn trong chiếc áo khoác bê bết máu khô. Aurêlianô Sêgunđô không bỏ lỡ dịp
chúc mừng các ông chú mình bằng việc ồn ĩ mở tiệc vui gồm rượu sâm banh và đàn
phong cầm và tiệc vui này ồn ĩ vui nhộn đến mức được liệt hạng hay hơn cả vũ hội
Cacnavan không thành vì trùng với lễ thượng thọ của đại tá do chính phủ tổ chức.
Họ đập vỡ một nửa số cốc tách, xéo nát cả các vườn hoa để đuổi theo một chú bê
non. Họ bắn súng để giết gà, buộc Amaranta phải nhảy những điệu van buồn của
Piêtrô Crêspi, dỗ ngon dỗ ngọt Rêmêđiôt - Người đẹp để cô mặc quần đàn ông leo
cột mỡ, rồi thả một chú lợn bôi dày mỡ chạy trên hành lang và con lợn này đã
húc ngã Phecnanđa. Nhưng không một ai ca thán những trò nghịch ngợm quá trớn ấy,
bởi vì ngôi nhà rung lên như một trận động đất trước trò vui trong đó sức khoẻ
cường tráng của con người được tràn ra. Ðại tá Aurêlianô Buênđya, vốn lúc đầu
tiếp họ hờ hững và thậm chí còn hồ nghi một số người có quan hệ máu thịt với
mình, đã cùng vui với niềm vui sôi nổi của họ và trước khi họ ra đi ngài đã tặng
mỗi nhời một con cá vàng. Ngay đến cả Hôsê Accađiô Sêgunđô vốn ngạo đời, cũng
hiến cho bọn họ một buổi chiều chơi gà chọi mà tí nữa gây ra tai nạn, vì một số
trong số mười bảy anh em Aurêlianô này vốn là những tay sành sỏi trong các sởi
thi gà chọi, do đó mới thoáng nhìn cú đá đầu tiên họ đã lập tức phát hiện ra những
thủ đoạn ma quái của cha Antôniô Isaben. Aurêlianô Sêgunđô, đứng xem những người
anh em cùng chung một bát máu sôi nổi chơi những trò vui vô tận đầy lý thú, đã
quyết định mời mọi người ở lại làm việc với mình. Người duy nhất chấp nhận lời
mời là Aurêlianô Tristê, một thanh niên lai đen lực lưỡng vốn kế thừa được nhiệt
tình hăng say và lòng ham tìm tòi khám phá của ông nội, người từng nếm trải đủ
mọi gian truân ở khắp nới, do đó anh cho rằng mình sống ở đâu cũng vậy. Những
người khác mặc dù vẫn còn chưa vợ, đã tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Tất
cả đều là thợ thủ công thạo nghề, đều là trụ cột của gia đình, đều là dân hiền
lành. Ngày thứ tư Lễ tro, trước khi mỗi người một ngả đi khắp vùng duyên hải,
Amaranta tìm mọi cách để họ mặc quần áo đẹp ngày chủ nhật và đưa bà đi nhà thờ.
Thích thú hơn là sùng tín, họ đã để cho mình bị cuốn vào tận nơi làm lễ kiên
tin. Chính tại đây cha Antôniô Isaben đã lấy tro vạch một chữ thập lên trán từng
người. Về đến nhà, người nhỏ tuổi nhất muốn lau trán đã phát hiện ra vết tro
không thể rửa sạch được, rồi ngay sau đó, cậu phát hiện ra vết tro của các anh
cậu cũng không thể rửa sạch được. Họ thử lấy nước xà phòng, rồi lấy đất và bã cọ,
rồi lấy đá kỳ và dung dịch kiềm, vẫn không tài nào xoá được chữ thập trên trán
mình. Trái lại, Amaranta và những người khác đi dự lễ mixa đều dễ dàng chùi sạch
chữ thập ấy trên trán mình. “Chúng ra đi như vậy càng tốt.” - Ucsula nói. “Từ đây trở đi không một
ai có thể nhầm lẫn chúng”. Họ ồn ĩ ra đi trong tiếng pháo và âm nhạc đưa tiễn,
và để lại cảm giác rằng dòng họ Buênđya đã gieo giống ở khắp mọi nơi cho muôn đời.
Aurêlianô Tristê, với chữ thập xám màu tro trên trán, đã lập ở ngoài bìa làng một
nhà máy làm nước đá mà Hôsê Accađiô Buênđya từng mơ thấy trong những đam mê
sáng tạo của cụ.
Ở được mấy tháng,
nghĩa là khi đã là người quen thuộc và được mọi người trọng nể, Aurêlianô Tristê
đi tìm một ngôi nhà để đưa mẹ và cô em gái chưa chồng (vốn không phải là con
gái ngài đại tá) đến ở với mình và anh thích ngôi nhà cổ lỗ dường như bỏ hoang ở
phố gần quảng trường. Anh hỏi ai là chủ ngôi nhà ấy. Có người bảo anh rằng đó
là nhà vô chủ, rằng trước đây có một bà goá cô đơn chuyên ăn đất và vôi tường để
sống đã ở ngôi nhà này và rằng trong những năm cuối đời, người ta chỉ hai lần
nhìn thấy bà ra đường đội một chiếc mũ gài nhiều bông hoa giả nhỏ li ti và đi
đôi giày cũ màu bạc khi bà đi ngang qua quảng trường để đến bưu điện gửi thư
cho đức Giám mục. Người ta bảo anh rằng người bạn gái duy nhất của bà là một
người ở gái rất ác vẫn thường giết chó, giết mèo và bất kỳ con vật nào dám bén
mảng vào nhà, rồi vất xác chúng ra giữa đường cái khiến cả làng ngột ngạt trong
tù hôi xác con vật thối rữa. Kể từ độ mặt trời sấy khô bộ da con vật cuối cùng
bị ném ra giữa đường cái đến nay đã trải qua một thời gian rất dài, đến mức cả
làng thống nhất cho rằng bà chủ và người ở gái đã chết từ trước khi chiến tranh
kết thúc rất lâu, và nói rằng ngôi nhà vẫn còn đứng vững được là vì trong nhiều
năm gần đây chưa hề có một cơn lốc cũng như chưa có mùa đông ác nghiệt nào, các
bản lề cửa đã rời rã hết vì gỉ; những cánh cửa hầu như vẫn đứng yên được là nhờ
mạng nhện giăng chằng chịt, các cửa sổ vẫn bám vào nhau nhờ có hơi ẩm; nền nhà
nứt nẻ hết bởi cỏ và hoa dại mọc um tùm, và những kẽ nẻ này là nơi để thằn lằn
và đủ loại con vật ghê tởm làm tổ, tất cả những thứ đó dường như cùng phụ hoạ
nói lên rằng tại ngôi nhà này ít nhất là từ nửa thế kỷ nay không có ai sinh sống.
Aurêlianô Tristê, vốn thích mạo hiểm, không cần thêm nhiều bằng chứng. Anh lấy
vai khẽ đẩy cửa chính, thế là cái khung cửa gỗ đã mọt bỗng đổ xuống không hề
gây tiếng động trong một trận mưa bụi và cứt mọt. Aurêlianô Tristê đứng yên ở bậc
cửa đợi cho đến khi luồng bụi mù mịt bay đi hết, và lập tức anh nhìn thấy ngay ở
giữa phòng khách có một người đàn bà gầy guộc, vẫn ăn mặc theo mốt thế kỷ trước,
trên cái đầu trọc vẫn còn vương một vài mớ tóc hung, đôi mắt to vừa tắt đi những
tia sáng hy vọng vẫn còn đẹp, và da mặt nhăn nhúm lại bởi nỗi cô đơn chua xót.
Ðang hoảng hốt trước hình ảnh của con người đã thuộc về một thế giới khác,
Aurêlianô Tristê hầu như vẫn chưa hay rằng người đàn bà ấy đang chĩa nòng khẩu
súng lục cũ về phía mình ngắm bắn.
- Bà thứ lỗi cho. - Anh khẽ nói.
Bà ta đứng yên ngay
giữa phòng khách mù mịt bụi, chăm chú quan sát người đàn ông to lớn có tấm lưng
vuông vức, trên trán xăm bức hình cây Thánh giá màu xám tro, và qua làn bụi mù
mịt này bà lại thấy. anh trong một làn sương mờ thuộc một thời khác, khoác chéo
ngực một khẩu súng săn hai nòng và tay xách một xâu thỏ.
- Trời ơi? Vì tình
yêu thương của Thượng đế! - Bà
ta khẽ thốt lên. - Có lẽ nào giờ đây anh lại trở về với em bằng ký ức này?
- Thưa bà, cháu muốn
thuê ngôi nhà này ạ. - Aurêlianô Tristê nói.
Thế là người đàn bà
giương khẩu súng lên, nhắm thẳng vào chữ thập màu tro ở trán anh, rồi lên đạn một
cách kiên quyết.
- Xéo ngay! - Bà ra lệnh.
Ðêm ấy, trong lúc ăn
tối, Aurêlianô Tristê kể lại câu chuyện này cho cả nhà nghe, Ucsula bật khóc nức
nở. “Lạy Thượng đế thánh thần?” Hai tay ôm lấy đầu, cụ thốt lên. “Nó vẫn sống ư?”
Thời gian, chiến
tranh, những nỗi bất hạnh thường ngày nhiều vô kể đã khiến cụ quên khuấy
Rêbêca. Người duy nhất không lúc nào không ý thức rằng Rêbêca vẫn còn sống là
Amaranta già nua và ương bướng. Amaranta nghĩ đến Rêbêca vào lúc trời sáng khi
cơn băng giá của trái tim đánh thức bà dậy trên chiếc giường cô đơn, rồi nghĩ đến
Rêbêca khi bà xoa xà phòng lên bộ vú teo và cái bụng nhăn nheo, khi bà mặc đồ
lót của tuổi già, và khi bà thay tấm băng đen trên bàn tay mà bà đã tự mình
nhúng vào bếp đang rực than hồng để trừng trị mình.
Amaranta nghĩ tới
Rêbêca vào tất cả mọi giờ, dù ngủ hay thức, dù vui hay buồn, bởi vì nỗi cô đơn
đã buộc bà phải lựa chọn những kỉ niệm, phải đất bỏ hàng đống rác rưởi buồn nhớ
của cuộc đời đã dồn tụ lại trong trái tim mình, và mặt khác đã thanh lọc, đã
nâng cao, đã vĩnh hằng hoá những kỉ niệm khác, những kỉ niệm chua chát nhất của
đời mình. Qua bà, Rêmêđiôt - Người đẹp biết được sự tồn tại của Rêbêca. Cứ mỗi
bận họ đi qua ngôi nhà rách nát, bà kể cho cô cháu nghe về một sự kiện nhàm
chán, hay một câu chuyện ngụ ngôn tục tĩu, rồi thông qua hình thức này cố làm
cho cô cháu chia sẻ với mình nỗi hận thù đã nguội đi và do đó cố kéo dài nó cho
đến khi chết. Nhưng bà đã không thực hiện được các mực đích của mình, bởi vì
Rêmêđiôt - Người đẹp hoàn toàn ngây thơ trước mọi thứ tình cảm dễ xúc động và
hơn nữa cũng dửng dưng trước những tình cảm quá ư xa xôi đối với mình. Trái lại,
Ucsula, người từng chịu đựng sự dằn vặt khác hẳn với sự dằn vặt của Amaranta,
đã nhớ tới Rêbêca trong một kí ức thanh sạch hơn, bởi vì hình ảnh một con bé
đáng thương được người ta mang đến nhà cùng với tải hài cất của cha mẹ nó dã
chiến thắng đòn trừng phạt mà cụ thực hiện để không công nhận nó là thành viên
của gia đình mình. Aurêlianô Sêgunđô quyết định cần phải đưa bà về nhà để chăm
nom, nhưng thiện chí của anh bị thất bại vì tính cố chấp của Rêbêca, người đã đổi
bao năm tháng đau thương và nghèo túng để giành lấy quyền an hưởng trong cô
đơn, và đã không sẵn lòng từ bỏ nó để đổi lấy một tuổi già vui vẻ trong những
niềm vui giả tạo của cuộc đời lầm than hàng ngày.
Tháng hai, khi mười
sáu người con trai của đại tá Aurêlianô Buênđya trở lại nhà và trong lúc cuộc
vui đang náo nhiệt Aurêlianô Tristê đã nói với họ về Rêbêca và chỉ trong nửa
ngày, bọn họ đã khôi phục lại diện mạo ngôi nhà, thay cửa và cửa sổ, quét vôi bức
tường mặt tiền, chống đỡ các bức tường khác và láng xi măng lại nền nhà. Họ làm
tất cả ở nhà ngoài nhưng không được phép sửa sang ở nhà trong. Rêbêca không hề
ló mặt ra đến cửa. Bà để cho họ làm xong công việc sửa sang nhà cửa ồn ĩ ấy,
sau đó bà tính công và bảo Arhêniđa, bà hầu già vẫn ở với bà, mang ra cho họ một
nắm tiền, thứ tiền đã bị cấm lưu hành từ cuộc chiến tranh cuối cùng nhưng
Rêbêca cứ đinh mình tin rằng chúng vẫn còn tiêu được. Ðó là lúc bà biết được sự
xa lánh cuộc đời thực của mình đã đi đến đâu và bà hiểu rằng trong lúc mình còn
một hơi thở thì thật khó có thể tách mình ra khỏi sự tự giam hãm một cách cố chấp
trong ngôi nhà cô đơn này.
Trong chuyến viếng
thăm Macônđô lần thứ hai của các con trai đại tá Aurêlianô Buênđya, có một người
đã ở lại làm việc với Aurêlianô Tristê. Anh ta tên là Aurêlianô Xêntênô. Ðó là
một trong số những người đầu tiên tìm đến nhà để được đặt tên. Ucsula và
Amaranta nhận ra anh ngay vì chỉ trong ít giờ anh đã làm vỡ không biết bao
nhiêu đồ dễ vỡ khi anh đụng vào. Thời gian đã làm giảm đi sức phát triển cơ thể
lúc ban đầu của anh và giờ đây anh là người có tầm vóc trung bình, người đầy sẹo
đậu lào, nhưng khả năng đập phá của anh vẫn nguyên như cũ. Nhiều bát đĩa đã vỡ,
ngay cả khi anh chưa đụng phải chúng. Phecnanđa phải vội vàng chọn mua cho anh
một bộ đồ ăn bằng hợp kim để anh khỏi đập vỡ nốt những bộ đồ sứ đắt tiền của
nàng. Ngay cả những bát đĩa bằng kim loại này chỉ trong ít ngày cũng đã cái thì
sứt mẻ, cái thì méo mó. Nhưng ngoài tật hay làm vỡ bát đĩa vô phương khắc phục ấy
ra, anh là người chân thành rất mực đến mức ngay lập tức anh được mọi người tin
yêu và là người làm việc rất khoẻ. Chỉ trong thời gian ngắn, bằng sức lực của
mình anh đã làm cho việc sản xuất nước đá phát triển vượt quá nhu cầu thị trường
địa phương. Và do đó Aurêlianô Tristê nghĩ đến khả năng phải mở rộng kinh doanh
nước đá sang các làng khác thuộc vùng đầm lầy. Đó là lúc anh thai nghén bước
ngoặt quyết định không chỉ có ý nghĩa đôi với việc hiện đại hoá nhà máy của
mình mà còn có ý nghĩa đôi với sự nghiệp làm cho Macônđô gắn bó với phần còn lại
của thế giới.
- Cần phải mở đường
xe lửa đến tận đây. - Anh
nói.
Ðó là lần đầu tiên ở
Macônđô được nghe cái từ ấy. Ðứng trước bản vẽ do Aurêlianô Tristê vạch ra, và
nó là bản vẽ thừa kế trực tiếp những sơ đồ mà cụ Hôsê Accađiô Buênđya đã minh
hoạ cho kế hoạch sử dụng năng lượng mặt trời trong chiến tranh, Ucsula càng khẳng
định cảm giác của mình về thời gian đang quay vòng tròn. Nhưng khác hẳn với ông
nội mình, Aurêlianô Tristê không mất ngủ, không biếng ăn, không hay cáu giận thất
thường khiến người khác phải khổ tâm, mà trái lại anh hình dung rõ ràng các kế
hoạch, thấy chúng hiện ra như những khả năng trực tiếp, anh đặt những con tính
rành mạch về những tốn kém và những thời hạn xây dựng rồi cứ thế anh tính kỹ
càng không hề để lọt một khe hở đáng tiếc nào.
Aurêlianô Sêgunđô,
người dường như có thói không biết lo xa vốn thừa kế được từ cụ cố nội và tính
nết này lại không có ở đại tá Aurêlianô Buênđya, đã tung tiền ra một cách nông
nổi để làm đường xe lửa như trước đây đã tung tiền cho người anh mình làm đường
thuỷ thất bại. Aurêlianô Tristê xem lịch rồi ngày thứ tư tiếp đó đã lên đường để
kịp trở về sau mùa mưa. Từ dạo anh đi không hề có tin tức gì hơn. Aurêlianô
Xêntênô, sau khi đã làm cho sản phẩm nước đá quá ư thừa mứa bắt đầu thử làm nước
đá trên cơ sở nước hoa quả thay cho nước lã, và thế là do không biết và không
có ý định anh đã tìm được nguyên tắc cơ bản để làm kem và bằng hình thức này
anh nghĩ đến việc thay đổi phương thức sản xuất của một nhà máy mà anh đoán rằng
sẽ thuộc về mình, bởi vì người anh vẫn chưa để lộ dấu hiệu sẽ trở về sau khi đã
qua đi một mùa mưa, lại qua đi tiếp một mùa hè. Tuy nhiên, vào đầu một mùa đông
nữa, có một bà giặt rũ quần áo ở ngoài sông đang lúc oi bức nhất, đã chạy ngang
qua con đường trung tâm, vừa chạy vừa hớt hải kêu toáng lên trong trạng thái tâm
hồn hoàn toàn bị kích động:
- Làng nước ơi! - Bà
ta kêu. - Một con quái vật khủng khiếp giống như cái nhà bếp kéo theo cả một
làng đang đến kia kìa?
Trong lúc ấy, cả làng
rùng mình trước tiếng còi huýt dài vang động và tiếng thở xình xịch nặng nhọc của
đầu máy xe lửa. Những tuần lễ trước đây, dân làng đã nhìn thấy các đội công
nhân đang đặt tà vẹt và kéo đường ray nhưng không một ai để ý, bởi vì họ nghĩ rằng
đó chẳng qua là một trò ảo thuật mới của những người digan trở lại với kèn và lục
lặc thi nhau thổi và gõ để quảng cáo cho những phát minh kỳ tài của các bậc
thông thái người Giêrudalem. Nhưng khi đã hoàn hồn trước tiếng còi và tiếng
xình xịch của đầu máy xe lửa, toàn thể dân cư thị trấn Macônđô đổ ra đường và họ
nhìn thấy Aurêlianô Tristê từ trên đầu máy xe lửa vẫy chào mình, họ hào hứng
nhìn con tàu cắm đầy hoa trên các thành cửa sổ, lần đầu tiên đến được thị trấn
Macônđô sau tám tháng chậm trễ. Con tàu màu vàng thơ ngây có lẽ sẽ mang đến cho
Macônđô biết bao điều không chắc chắn và những điều sáng tỏ, biết bao lời phỉnh
nịnh và nỗi bất hạnh, biết bao biến động, đau khổ và nhớ mong.

