14. THỰC NGUYỆT NHÂN
THỰC NGUYỆT
NHÂN
Eragon
xoay vai khi đi trong trại của quân Varden, cố gắng chữa chứng ngoẹo cổ vì đấu
kiếm với Arya và Blödhgarm đầu chiều.
Khi
nó bước lên đỉnh một ngọn đồi nhỏ trông như một hòn đảo cô đơn giữa một rừng lều
bạt, nó chống tay lên hông và quan sát cảnh vật. Trước mắt nó là mặt nước hồ
Leona đen lấp loáng trong ánh chạng vạng và ánh đuốc vàng chiếu ra từ khu lều.
Varden đã hành quân trên con đường giữa khu lều và bờ sông: theo như Jeod bảo
nó, con đường đá cuội đó có trước khi Galbatorix giết chết các Kỵ sĩ. Cách đây
một phần tư dặm về phía bắc là một ngôi làng chài nhỏ ngay sát bờ sông. Eragon
thừa biết dân làng chẳng vui vẻ gì khi quân đội tới đóng quân ngay trên cửa ngõ
ra vào của họ.
Trò
phải học... nhìn những gì trò thấy.
Từ
khi rời khỏi Belatona, Eragon dành hàng giờ nghiền ngẫm lời khuyên của Glaedr.
Nó không biết ông rồng định nói gì, vì Glaedr không chịu nói thêm gì sau đó. Và
thế là Eragon đành tự mình suy diễn câu nói đó theo nghĩa đen. Nó đang thực sự
nhìn những gì trước mắt nó, dù cho thứ đó nhỏ và không đáng chú ý tới đâu, và cố
gắng hiểu xem câu nói của ông rồng có ngụ ý gì.
Dù nó
cố gắng lắm nhưng chỉ chuốc lấy thất bại. Dù nhìn thấy gì, thấy bao nhiêu nó vẫn
không nhìn ra thứ nó cần thấy. Tệ hơn, giờ nó còn chẳng hiểu gì, ví dụ như vì
sao khói lại bốc lên từ ba ống khói trong khu làng chài.
Dù nó
cảm thấy chưa hiểu gì nhưng những nỗ lực của nó ít nhất cũng thu về một thành
quả: Arya không còn có thể đánh bại nó trong mỗi lần giao chiến. Nó quan sát nàng
cẩn trọng gấp đôi, quan sát nàng như thể nàng là một con nai còn nó là kẻ săn mồi
– về cuối cùng, nó cũng thắng được vài hiệp. Nhưng, nó vẫn chưa ngang cơ với
nàng, vẫn kém nàng quá nhiều. Nó chưa biết nó cần học gì – hay ai có thể dạy nó
– để trở thành tay kiếm lão luyện như nàng.
Có lẽ
Arya nói đúng, kinh nghiệm là thầy dạy tốt nhất cho mình lúc này, Eragon nghĩ.
Cần có thời gian để đúc rút kinh nghiệm, nhưng mình lại đâu có nhiều thời gian.
Mình sắp tới Dras-Leona và rồi tớ Urȗ’baen. Nhiều nhất là vài tháng nữa
mình và mọi người sẽ phải đối mặt với Galbatorix và Shruikan.
Nó thở
dài và xoa mặt, cố nghĩ tới chuyện gì nhẹ nhàng hơn. Nhưng cuối cùng bao giờ nó
cũng quay lại nghĩ tới những chuyện nó khúc mắc trong lòng, lo lắng về những
chuyện đó nhưu một con chó nghĩ tới khúc xương, càng lúc càng căng thẳng.
Không
nghĩ thêm được gì, nó đi xuống đồi. Nó lang thang trong những căn lều dưới ánh
chiều chạng vạng, đi về phía lều của nó nhưng chẳng để ý gì tới đường đi. Đi bộ
lúc nào cũng giúp nó bình tĩnh. Những người đàn ông luôn luôn tránh đường cho
nó đi và đặt nắm tay lên ngực cùng một tiếng chào nho nhỏ, “Chào Khắc tinh của
tà thần,” còn Eragon lịch sự gật đầu đáp lễ.
Nó đi
bộ khoảng mười lăm phút, dừng lại và bắt đầu nghĩ ngợi thì nghe thấy một tiếng
phụ nữ la chói lói đầy hứng khởi. Nó tò mò đi về phía âm thanh phát ra cho tới
khi thấy một căn lều năm xa cách khu trại, gần gốc liễu khẳng khiu, cái cây duy
nhất gần hồ mà quân đội không đốn hạ làm củi đun.
Ở đó,
dưới những tán cây là một cảnh tượng kỳ lạ nhất nó từng thấy.
Mười
hai Urgal bao gồm cả thủ lĩnh của bọn họ, Nar Garzhvog, ngồi thành hình bán
nguyệt quanh đám lửa đang bập bùng cháy. Vẻ sợ hãi nhảy nhót trên gương mặt họ,
khắc họa rõ nét hàng lông mày rậm, xương gò má rộng và quai hàm lớn cũng như những
chóp sừng trên trán và cong xuống hai bên đầu. Urgal để trần tay và ngực, trừ một
bao da quanh cổ tay và một dải vải da đeo chéo vai xuống eo. Trừ Garzhvog còn
có ba Kull nữa hiện diện. Kích thước khổng lồ của họ khiến cho những Urgal còn
lại – không ai dưới mét tám – trở nên nhỏ như một đứa bé.
Lẫn
trong đám Urgal, là vài tá mèo ma ở lốt thú. Rất nhiều con mèo ngồi thẳng trước
đống lửa, im lìm, không quật đuôi, tai dựng đứng. Những con khác nằm bò trên mặt
đất, trong lòng Urgal hoặc nằm trên tay họ. Eragon kinh ngạc khi thấy một con
mèo ma – một con mèo trắng cái gầy nhẳng – nằm cuộn tròn trên đầu một Kull,
chân trước của nó đặt lên một bên sương xọ hắn và móng bấu chặt vào lông mày.
Dù mèo ma nhỏ bé hơn Urgal nhưng chúng cũng dữ đằn tương tự và Eragon biết nó cần
dè chừng tộc nào hơn; nó hiểu Urgal nhưng mèo ma thì... thật khó đoán.
Đối
diện với chúng, ở bên kia đống lửa, phía trước khu lều là bà lang Angela. Bà ngồi
khoanh chân trên một chiếc chăn và quay sợi. Cả mèo ma và Urgal đều chăm chú
nhìn bà, không dời mắt nghe bà nói: “...nhưng hắn quá chậm và con thỏ mắt đỏ giận
dữ đã xé toạc cổ họng Hord, giết chết hắn ngay lập tức. Sau đó con thỏ chạy tọt
vào rừng, không ai còn biết tới nó nữa. Nhưng” – nói tới đây Angela hạ thấp giọng
– “nếu các người đi qua khu rừng đó, như tôi từng có dịp... thi thoảng, thậm
chí trong ngày hôm nay, các người sẽ thấy một con nai vừa mới bị giết hoặc một
Feldȗnost trông như thể bị nhấm nháp ăn dần, như một cây củ cải. Và quanh nó,
các người sẽ thấy những dấu chân thỏ lớn khác thường. Thi thoảng một chiến binh
của Kvôth sẽ mất tích, khi người ta tìm thấy thì hắn ta đã chết với cổ họng bị
xé toạc... luôn luôn trong tình trạng cổ họng bị xé toạc.
Bà chỉnh
lại tư thế ban đầu. “Terrin rất buồn vì mất bạn và cậu ta muốn bắt được con thỏ
nhưng những người lùn vẫn cần sự giúp đỡ từ cậu. Vì thế cậu ta trở lại thành
lũy và vì thành đã bị vây hãm trong ba ngày ba đêm, nguồn lương thực cạn kiệt
và binh lính đều bị thương.
“Cuối
cùng, vào buổi sáng ngày thứ tư, khi tưởng như đã hết hy vọng, những đám mây tản
ra và từ xa, Terrin ngạc nhiên nhìn thấy Mimring bay tới thành dẫn đầu một trận
sấm rồng. Cảnh tượng về những con rồng khiến những kẻ công thành vô cùng hoảng
sợ và họ ném vũ khí bỏ chạy vào rừng sâu.” Bà Angela cong môi. “Đó, như các người
có thể tưởng tượng ra những người lùn của Kvôth vui mừng như thế nào.
“Khi
Mimring đậu xuống, Terrin ngạc nhiên nhìn thấy những vẩy trên người nó sáng như
kim cương vì Mimring bay quá gần mặt trời – để dẫn đường cho những con rồng
khác, nó phải lượn qua lượn lại trên đỉnh núi Beor, cao hơn bất cứ con rồng nào
trước và sau đó. Từ đó trở đi, Terrin trở thành anh hùng trong Trận chiến
Kvôth, và con rồng của cậu mang tên Mimring Rực rỡ vì lớp vảy trên người và họ
sống hạnh phúc mãi mãi. Nhưng, đúng ra mà nói, Terrin luôn luôn bị ám ảnh bởi
lũ thỏ cho tới lúc già. Và đó là chuyện thực sự xảy ra với Kvôth.”
Sau
đó bà im lặng, bầy mèo ma rên rừ rừ và Urgal gầm gừ vài tiếng tán thưởng.
“Bà kể
rất hay, thưa Uluthrek,” Garzhvog nói, giọng nói của ông ta như thể đá lăn từ
núi xuống.
“Cám
ơn.”
“Nhưng
đó không phải câu chuyện tôi từng được nghe,” Eragon nhận xét khi bước về phía
đống lửa.
Biểu
hiện trên khuôn mặt Angela sáng lên. “Ừ, cậu đừng mong những người lùn thừa nhận
họ được con thỏ tha mạng chứ. Cậu trốn trong bóng tôi nghe lỏm toàn bộ à?”
“Không,
chỉ vài phút thôi,” nó thú nhận.
“Vậy
thì cậu đã bỏ qua phần hay nhất rồi, và tối nay tôi sẽ không kể lại đâu. Cổ họng
tôi khô rát rồi.”
Eragon
cảm thấy mặt đất rung lên khi Kull và các Urgal khác đứng dậy khiến lũ mèo ma nằm
trong lòng họ không vui, vài con còn gào lên phản kháng khi rơi xuống đất.
Khi
nó nhìn những khuôn mặt có sừng xấu xí tập trung quanh đống lửa, nó phải kìm lắm
mới không rút kiếm. Kể cả sau một thời gian chiến đấu, hành quân và đi săn cùng
Urgal thậm chí trao đổi tư tưởng cùng vài kẻ trong số họ, sự hiện diện của họ vẫn
khiến nó ngỡ ngàng. Nó hiểu họ là quân đồng minh, nhưng xương cốt và cơ bắp vẫn
không thể nào quên đi sự kinh hoàng thấm sâu trong người nó khi chiến đâu với đồng
bọn của họ trong những trận chiến.
Garzhvog
bỏ cái gì đó ra từ cái túi da nhỏ đeo trên thắt lưng. Ông ta đưa bàn tay dày
cui qua đổng lửa, đưa vật đó cho Angela lúc đó đang hạ con suốt xuống và nhận lấy
vật đó. Đó là một pha len màu xanh nước biển thô ráp trông rống như bông tuyết
bị đông cứng sáng lấp lánh. Bà bỏ nó vào ống tay áo rồi cầm con suốt lên.
Garzhvog
nói, “Thi thoảng bà phải tới lều của chúng tôi đó Uluthrek và chúng tôi sẽ kể
cho bà nghe rất nhiều câu chuyện của chúng tôi. Chúng tôi có người kể chuyện.
Anh ta rất khá; khi bà nghe anh ta ngâm câu chuyện về chiến thắng của Nar
Tulkhqua tại Stavarosk, máu bà sẽ sôi lên và bà sẽ thấy như mình đang tru lên
dưới ánh trăng và đấu sừng với những kẻ thù mạnh nhất.”
“Điều
này còn tùy thuộc anh có sừng để đấu không chứ,” Angela nói. “Tôi rất vinh hạnh
được ngồi nghe chuyện với anh. Có lẽ tối mai đi?”
Kull
khổng lồ đồng ý; sau đó Eragon hỏi. “Stavarosk ở đâu? Tôi chưa bao giờ nghe.”
Urgal
rì rầm không vui và Garzhvog hạ đầu khụt khịt như một con bò đực. “Anh đùa gì
thế, Hỏa kiếm?” ông ta hỏi. “Anh muốn thách thức chúng tôi sao?” Ông ta đóng mở
nắm tay thể hiện rõ ý đe dọa.
Eragon
đề phòng nói, “Tôi không có ý xúc phạm, thưa Nar Garzhvog. Tôi thành thực có ý
hỏi vậy; tôi chưa bao giờ nghe tới cái tên Stavarosk.”
Những
tiếng rầm rì ngạc nhiên vang lên giữa các Urgal. “Sao lại có thể?” Garzhvog nói
“Không phải con người nào cũng biết về Stavarosk sao? Không phải những con người
ở phía bắc rặng Beor luôn nói về chiến thắng lớn nhất của chúng tôi sao? Nếu
các nơi khác không biết thì quân Varden chắc chắn biết.”
Angela
thở dài và không thèm nhìn lên nói. “Tốt nhất anh phải bảo bọn họ kể thôi.”
Eragon
cảm thấy Saphira đang quan sát và nó biết cô sắp sửa bay tới nếu cuộc ẩu đả là
không thể tránh.
Nó cẩn
trọng lựa chọn từ ngữ và nói, “Không ai kể cho tôi nghe, nhưng vì tôi không ở
cùng Varden lâu nên...”
“Drajl!”
Garzhvog chửi thề. “Kẻ phản bội không có sừng thậm chí không có đủ dũng khí thừa
nhận thất bại. Hắn là kẻ hèn nhát và dối trá!”
“Ai?
Galbatorix à?” Eragon cẩn trọng hỏi.
Những
con mèo rít lên khi nghe nhắc tới tên bạo chúa.
Garzhvog
gật đầu. “Đúng. Khi hắn lên nắm quyền, hắn đã đuổi cùng giết tận loài chúng
tôi. Hắn đã gửi một đội quân lớn tới núi Spine. Binh lính của hắn đã xông vào
làng của chúng tôi, đốt xương chúng tôi và để lại mắt đất đen sì và nỗi cay đắng
ở lại sau. Chúng tôi đã đánh trả - lúc đầu vì vui, sau là trong tuyệt vọng,
nhưng vẫn chống trả. Đó là điều duy nhất chúng tôi có thể làm. Chúng tôi không
có chốn dung thân, không có chỗ trốn. Ai sẽ bảo vệ Urgalgra khi các Kỵ sĩ đã
ngã xuống?
“Chúng
tôi may mắn. Chúng tôi có một thủ lĩnh tài ba, Nar Tulkha. Ông ấy từng bị loài
người bắt giữ, từng dành nhiều năm chiến đấu với họ nên hiểu cách nghĩ của họ.
Vì thế, ông có thể tập hợp rất nhiều bộ tộc lại. Sau đó ông lừa quân đội của
Galbatorix vào trong một khe núi hẹp và chúng tôi từ trên ném gỗ xuống. Đó là một
trận chiến đẫm máu đó Hỏa kiếm. Máu chảy lênh láng, người chất thành đống cao
hơn đầu tôi. Cho tới ngày hôm nay, nếu anh tới Stavarosk, anh vẫn cảm thấy
xương kêu răng rắc dưới chân và có thể tìm thấy những đồng tiền, kiếm và những
mảnh áo giáp dưới lớp rong rêu.
“Hóa
ra là các người!” Eragon reo lên. “Cả đời tôi từng nghe nói Galbatorix đã từng
mất một nửa số quân lính trong rặng Spine nhưng không ai nói cho tôi biết vì
sao hay thế nào.”
“Hơn
một nửa số lính đấy Hỏa kiếm.” Garzhavog xoay vai và gầm gừ trong họng. “Và giờ
tôi thấy chúng ta cần lan truyền câu chuyện đó để mọi người đều biết về chiến
thắng của chúng tôi. Chúng tôi sẽ tìm những người kể chuyện, những thi sĩ loài
người, dạy họ bài hát về Nar Tulkhqua và đảm bảo họ nhớ rằng phải hát thường
xuyên và hát lớn.” Ông gật đầu như thể đã quyết ý rồi nói, “Tạm biệt, Hỏa kiếm.
Tạm biệt, Uluthrek.” Sau đó ông ta và những chiến binh biến mất trong bóng tối.
Angela
tặc lưỡi khiến Eragon giật mình.
“Gì
thế?” nó hỏi và quay lại nhìn bà.
Bà mỉm
cười. “Tôi đang tưởng tượng ra cảnh mấy tay thổi sáo tội nghiệp sẽ thế nào
trong vài phút nữa khi về lều, thấy mười hai Urgal, bốn Kull đứng ngoài, vui vẻ
dạy anh ta về văn hóa của Urgal. Tôi sẽ ấn tượng nếu chúng ta không nghe tiếng
hét đó.” Bà lại tặc lưỡi.
Eragon
cũng hứng thú tượng tự. Nó ngồi xuống dùng một cành cây gẩy đống than củi. Nó cảm
nhận một vật nặng nề ấm áp trong lòng, khi nhìn xuống nó thấy con mèo ma trắng
cuộn tròn trên chân. Nó đưa tay vuốt lông nó rồi nghĩ ngợi gì đó lên tiếng hỏi.
“Có được không?”
Con
mèo trắng vẫy đuôi phớt lờ nó.
Hy vọng
mình không làm gì sai, Eragon cẩn trong gãi gãi cổ sinh vật. Một lát sau, một
tiếng rừ rừ to vang lên.
“Cô ấy
thích cậu,” Angela nhận xét.
Không
hiểu vì sao Eragon lại thấy cực kỳ phấn chấn. “Cô ấy là ai thế ạ? Ý tôi là, cô
tên gì? Tên cô là gì?” Nó liếc nhìn con mèo ma lo lắng mình khiến cô mèo phật
ý.
Angela
cười. “Tên cô ấy là Thợ săn đêm. Hay đúng hơn, đó là nghĩa tên cô ấy dịch ra từ
ngôn ngữ mèo ma. Đúng hơn, cô ấy là.” Nói tới đây, bà lang húng hắng ho, âm
thanh đó khiến Eragon dựng tóc gáy. “Thợ săn đêm là vợ Grimrr Nửa vuốt, có người
nói cô ấy từng là nữ hoàng của loài mèo ma.”
Tiếng
rừ rừ cáng lúc càng lớn.
“Tôi
hiểu.” Eragon nhìn quanh những con mèo ma khác. “Solembum đâu?”
“Đang
bận đuổi theo một con mèo vằn bằng nửa số tuổi của cu cậu. Cậu ta hành động như
thể mèo con ấy... nhưng dù sao trong đời ai chẳng có một lần ngốc nghếch.” Bà
lang giữ quay xa bằng tay trái, dừng nó lại và đưa một sợi bông mới vào đĩa sợi.
Sau đó và tiếp tục xe sợi. “Có vẻ cậu có nhiều câu hỏi đó, Khắc tinh của tà thần.”
“Mỗi
khi tôi gặp bà, tôi luôn luôn cảm thấy càng lúc càng mông lung.”
“Luôn
luôn? Cậu chuyên chế nhỉ. Được rồi, tôi sẽ cố trả lời xem. Hỏi đi.”
Thấy
bà ta cởi mở, Eragon cân nhắc nên hỏi gì trước. Cuối cùng nó hỏi, “Một cơn sấm
rồng? Ý bà là…”
“Đấy
là cụm từ đúng để chỉ một đàn rồng. Nếu cậu có cơ hội nghe tiếng chúng vỗ cánh,
cậu sẽ hiểu. Khi mười, mười hai hoặc nhiều hơn bay trên đầu cậu, cậu sẽ thấy
không khí rền rĩ xung quanh cậu như thể cậu đang ngồi trong một cái trống cỡ cực
đại. Không thì cậu gọi một đàn rồng là gì? Cậu goi là một bầy quả, một đội đại
bàng, một đàn ngỗng trời, một lũ vịt, một đàn chim giẻ cùi, một bầy cú, v.v...
nhưng còn rồng thì sao? Một sự đói khát chắc? Không được. Không thể gọi chúng
là một ngọn lửa hay nỗi sợ, dù ta thích từ nỗi sợ, Nhưng không, một đàn rồng gọi
là một cơn sấm. Cậu sẽ biết nếu như cậu có thời gian đầu tư vào sách vở hơn là
mua kiếm và vài từ bằng ngôn ngữ cổ.”
“Chắc
chắn là bà đúng,” nó nói. Qua mối liên kết luôn hiện hữu giữa nó và Saphira, nó
biết cô nàng đồng ý với cụm “một cơn sấm rồng.” Nó cũng nghĩ như vậy vì so sánh
như thế rất hợp lý.
Nó
cân nhắc một lúc lâu hơn rồi hỏi, “Sao Garzhvog lại gọi bà là Uluthrek?”
“Đó
là danh xưng Urgal đã đặt cho ta từ rất lâu, từ hồi ta sống cùng họ.”
“Nghĩa
là gì?”
“Thực
nguyệt nhân.”
“Thực
nguyệt nhân? Tên lạ nhỉ? Sao bà lại có tên đó?”
“Ta
ăn mặt trăng chứ còn làm sao nữa?”
Eragon
nhíu mày và quan tâm vào việc vuốt ve con mèo ma trong chốc lát. “Sao Garzhvog
lại đưa bà viên đá?”
“Vì
ta kể chuyện cho hắn. Rõ ràng thế còn gì.”
“Nhưng
viên đá đó là gì?”
“Một
mẩu đá. Cậu không thấy sao?” Bà kêu khục khục vẻ không tán đồng. “Cậu thật sự
nên để ý tới những gì xung quanh hơn. Nếu không sẽ có ngày có người cầm dao đâm
cậu khi cậu không để ý. Nếu cậu chết tôi sẽ nói những điều bí ẩn của tôi cho
ai?” Bà hất tóc. “Tiếp đi. Tôi rất thích chơi trò này.”
Cậu
nhướn lông mày và dù biết câu hỏi vô nghĩa, nhưng vẫn hỏi, “Chiếp chiếp?”
Bà
lang cười váng lên và vài con mèo ma mở miệng nở một nụ cười đầy răng. Nhưng Thợ
săn đêm có vẻ không hài lòng vì cô ta cắm móng lên chân Eragon khiến nó nhăn mặt.
“Ờm,”
Angela vừa cười vừa nói, “nếu cậu phải có câu trả lời thì tôi sẽ kể cho cậu
nghe một câu chuyện hay ho. Xem nào... Vài năm trước khi ta đi lang thang dọc
biên giới phía tây Du Weldenvarden, cách xa các thành phố, làng mạc, thị trấn.
Ta tình cờ gặp Grimrr. Lúc đó cậu ta chỉ là một thủ lĩnh một bộ tộc nhỏ và còn
đủ móng vuốt. Lúc đó tôi gặp cậu ta đang đua với một con sáo non rơi từ tổ xuống.
Tôi sẽ không để ý nếu cậu ta giết và ăn nó – mèo nào chẳng làm thế - nhưng cậu
ta hành hạ con vật tội nghiệp: giang cánh nó ra, cắn đuôi nó, làm què chân nó rồi
đè ngửa nó ra. Angela nhăn mũi khó chịu. “Tôi nói rằng cậu ta phải ngừng lại
nhưng cậu ta gào trả và lờ tôi đi.” Bà nhìn Eragon bằng ánh mắt lạnh lùng. “Tôi
không thích mọi người lờ tôi. Vì thế tôi lấy con chim và chỉ tay niệm thần chú.
Thế là trong một tuần, cứ hễ cậu ta mở mồm ra là lại kêu như chim.”
“Ông ấy
kêu chiếp chiếp á?”
Angela
gật đầu. “Tôi chưa bao giờ cười đau ruột tới vậy. Không một con mèo ma nào dám
lại gần cậu ta trong một tuần.”
“THể
nào ông ấy ghét bà.”
“Thế
đã sao? Nếu cậu không có kẻ thù, cậu là kẻ hèn nhát – có khi còn tệ hơn. Nhưng
nhìn thấy phản ứng của cậu ta cũng đáng. Ôi, cậu ta đã rất tức giận!’
Thợ
săn đêm gừ nhẹ cảnh cáo và co vuốt lại lần nữa.
Đau,
Eragon nói. “Có lẽ tốt hơn chúng ta nên chuyển đề tài.”
“Ừm.”
Trước
khi nó nghĩ ra một câu hỏi mới, một tiếng thét lớn vang lên từ trong khu trại.
Tiếng thét vang lên ba lần trước khi tất cả rơi vào im lặng.
Eragon
nhìn Angela và bà nhìn nó rồi cả hai bật cười.