Nữ Thần Báo Tử (Tập 3) - Chương 10
Chương 10
BUỔI TỐI THỨ TƯ hôm ấy
đúng là địa ngục trần gian.
Chúng tôi tiếp tục sơn
các gian hàng cho tới tận tối mịt. Anh Nash và tôi vừa tranh thủ ăn bánh mỳ vừa
làm bài tập về nhà cho ngày hôm sau. Rồi tôi thiếp đi trên ghế sô-pha, đầu gối
lên đùi anh Nash trong khi trong khi anh ngồi xem mấy bộ phim hành động cũ, đợi
bố tôi về.
Khi cửa trước đóng cái
rầm, tôi giật mình tỉnh dậy và quay lại thấy bố đang nhìn chằm chằm xuống mặt
tôi, giận đến nỗi không thốt nên lời. Có vẻ như tư thế ngủ gục-đầu-trên-đùi-bạn-trai
này không nằm trong danh sách chấp nhận của bố.
Làm sao tôi biết được
chứ?
Nhưng khi tôi òa khóc
giải thích với bố rằng tôi không dám ngủ một mình vì sợ sẽ lại tỉnh dậy trong
thế giới Cõi Âm, nét mặt cau có giận dữ của bố dịu dần thành một cái nhíu mày đầy
cảm thông, và rủ tôi ra ngoài phòng khách ngủ cùng bố hôm đó, để giải tỏa nỗi
lo sợ của cả hai bố con. Như thế, nếu tôi bắt đầu cất tiếng thét bố sẽ có thể
đánh thức tôi dậy trước khi tôi đi sang đầu bên kia.
Một bữa tiệc ngủ ngoài
phòng khách với bố nghe có vẻ hơi trẻ con, nhưng tôi sẵn sàng thử bất cứ cách
gì, miễn sao giữ lại chân tôi lại thế giới này.
Đáng tiếc, cái kế hoạch
ấy của bố nghe có vẻ rất hay về mặt lý thuyết, nhưng khi áp dụng vào thực tế lại
không đem lại hiệu quả như kỳ vọng.
Đến tầm nửa đêm thì bố
tôi đã ngáy khò khò trên chiếc ghế bành, đầu nghiêng sang một bên. Trong khi
hai mắt tôi vẫn mở thao tháo hai tiếng sau đó, nằm xem hết tập này đến tập khác
phim Judge Judy (Thẩm phán Judy), kể
cả chương trình giới thiệu sản phẩm về thuốc-chống-rụng-tóc-cho-nam. Tôi không
sao thả lỏng toàn thân để ngủ được. Tôi quá sợ hãi khi nghĩ đến cảnh lại thức dậy
giữa cánh đồng lúc mì sắc như dao, trên đôi chân trần, với cái giọng khan dục,
và không thể cử động nếu không muốn da thịt bị xén vụn như các tài liệu tối mật
quốc gia.
Vì thế, sau hai mươi
phút nằm xem các ông già xịt thuốc-mọc-tóc lên đầu, tôi đứng dậy đi vào phòng
ngủ thay sang quần bò, áo dài tay, tất bông dày cộp và đôi khủng nhất chỉ dành
cho những ngày tuyết rơi. Sau khi khoác nốt lên người chiếc áo bông chần màu
đen bác Val tặng tôi hồi Giáng sinh năm ngoái, tôi rón rén quay lại phòng khách
và nằm xuống ghế, cuối cùng cũng thấy an tâm hơn để đi ngủ.
Như thế, nếu chẳng may
có bước qua bên kia, ít nhất tôi cũng được ấm và trang bị đầy đủ để chống lại những
lưỡi dao sắc nhọn đó.
Tôi thậm chí đã tính đến
chuyện chạy ra ngoài sân lấy cái nắm thùng rác cũ – cái mà bố con tôi vẫn thường
dùng để vứt lá khô – nhưng nghĩ thế nào lại thôi, bởi vì tôi sợ làm bố thức giấc
và đặt thêm nhiều câu hỏi hơn.
Cuối cùng, sau khi đã
chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống xấu nhất có thể xảy ra, tôi đã thiếp đi được
khoảng bốn tiếng, nhưng rất chập chờn, thỉnh thoảng lại giật mình tỉnh giấc. Đến
khoảng tầm sáu giờ sáng thì tôi tỉnh hoàn toàn. Biết rằng dù có cố nằm cũng
không thể ngủ thêm được nữa, tôi đành tự đứng dậy đi vào trong bếp, với hy vọng
bình cà phê tự pha lần đầu tiên của mình sẽ không đến nỗi quá tệ.
Tôi tắm rửa và thay quần
áo xong đã thấy bố đang đứng trong bếp, trên đôi chân trần. ‘‘Cũng không tệ.’’
– bố giơ cốc cà phê lên – ‘‘Lần đầu tiên con pha đấy hả?’’
Tôi thở dài ngồi phịch
xuống ghế, giơ tay kéo cao đôi tất cọc cạch lên. ‘‘Vâng’’. Tôi cố nặn ra một nụ
cười gượng gạo, nét mặt đầy mệt mỏi. Không hiểu lát nữa làm sao tôi có thể sống
sót nổi qua giờ Lịch sử, khi mà đến cả việc tìm một đôi tất cùng màu trong rổ
quần áo sạch cũng không làm được.
Về khoản này tôi phải
phục bác Val sát đất. Lúc nào bác ấy cũng gấp quần áo gọn ghẽ cho mọi người…
‘‘Tối nay cô Harmony và
bác Brendon sẽ qua nhà mình để bàn bạc về vấn đề của con. Để xem có cách nào lý
giải khác không về chuyện đã xảy ra với con.’’ – bố tôi ngừng lại, rót cà phê
vào cốc cho tôi – ‘‘Bố đã không hề nghe thấy tiếng hát của con.’’ – Đó là cách
các bean sidhe nam nghe được tiếng
khóc của các bean sidhe nữ - ‘‘Liệu
điều đó có nghĩa là con không hề mơ về cái chết không?’’
Tôi lắc đầu, đưa tay
day day hai bên thái dương, ‘‘Con đã nằm mơ giống như lần trước. Nhưng may mà bị
cái quảng cáo nhí nhéo trên TV làm cho tỉnh giấc trước khi tiếng thét bắt đầu.’’
Bố nhíu mày, đặt cốc cà
phê xuống bàn. ‘‘Bố có thể gọi điện tới trường xin nghỉ ốm cho con, nếu con muốn
ở nhà và xin nghỉ ngơi.’’
‘‘Cảm ơn bố nhưng con
phải đi.’’ – tôi đưa cốc cà phê lên miệng và thổi cho đỡ nóng, trước khi nhấp một
ngụm đáng ghét – ‘‘Hôm nay là buổi ôn thi giữa kỳ.’’ – Nhưng đó chỉ là cái cớ,
còn nguyên nhân thực sự vẫn là tôi cần phải có mặt ở đó để canh chừng anh Scott
và anh Doug. Và cả Emma và chị Sophie nữa, xem họ có biểu hiện gì không ổn
không – ‘‘Hơn nữa, dù là ban ngày hay ban đêm thì con vẫn hoàn toàn có thể nằm
mơ tới cái chết, đúng không bố?’’
‘‘Ừ, bố nghĩ thế.’’ – Bố
đặt tay nhẹ lên lưng tôi, mặt đầy lo lắng – ‘‘Hãy cẩn thận nhé Kay. Bố không thể
đi theo con vào Cõi Âm và cho tới khi bố tìm được ai đó dắt mình theo…’’ – hiển
nhiên là cô Harmony rồi – ‘‘…thì có lẽ con đã biến mất rồi.’’
Tôi gật đầu và cắn chặt
môi để không buột miệng nhắc cho bố nhớ rằng ngoài việc làm tổn thương cái
thanh quản ra, tôi hoàn toàn có thể tự thoát khỏi Cõi Âm bằng đúng cái cách tôi
đã đi vào. Dù gì thì tôi cũng đã làm chuyện đó mấy lần rồi.
Nhưng linh tính mách bảo
tôi: Lời nhắc nhở ấy sẽ chẳng thể nào khiến bố an tâm hơn.
TÔI THA THẨN TRONG TRƯỜNG,
vật vờ như một cái bóng, chẳng khác gì anh Scott. Tôi đã ngủ gật suốt cả giờ tự
học và ngủ một mạch đến tận lúc chuông báo vào tiết sau, làm suýt chút nữa thì
muộn học.
Trước giờ ăn trưa, anh
Nash kể với tôi là anh Scott hôm nay đi học muộn 20 phút, quần áo thì xộc xệch,
lại còn mang nhầm sách giáo khoa. Chưa hết, anh ấy còn bật cười phá lên khi thầy
Pierson nói về ảnh hưởng của thị trường chứng khoán Mỹ lên nền kinh tế toàn cầu.
Khi thầy Pierson hỏi lý
do vì sao anh ấy cười, anh Scott đã giải thích: Tại cái bóng của thầy đang giơ
ngón tay thối chửi thầy.
Một nửa lớp cười ồ lên
hưởng ứng theo anh Scott, vì tưởng anh ấy đang phê thuốc – thứ thuốc có xuất xứ
từ thế giới loài người – hoặc đang trêu chọc thầy Pierson. Một câu đùa mà có lẽ
chính bản thân họ cũng không hiểu. Nửa còn lại quay ra nhìn như thể anh ấy đang
bị mất trí – điều tôi e rằng đang trở thành sự thật. Chúng tôi đã đợi quá lâu
và anh Scott cũng đã lún quá sâu. Giờ anh ấy đang sống trong cái thế giới riêng
của mình và dù rất đau đớn nhưng tôi càng lúc càng tin rằng điều anh Nash nói
hôm trước là đúng: Chúng tôi không thể chữa khỏi cho anh Scott.
Đến bữa trưa, anh Scott
nhất quyết không chịu ngồi cùng chúng tôi – hay bất kì ai khác trong căng-tin.
Anh ấy cứ đứng lì trước bàn bọn tôi, mắt dáo dác nhìn giữa cái bàn và dãy cửa sổ
cao vút chạy dọc căn phòng, nơi có bóng của các học sinh đang đổ dài trên bức
tường đối diện. Anh nhìn chằm chằm vào mặt từng đứa, rồi chuyển sang mấy cái
bóng trên tường phía sau, lẩm bẩm nói chuyện một mình. Anh ấy nói gì đó về chuyện
bị theo dõi, rồi đột nhiên giơ tay lên che mắt, xoay một vòng 180 độ và phi thật
nhanh ra khỏi căng-tin, bỏ mặc chị Sophie, đám bạn – và mọi người trong phòng –
đứng ngẩn tò te nhìn theo.
Trong khi mấy cô bạn
phá lên cười chế giễu hình ảnh vừa rồi của bạn trai, chị Sophie chỉ biết lầm
lũi đi theo hội bạn tới cái bàn quen thuộc, mặt khổ sở không sao tả hết.
Tôi gần như đã tội nghiệp
cho chị ấy, chỉ gần như thôi.
Anh Nash và tôi vột đuổi
theo anh Scott ra ngoài hành lang, phớt lờ những ánh mắt tò mò của mọi người,
nhưng anh ấy đã biến mất. Chúng tôi đi từng phòng học tìm anh, các vòng xoáy
trong mắt anh Nash đang xoay tròn cùng nỗi sợ hãi, sự ân hận, và mặc cảm tội lỗi.
Tôi rất hiểu cảm giác bây giờ của anh. Nếu chúng tôi chịu kể chuyện này ra sớm
hơn – ngay cái đêm anh Doug đâm phải xe tôi – có lẽ anh Scott đã không bao giờ
chạm tay được vào Hơi thở của Quỷ.
Đang chạy đến cuối hành
lang, đột nhiên tôi thấy có bóng chuyển động ngoài bãi để xe. ‘‘Anh ấy đang ra
xe ô tô.’’ Tôi nói, và anh Nash gật đầu, sau đó nhướn mày chờ đợi ý kiến của
tôi. Hầu hết các cánh cửa đều tự động khóa bên ngoài. Nếu giờ hai đứa theo anh
Scott ra bãi để xe, lát nữa sẽ phải cuốc bộ một vòng quanh tòa nhà và đi vào
qua đường văn phòng hoặc căng-tin, giống như lần chúng tôi lấy trộm quả bóng
bay đầu tiên của anh.
Tôi nhún vai và đẩy
cánh cửa ra, khẽ rùng mình trước cơn gió lạnh đột ngột ùa vào mặt. Nhưng một
chút lạnh đó có thấm gì so với cái lạnh mà anh Scott đang phải trải qua.
Anh Nash đi theo tôi ra
ngoài, vừa đi vừa co ro khoanh hai tay lại trước ngực để giữ ấm. Chúng tôi tiến
tới chỗ đậu xe thường ngày của anh Scott và nhận ran gay con xe thể thao mui trần
đang đậu bên hông trái phòng tập. Anh Scott đang ngồi sau tay lái, chốc chốc lại
lắc đầu, điệu bộ như đang quát tháo ai đó.
Rõ ràng bệnh tình của
anh ấy đang tiến triển từ hoang tưởng đến nói chuyện với chính ảo giác của
mình.
Không lẽ trông tôi cũng
điên như vậy khi bị trói trên giường trong bệnh viện, vào cái ngày tôi không ngừng
cất tiếng hát cho linh hồn của một người lạ mặt nào đó?
‘‘Đi thôi em.’’ Anh
Nash nắm lấy tay tôi và chúng tôi chạy qua bãi đỗ xe tới chỗ anh Scott. Nhưng ngay
khi vừa nhìn thấy hai đứa tụi tôi, anh lập tức vặn chìa khóa khởi động máy và gạt
sang số Lùi. Cái cản sau đâm sầm vào xe đằng sau, nhưng anh mặc kệ, vẫn tiếp tục
dí ga cho xe lao vút ra khỏi bãi.
Anh Nash và tôi thấy vậy
liền chuyển hướng, vừa chạy vừa lục tìm chìa khóa trong túi. Buổi học ngày thứ
Năm của chúng tôi coi như đã kết thúc. Chúng tôi không thể để anh Scott lái xe
khắp thành phố trong tình trạng không tỉnh táo như thế này được. Tôi bấm nút mở
khóa xe từ xa và anh Nash đã nhanh chân chui tọt vào trong xe trước cả tôi. Tôi
thận trọng lùi xe ra khỏi bãi – vẫn chưa quen với chiều dài của con xe đi mượn
này – sau đó nhấn ga đuổi theo anh Scott.
‘‘Anh nghĩ cậu ấy đi về
nhà.’’ Anh Nash vội thắt dây an toàn và chống một tay lên phía trước, lúc tôi đột
ngột rẽ phải ngay khi đèn vừa chuyển sang màu đỏ. Ơn Chúa, hướng ngược lại
không có ai.
Nhưng anh Scott đã
phóng vút đi ngay ở nhịp đèn vàng tiếp theo, còn tôi bị tắc lại sau chiếc ô tô
giao pizza. Lúc chúng tôi đến được tới nhà anh Scott thì đã thấy xe anh ấy nằm
ngang giữa lối đi, cánh cửa bên ghế lái vẫn mở toang nhưng người thì không thấy
đâu. Tôi tắt máy và cất chìa khóa vào trong túi, sau đó chạy theo anh Nash vào
trong sân.
Tôi cứ đinh ninh rằng cửa
nhà anh Scott sẽ khóa cơ, ai dè chỉ cần đẩy nhẹ một cái là được. Anh Nash dẫn
tôi vào trong cái phòng khách sang trọng và sạch sẽ, như chưa từng có buổi tiệc
cuối tuần trước.
‘‘Scott ơi?’’ Anh Nash
gọi, nhưng không thấy có tiếng trả lời. Chúng tôi đã tìm khắp phòng chiếu phim,
phòng bếp, phòng ăn, phòng giặt là và hai phòng ngủ dành cho khách, trước khi mở
cửa phòng làm việc của ông Carter – bố anh Scott - ở cuối hành lang.
Căn phòng tắt đèn tối
om, hai cái rèm cửa sổ cũng được đóng kín mít và phải mất một lúc mắt tôi mới
thích ứng được với bóng tối trong này.
‘‘Đóng cửa lại!’’ Anh
Scott hét ầm lên và tôi giật thót mình khi thấy anh giơ một tay lên che cái ánh
sáng đang rọi vào từ ngoài hành lang. Anh Nash vội đẩy tôi vào và nhẹ nhàng
khép cửa lại, cắt phụt đi phần lớn nguồn sáng trong phòng, làm tôi phải đợi để
mắt thích ứng một lần nữa với bóng tối.
Anh Scott đang ngồi co
ro trên chiếc ghế sô-pha bọc da màu nâu và khi anh Nash tiến lại gần, anh ta bắt
đầu thì thào như đang tụng kinh.
‘‘Không ánh sáng, không
bóng râm. Không ánh sáng, không bóng râm…’’
Hai cánh tay tôi đột
nhiên nổi hết da gà, mặc dù hệ thống sưởi trong căn phòng vẫn đang hoạt động
bình thường.
‘‘Có chuyện gì thế hả
Carter?’’ – anh Nash đang ngồi xổm xuống trước mặt cậu bạn thân, một tay vịn
vào tay ghế giữ thăng bằng – ‘‘Ánh sáng làm mắt cậu đau à? Cậu có bị đau đầu
không?’’
Anh Scott không trả lời,
chỉ tiếp tục lẩm bẩm, hai mắt nhắm nghiền.
‘‘Em nghĩ anh ấy sợ những
cái bóng.’’ Tôi nhớ lại ánh mắt kinh hoàng của anh Scott lúc nhìn thấy mấy cái
bóng của chúng tôi lúc trong căng-tin khi nãy và cái bóng của chính anh ở hành
lang chiều hôm trước.
‘‘Có đúng thế không?’’
– anh Nash hỏi, mặt đầy căng thẳng và sợ hãi – ‘‘Có chuyện gì không ổn với cái
bóng của cậu à?’’
‘‘Nó không còn là của
mình nữa rồi.’’ Anh Scott thì thào nói, giọng anh ấy bỗng trở nên lanh lảnh giống
như giọng của một đứa trẻ con mới biết nói. Anh giơ tay đấm thật mạnh vào đầu,
như thể làm vậy có thể xua tan được những gì đang nghe, đang nhìn thấy –
‘‘Không phải cái bóng của mình.’’
‘‘Vậy thì cái bóng đó của
ai?’’ Tôi hạ giọng hỏi, tuy sợ nhưng vẫn có chút tò mò.
‘‘Của hắn. Hắn đã đánh
cắp nó.’’
Tiết lộ vừa rồi của anh
Scott khiến toàn thân tôi nổi hết da gà.
‘‘Ai đá đánh cắp nó hả
Scott?’’ Anh Nash bối rối hỏi lại.
‘‘Giống như Perter Pan.
Bắt Wendy khâu cái bóng của mình trở lại…’’
Tôi liếc nhìn anh Nash,
trong khi anh Scott ngây người với đôi mắt nhắm nghiền, đầu nghẹo sang một bên,
giống như chú chó con đang đợi tiếng huýt gió mà con người không thể nghe thấy
được. Rồi đột nhiên anh mở mắt ra và nhìn thẳng vào mặt anh Nash. ‘‘Cậu lấy dùm
mình một lon soda được không Hudson? Hình như mình vẫn chưa ăn trưa.’’ Việc giọng
nói của anh Scott đột nhiên thay đổi, trở lại bình thường khiến tôi sợ không
kém gì cái tiếng trẻ con khi nãy, và tôi hoảng hốt quay ra nhìn anh Nash. Nhưng
anh chỉ gật đầu và đứng dậy.
‘‘Em nhớ để mắt đến cậu
ấy.’’ Anh nói thầm và khẽ siết chặt tay tôi lúc đi ra cửa, không quên khép cửa
lại, chỉ để mở hé vài phân.
Thật lòng không thoải
mái khi phải nhìn anh Scott trong tình trạng man dại như thế này, tôi quay đầu
ngó nghiêng xung quanh phòng và thầm ngưỡng mộ cái giá sách khổng lồ kê đằng
sau bàn làm việc của bố anh Scott.
‘‘Em có thể xem.’’ Anh
Scott nói, làm tôi giật nảy mình mặc dù đã cố tỏ ra bình tĩnh.
‘‘Cái gì ạ?’’
‘‘Em thích đọc sách
đúng không?’’ – anh nghiêng đầu sang một bên – ‘‘Trong đó có nhiều quyển cực hiếm
đấy. Thậm chí còn là ấn bản đầu tiên luôn.’’
Tôi ngập ngừng, nhưng
trông anh có vẻ đã bình tĩnh lại, tôi đi vòng qua bàn làm việc tới chỗ giá
sách, và ngay lập tức bị thu hút bởi cái gáy sách cũ kĩ của cuốn tiểu thuyết Người tình đầu tiên, người yêu sau cùng
(Tess of the d’Urbervilles). Nó nằm tít trên ngăn thứ hai từ trên xuống và
tôi đã phải kiễng lên mới với tới được.
Đột nhiên, tôi nghe thấy
tiếng cạch cửa và ánh sáng ít ỏi trong phòng vụt tắt, mặc dù rất khẽ nhưng với
tôi nó không khác gì tiếng sấm rền bên tai. Tôi hốt hoảng quay ra nhìn và thấy
anh Scott đang đứng lù lù cạnh cách cửa giờ đang đóng chặt, miệng lẩm bẩm câu
gì đó không rõ ràng.
Tim tôi như muốn rớt ra
khỏi lồng ngực, mạch máu chảy nhanh như dòng nước lũ. ‘‘Anh Scott? Có chuyện gì
thế?’’
Anh Scott vụt ngửng đầu
lên, bồn chồn nhìn về phía tôi. Tiếng lầm bầm của anh càng lúc càng to, giống
như đang tranh cãi với ai vậy, nhưng tôi không thể luận ra chuyện gì. Anh Scott
lắc đầu quầy quậy, giống như lúc ở trên xe ô tô. ‘‘Em có nghê thấy tiếng hắn ta
không?’’
Tôi dò dẫm, lần từng bước
tới chỗ cái bàn ngăn cách giữa anh và tôi. ‘‘Nghe ai cơ hả anh Scott? Anh đã
nghe thấy những gì?’’
“Hắn
nói em không thể nghe thấy tiếng của hắn.” – anh Scott nói tiếp, mắt nhìn chằm
chằm về phía tôi – “Không, không, không, không…”
Tôi
nhích lại gần anh Scott, cố gắng nói bằng giọng bình tĩnh nhất có thể, “ Anh
nghe thấy giọng nói của ai?”
“Hắn.
Không thể nhìn thấy hắn trong bóng tối, nhưng anh vẫn nghe thấy tiếng hắn.
Trong. Đầu Anh!” – anh chỉ tay vào thái dương, gằn từng tiếng – “Hắn đã đánh cắp
cái bóng của anh. Nhưng anh vẫn nghe thấy tiếng của hắn…”
Toàn
thân tôi run lên bần bật, mồ hôi vã ra như tắm. Không lẽ anh Scott thực sự nhìn
thấy ai đó mà chúng tôi không thể? Nghe thấy những thứ chỉ ta anh mới nghe được?
Sauk hi quen anh Tod, tôi biết khả năng đó là hoàn toàn có thể…
Nhưng
chuyện này không hề giống việc làm của một thần chết. Thần chết không thể đánh
cắp cái bóng của người khác. Có không nhỉ?
Anh
Scott đảo mắt nhìn sang hai bên, như thể muốn tìm kiếm chuyển động của một ai
đó. Tôi sững người lại, mặt tái nhợt. Tôi biết cái chuyển động đó. Tôi cũng đã
làm diều tượng tự khi ghé mắt nhìn vào Cõi Âm. Khi cố tìm kiếm những sinh-vật-nghe-thấy-nhưng-không-nhìn-thấy
đang lướt đi trong màn sương mù dày đặc.
Anh
Scott có nhìn thấy màn sương đó không? Có nhìn thấy những sinh vật đó không? Ai
đó bên Cõi Âm đang nói chuyện với anh ấy ư?
Khônggg. Không thể nào!
Gai ốc trên người tôi giờ đã nở to nhưng những vết muỗi đốt.
“Hắn
ta đang nói gì thế anh?” Giờ tôi chỉ còn cách anh Scott độ hai mắt. Khi nào anh
Nash quay lại, tôi sẽ nhìn thử vào Cõi Âm xem sao. Để loại trừ khả năng anh
Scott đang nghe và nhìn thấy những thứ ở thế giới bên kia. Cái thế giới mà bản
thân anh ấy có lẽ cũng không hề biết về sự tồn tại của nó.
Bởi vì nếu những sinh vật
kia đã không thể đi qua bên này thì làm sao có chuyện nói xuyên sang đây được?
Đúng không nhỉ?
Anh Scott ngẩng mặt lên
và mỉm cười nhưng là nụ cười thật khó gọi tên. Một nụ cười mà ta thường thấy ở
các bệnh nhân bị ung thư khi họ phát hiện ra rằng việc hóa trị không đáng để phải
chịu đựng sự hành hạ của những cơn đau đớn và buồn nôn. Sau cùng, họ quyết định
từ bỏ và bình thản đón nhận cái chết. ‘‘Hãy đưa anh tới chỗ hắn. Hắn sẽ chữa khỏi
cho anh nếu em chịu dắt anh tới đó.’’
Nỗi sợ hãi khiến các mạch
máu trong tôi như đông cứng lại. Tôi vội lùi lại ra đằng sau, trong khi anh
Scott từ từ tiến về phía tôi. ‘‘Đưa anh đi đâu mới được chứ?’’
‘‘Tới
đó.’’ – anh Scott day day hai bên thái dương, như thể muốn
làm dịu bớt cơn đau – ‘‘Tới chỗ của hắn. Hắn nói em biết cách vượt qua bên
đó.’’
Vượt qua ư? Ôi không!
Tôi nhắm chặt mắt lại và hít một hơi thật sâu.
Kẻ giấu mặt kia đang muốn
tôi đưa anh Scott sang thế giới Cõi Âm.