Cô Lâu Quái Kiệt - Hồi 18 - Phần 1

Hồi 18: Một tia sáng nhỏ

Những tia sáng cuối
cùng của bón tà dương, tô lên nền trời một ánh vàng rực rỡ...

Trong bóng hoàng
hôn lù mù dưới chân Thiên Hà Lãnh, thấp thoáng có hai bóng người đang ôm chầm
lấy nhau, đầy âu yếm.

Tình yêu đang tràn
ngập, đang nóng bỏng. Hai con tim đang hòa nhịp và đang bay lâng lâng trên nền
trời yêu đương, đang nhấp nhô giữa biển tình.

Thời gian trôi
qua... trôi qua chẳng biết bao lâu, và bỗng nghe từ trong làn gió đêm vọng đến
một giọng nói như mơ rằng:

– Tỷ tỷ thân mến,
hôm ấy chị bỏ đi mà không nói chi cả, làm cho tôi cuống quít cả lên. Tại sao
chị lại đến nơi đây như thế? Mau nói cho tôi được biết đi nào.

– Ồ. Mà không được,
đệ đệ phải nói trước cho tôi được biết trong mấy ngày hôm nay đệ đệ đã làm gì?

Một đôi tình nhân
đang thầm thì với nhau là ai thế? Người con trai ấy chính là Gia Cát Ngọc, vừa
từ Huyết Hải Địa Khuyết trở ra và người con gái chính là Tư Đồ Uyển vừa trải
qua một tai nạn kinh hoàng.

Gia Cát Ngọc bất
đắc dĩ, phải đem mọi việc làm của mình, nói đại lược qua cho Uyển cô nương nghe
xong, thì cô ta mới cười duyên dáng nói:

– Hận Phác Thư Sinh
đã dẫn đường cho đệ đệ, vậy y chẳng có nói chi cho đệ đệ biết hay sao?

– Nói cho tiểu đệ
biết? Vậy có lý đâu tỷ tỷ cũng có gặp anh ấy nữa hay sao?

– Ờ. Chẳng những
gặp anh ấy, mà lại còn làm phiền rất nhiều cho anh ấy nữa. Hôm đó sau khi đệ đệ
bỏ đi, tôi vì thiếu đề phòng, nên đã bị đối phương lẻn từ phía sau chế ngự
huyệt đạo...

Gia Cát Ngọc vừa
nghe đến đó, thì không khỏi kinh hoàng, sốt ruột ngắt lời hỏi:

– Uyển tỷ tỷ, thế
tại sao chị không gọi tôi?

Uyển cô nương đưa
mắt lườm chàng một lượt, nũng nịu nói:

– Rõ là ngốc. Huyệt
đạo của tôi đã bị người ta chế ngự rồi, vậy làm sao có thể mở miệng được nữa.

– Như thế... Như
thế thì làm sao?

– Ha ha, đệ đệ ngốc
của tôi ơi. Giờ đây dù đệ đệ có cuống quít cũng vô dụng rồi.

Gia Cát Ngọc không
khỏi phì cười nói:

– Ồ, phải đấy. Tiểu
đệ thực quá hồ đồ mất. Thế rồi sau đó làm sao nữa?

– Sau đó thì đối
phương kẹp lấy tôi nhảy lên mình ngựa, bỏ chạy bay đi. Độ sau một khoảng thời
gian chừng dùng xong một bừa cơm, thì đã đến một sơn cốc. Chừng ấy, đối phương
mới thả tôi xuống, cất tiếng cười gian manh, rồi thò bàn tay ra...

Gia Cát Ngọc nghe
đến đấy, liền buột miệng kêu “Hừ” lên một tiếng lạnh lùng, nói:

– Uyển tỷ tỷ, cái
quân vô lễ ấy là ai thế?

– Lúc bấy giờ, ngay
đến đôi mắt tôi cũng không thể mở ra, do đó, không thể nhận rõ là ai được.
Nhưng, nghe qua giọng cười của hắn, thì rất giống tên bất lương Tích Hoa Công
Tử.

– Tích Hoa Công Tử? Hắn...?

Uyển cô nương ngắt lời nói tiếp rằng:

– Giữa lúc tôi đang hết sức cuống quít, thì bỗng Hận Phác Thư
Sinh xuất hiện. Chỉ trong vòng ba hiệp, Hận Phác Thư Sinh đã đánh ngã tên dâm
tặc ấy xuống đất, điểm thẳng vào đại huyệt “thất tàn” của hắn, phế trừ võ công
của hắn đi, rồi mới thả cho hắn được trở xuống núi.

Gia Cát Ngọc thở phì ra một hơi dài, nói:

– Thực là đáng đời. Xử trị những tên dâm tặc ấy, thì phải dùng
những cực hình đó mới được.

Nói đến đây, chàng dừng lại trong giây lát, rồi mới tiếp rằng:

– Sau đó, Hận Phác Thư Sinh bèn giải trừ huyệt đạo cho tỷ tỷ
rồi trao tỷ tỷ cho Băng Tâm Ma Nữ, mang về Huyết Hải Địa Khuyết phải không?

Tư Đồ Uyển nghe qua thì không khỏi chu nhọn đôi môi đỏ, nũng
nịu nói:

– Cái chi là Băng
Tâm Ma Nữ? Tôi nào có trông thấy cô ta ở đâu, lại càng không hề có bị đưa vào
Huyết Hải Địa Khuyết. Nơi đây chính do Hận Phác Thư Sinh đưa tôi đến kia mà.

Nói đến đây thì
nàng dừng lại, làm cho Gia Cát Ngọc không khỏi nghĩ ngợi miên man.

– Băng Tâm Ma Nữ đã
bão chính cô ấy đã ra tay bảo vệ sự trong trắng cho Uyển tỷ tỷ, vậy lời nói ấy
có nghĩa làm sao? Hận Phác Thư Sinh là ai? Tại sao người ấy lại ra tay tương
trợ cho ta?

Chàng suy tới nghĩ
lui, thì liền đặt ra một giả thuyết tương đối hữu lý nhất, ấy là, Hận Phác Thư
Sinh chính là thủ hạ của Băng Tâm Ma Nữ. Băng Tâm Ma Nữ vì muốn bắt mình phải
trả lại quyển Huyết Hải Cửu Cung Đồ nên mới xuống lệnh cho Hận Phác Thư Sinh ra
tay thi ơn cho chàng như vậy...

Thế nhưng, trong ấy
cũng còn nhiều điểm khó hiểu, ấy là cô ta đã được quyển Huyết Hải Cửu Cung Đồ
rồi, tại sao còn xúc phạm đến giới luật của tổ chức, cho đưa mình ra khỏi Huyết
Hải Địa Khuyết?

Chàng bèn đem những
nghi vấn ấy ra bàn với Uyển tỷ tỷ, nhưng cô gái vốn có cá tính tế nhị này, vẫn
không làm sao đoán ra được dụng ý của anh chàng Hận Phác Thư Sinh đầy thần bí
kia.

Mặt trời đã lặn
hẳn, bốn bề côn trùng không ngớt kêu rả rít.

Khung mặt hiền từ
của người hiền mẫu, bỗng hiện rõ lên trong tâm khảm của chàng. Bởi thế, tất cả
những nghi vấn đang làm chàng băn khoăn, đều tan biến đi như một làn khói mỏng,
tản mác trong chiều gió đêm.

Trong khi trăng vừa
nhô lên khỏi núi, thì bọ họ bèn rời khỏi Thiên Hà Lãnh.

Ba hôm sau, họ đã
tiến vào vùng đất thuộc tỉnh An Huy, và tiến đến dưới chân núi Đại Biệt Sơn.
Lúc ấy, họ đã đi vừa vặn nửa tháng đường.

Vào bữa trưa ngày
hôm đó, hai người đả đi đến một thị trấn nhỏ. Trong khi họ mới bước vào thị
trấn, liền trông thấy một lão già ăn mày mắt to mày rậm, đang bước những bước
khấp khểnh đi ngược chiều đến trước mặt họ. Tại phía sau lưng của người ăn mày
ấy độ mười trượng, có một vị tăng nhân mặc áo xám, tuổi trên dưới ngũ tuần,
đang bám sát theo.

Bước chân của hai
người đều vững vàng mạnh mẽ, tựa hồ như họ đều là người trong võ lâm. Gia Cát
Ngọc tuy ngoài mặt làm vẻ như không hề trông thấy, nhưng thật sự, thì chàng lại
thầm để ý rất kĩ về mọi hành động của họ.

Chỉ trong chớp mắt,
là đối phương đã đi đến gần kế bên chàng. Lão già ăn mày ấy bỗng nhếch môi
cười, rồi hạ giọng nói:

– Trước khi mặt
trời lặn, xin thiếu hiệp đến tại từ đường họ Trương ở phía Đông thị trấn này để
gặp nhau, vì vãn bối đang có việc cần bẩm lại.

Lão già ăn mày tóc
đã bạc hoa râm ấy, mà tự xưng là “vãn bối” thì thực làm cho Gia Cát Ngọc hết
sức kinh ngạc.

Trong khi chàng còn
đang ngơ ngác, thì lão già ăn mày ấy đã lướt nhanh qua khỏi chàng. Tiếp đó,
bỗng lại nghe một tiếng “Hừ” khẽ đầy lạnh lùng, rồi thấy bóng vị tăng nhân áo
xám kia, quay người tẻ vào một ngõ hẻm đi mất.

Gia Cát Ngọc là một
con người hết sức thông minh, nên đứng trước hiện tượng lạ lùng đó, đã đặt ra
rất nhiều nghi vấn để tìm hiểu, và như chàng đà đoán ra, biết lão già ăn mày tự
xưng là vãn bối kia, chắc chắn là người của Thiết Chỉ Cái lão ca ca phái đến.
Còn vị tăng nhân áo xám nọ...?

Vừa nghĩ đến tăng
nhân áo xám ấy, thì chàng không khỏi giật nẩy mình, đôi vai khẽ lắc, nhanh nhẹn
tràn về phía trước đuổi theo trên mười bước...

Hành động của chàng
không phải là kém nhanh nhẹn, nào ngờ đâu khi chàng vừa tràn người đến đầu hẻm,
thì tung tích của vị tăng nhân áo xám đã mất hút tự bao giờ.

Gia Cát Ngọc cất
tiếng cười nhạt, định sẽ đi thẳng vào ngõ hẻm ấy, để tìm hiểu cho rõ mọi sự
thực...

Nhưng, bất ngờ Tư
Đồ Uyển đã nhanh nhẹn lướt tới chặn lấy chàng lại, rồi khẽ quát rằng:

– Rõ là ngốc. Sớm
muộn gì rồi cùng còn gặp mặt đối phương nữa, giờ đuổi theo hắn ta làm chi?

Gia Cát Ngọc lộ vẻ
ngạc nhiên, nói:

– Còn gặp lại nữa?
Uyển tỷ tỷ, chị muốn nói ai thế?

– Chẳng phải đệ đệ
muốn gặp vị hòa thượng ấy hay sao?

– Đúng vậy, nhưng lão
ta đã bỏ đi mất hút rồi, chốc nữa đi đâu để tìm gặp lão ta được?

– Ha ha, hòa thượng
bỏ đi nhưng chùa vẫn còn đó, vậy chẳng cần tìm kiếm làm gì, rồi đây lão ta cũng
sẽ tự trở về kia.

– Chùa? Tỷ tỷ biết
chùa của lão ta ở đâu?

– Từ đường họ
Trương, ở phía Đông thị trấn này, chẳng phải cũng là một cái chùa hay sao? Chốc
nữa đây, khi đệ đệ và lão già ăn mày ấy đến gặp nhau tại đó, thì còn sợ chi tên
giặc trọc ấy không tìm tới nơi?

Gia Cát Ngọc nghe
qua thì cũng đã bừng hiểu, nên bật cười thành tiếng.

Hai người vào trong
thị trấn tìm đến hiệu ăn để ăn uống và nghỉ ngơi trong giây lát, rồi bèn sánh
vai nhau, đi thẳng về hướng Đông của khu thị trấn này.

Ngôi từ đường họ
Trương tọa lạc tại một khu vườn hoang phế cách xa thị trấn độ chừng vài ba dặm
đường. Vì nơi đây là một vùng hoang tàn, nên bình nhật ít có ai lui tới.

Lúc bấy giờ vừng
kim ô đã lặn về Tây, lão ăn mày quần áo rách rưới kia, cũng đang bước hối hả
giữa sương chiều đi đến nơi. Khi lão ta đã tiến tới trước cửa khu vườn, bèn
ngửa mặt nhìn lên nền trời hoàng hôn, cất tiếng cười ha hả nói:

– Thì giờ hãy còn
sớm, chỉ e phải độ nữa giờ sau bọn họ mới đến đây?

Hai tiếng bọ họ mà
lão ta nói, lẽ tất nhiên là muốn ám chỉ Gia Cát Ngọc và Tư Đồ Uyển. Nào ngờ câu
nói vừa dứt, thì bỗng nghe từ phía sau lưng của lão ta, có một tiếng niệm Phật
vang rền rằng:

– A Di Đà Phật. Thí
chủ chẳng ngờ được, là bần tăng đã chờ đợi tại đây từ lâu rồi.

Lão già ăn mày quay
mặt ngó lại, thì trông thấy tại phía sau lưng mình, có một vị hòa thượng trên
dưới ngũ tuần đang đứng sững, nên liền ngửa mặt cười to:

– Ha ha. Này đại
hòa thượng, người đàng hoàng thì không nói quanh co, suốt mấy ngày hôm nay ông
vẫn bám sát theo hóa tử tôi là có ý định gì thế?

Sắc mặt của vị hòa
thượng ấy, lạnh lùng không có một tí tình cảm, nói:

– Người xuất gia
thì không khi nào nói dối. Tiểu tăng đây muốn thanh toán cùng thí chủ một mối
duyên lành.

– Khá khá. Đại hòa
thượng, như vậy kể ra ông cũng tìm đến một địa điểm thích hợp lắm. Nhưng chẳng
hay ông muốn thanh toán chiếc áo “bách cửu y” chống mưa gió này của tôi, hay
muốn thanh toán đôi giày “Thiên trân hài” đi xa nghìn dặm của tôi vậy?

– A Di Đà Phật. Hai
vật ấy đều là bảo vật trong Cái Môn của ông, tiểu tăng đâu dám có lòng thèm
muốn nó?

– Ồ. Lão hóa tử ta
đã biết rồi, có lẽ là thân người ông đang ngứa ngáy, nên muốn lão hóa tử ta nện
cho ít cây gậy đánh chó vào người, phải không? Này hòa thượng, vậy ông hãy mau
quay lưng lại, để lão hóa tử ta chiều ý cho ông được vừa lòng.

Lão già ăn mày cất
giọng nói oang oang đầy vẻ hài hước. Dứt lời, lão ta lại vung chiếc gậy đánh
cho trong tay lên mấy lượt, làm cho vị tăng nhân nọ bực tức đến đôi mày dựng
đứng, đôi mắt giương to, cất tiếng hừ lạnh lùng nói:

– Quả là một gã ăn
mày thối, chỉ giỏi nói bá láp. Những phật gia ở Thiếu Lâm Tự, chẳng phải là
người dễ hiếp đáp đâu? Ông định nói chi với thằng bé ấy, nên sớm khai thực ra,
nếu có một lời nào gian dối, thì chớ trách Phật gia đây tại sao lại siêu độ cho
ngươi quá sớm đó.

Lão già ăn mày nghe
thế, không khỏi ngửa mặt cười như điên dại nói:

– Này hòa thượng
kia, kẻ khác thì kiêng sợ phái Thiếu Lâm các ông chứ Sách Hồn Quái Khuất tôi
chẳng hề xem các ông vào mắt đâu. Hôm nay nếu muốn dùng lời lớn lối để mạt sát
người, thì đấy là ông lầm rồi.

Vị hòa thượng ấy
bất thần tràn tới ba bước, gằn giọng quát rằng:

– Lão ăn mày thối
kia, ngươi nói chi thế?

Sách Hồn Quái Khuất
cười ha hả nói:

– Lão trọc kia. Ta
bảo ông có mắt mà không tròng, ông đã nghe rõ chưa?

– Khá khen cho lão
ăn mày thối. Ngươi đã có ý tìm lấy cái chết, thì Phật gia ta cũng sớm đưa ngươi
lên đường vậy.

Nói dứt lời, vị hòa
thượng ấy vừa vung đôi chưởng lên, đánh ra liên tiếp ba thế võ.

Lão ta đã sử dụng
“La Hán Quyền”, gây thành một luồng kình lực vô cùng mạnh mẽ, nên mặt dù lão ta
mới vừa đánh ra, là đã nghe kình phong cuốn tới ào ào, hết sức khủng khiếp.

Sách Hồn Quái Khuất
cũng chẳng phải là hạng người không tên tuổi, chỉ nhìn qua trên áo của lão ta
có vá năm mảnh vải to, cũng đủ biết lão ta là một cao thủ bậc nhất trong Cái
Bang rồi. Bởi thế, lão ta cất tiếng cười nhạt, rồi vung chiếc gậy đánh chó
trong tay lên, xử dụng ngay thế “Bạch hạc lược xí”, là một thế kiếm chớ không
phải là thế gậy, công trả lại đối phương.

Khi thế chưởng và
thế gậy va chạm vào nhau, thì vị hòa thượng ấy cất tiếng hừ lạnh lùng, giương
thẳng năm ngón tay, kình phong bắn vèo vèo, nhắm ngay chiếc gậy đánh chó của
đối phương lướt xuôi xuống, rồi chụp thẳng vào cổ tay của Sách Hồn Quái Khuất.

Thế võ ấy, chính là
một thế tuyệt học của phái Thiếu Lâm, gọi là thế “Phản uyển tróc nguyệt”,
chuyên dùng để bắt sống đối phương trong đường “Đại cầm nả thủ”.

Nên biết đường “Đại
cầm nả thủ” của phái Thiếu Lâm, chỉ có mấy vị cao tăng trong Thiếu Lâm Tự là
được biết mà thôi. Giờ đây, vị hòa thượng này chẳng những biết sử dụng, mà sử
dụng rất thành thuộc, chứng tỏ sự tập rèn khá cao sâu.

Như thế, cũng đủ
thấy địa vị của lão ta trong Thiếu Lâm Tự không phải là thấp.

Sách Hồn Quái Khuất
trông thấy thế, không khỏi giật mình, nhanh nhẹn đưa chân lách tránh, rồi rùn
vai xuống vung tay ra, hối hả công trả ba thế gậy và đánh ra hai chưởng, mới
phá vỡ được thế công ấy của đối phương.

Vị hòa thượng kia
qua thế võ vừa rồi đã chiếm được phần chủ động, nên liền nhanh nhẹn tràn tới,
vung mạnh đôi tay, công ra liên tiếp năm thế võ nữa, nhanh nhẹn như một ngọn
gió lốc.

Sách Hồn Quái Khuất
không còn dám khinh địch nữa, nên đã vận dụng toàn lực, vung cả gậy lẫn chưởng
đánh ra cùng một lúc.

Dưới ánh sáng mờ tỏ
của buổi hoàng hôn, hai bóng người không ngớt nhảy lên rơi xuống, giằng co với
nhau mãi không phân thắng bại.

Cả hai đều là cao
thủ, nên khi họ đánh nhanh, thì không khác nào một luồng điện chớp, bóng người
chập chờn vun vút. Và, khi họ đánh chậm, thì lại cẩn thận nhìn nhau chòng chọc,
bước chân e dè, di động từng bước một, lưu lại trên đất những dấu chân sâu hàng
năm tấc.

Sách Hồn Quái Khuất
lúc bấy giờ đem hết tâm thần ra thủ thế trong khi vị hòa thượng kia cũng chẳng
hề dám lơ là. Đôi bên cách nhau độ tám thước, bốn mắt nhìn thẳng vào nhau đăm
đăm, đưa chân bước từng bước một, xoay tròn chung quanh một vùng đất trống.

Tình trạng ấy kéo
dài độ dùng xong một chén trà, thì bỗng Sách Hồn Quái Khuất quát lên một tiếng,
vung gậy lên là tràn người tới, bóng gậy chập chờn dày đặc như núi, nhắm điểm
thẳng vào chín đại huyệt bên phía phải của vị hòa thượng.

Thế võ của lão ta
hết sức lợi hại, trong khi kình lực lại hết dồi dào, cuốn tới ồ ạt khiến đôi
phương phải kinh khiếp.

Vị hòa thượng ấy
bèn thét lên một tiếng dài, vung ngược đôi cánh tay vọt người bay thẳng lên nền
trời như một con rồng, rồi lại vung tròn hai chưởng, gây thành bóng chưởng dày
đặc, bắt từ trên đầu của Sách Hồn Quái Khuất chụp trở xuống.

Thế chưởng ấy thực
hết sức quái dị, chẳng những bóng chưởng chập chờn nơi nơi, mà lại còn có những
tia lửa xanh nhảy múa như những con đom đóm.

Sách Hồn Quái Khuất
vừa đánh hụt vào khoảng không, thì trong lòng không khỏi sợ hãi, nhưng chưa kịp
lui về để biến thế vỏ khác là đã bị rơi vào vòng chưởng của đối phương.

Bởi thế, lào ta
liền gắng gượng xử dụng thế võ “Khô thọ sinh hoa” để đỡ lại.

Nào ngờ đâu thế võ
chưa kịp đánh ra, thì đã cảm thấy cổ tay bị tê buốt, vì năm ngón tay của đối
phương, đã siết chặt lấy cổ tay của lão rồi...

Mạch cổ tay là một
huyệt đạo quan trọng trong thân thể con người, nên lúc ấy vị hòa thượng kia vận
dụng chân lực siết mạnh, thì Sách Hồn Quái Khuất nếu chẳng bị thiệt mạng, thì
cũng tất bị trọng thương...

Giữa cơn hiểm nguy
như chỉ mành treo chuông ấy, thì bất thần nghe có một tiếng vọng cười nhạt vang
rền, rồi tiếp đó lại có kình phong rít vèo vèo, bay nhanh đến công thẳng vào
năm đại huyệt trước ngực của vị lão hòa thượng nhanh như một luồng điện xẹt.

Người vừa đến ấy
đánh ra thật là lợi hại, vì trong khi luồng kình phong ấy còn xa ba thước, thì
da thịt của đối phương đã đau buốt như dao cắt rồi.

Vị hòa thượng ấy
không khỏi giật bắn người, nhanh nhẹn vung tay lên, dùng toàn lực đánh ra hai
chưởng, trong khi cả thân người đã nương vào sức dội lại của sự va chạm, nhảy
lách sang phía trái tám thước.

Giữa cơn hối hả ấy,
lão ta đã nhìn thấy một đôi trai gái trẻ tuổi chẳng biết hiện diện tại đấy từ
lúc nào, kẻ đã ra tay tấn công mình, chính là một chàng thiếu niên mình mặc áo
vàng, diện mạo tuấn tú.

Người thiếu niên ấy
đang đưa chân bước chẩm rải tới trước hai bước, đôi mắt sáng rực như hai đốm
lửa, gằn giọng giận dữ quát rằng:

– Lão hòa thượng
ngang tàn kia, võ công ấy của ông, đã học được từ đâu thế?

– Võ nghệ của bần
tăng thuộc phái Thiếu Lâm, vậy tiểu thí chủ cật vấn để làm gì?

– Hừ. Quả là người
có mắt không tròng, ông đã xem tôi là người chi? Chả lẽ thế võ “Quỉ hóa huỳnh
quang” vừa rồi, cũng được kể là tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm nữa hay sao?

Khi bốn tiếng “Quỉ
hóa huỳnh quang” vừa lọt vào tay, thì vị hòa thượng ấy liền biến hẳn sắc mặt,
nạt to rằng:

– Khá khen cho tên
tiểu tặc kia, ngươi đã nhận ra được thế võ “Quỉ hóa huỳnh quang” ấy, thì ngày
hôm nay ngươi không còn mong chi sống còn được nữa.

Nói đoạn, đôi chưởng
của lão ta liền vung lên, vừa xoay tròn vừa đánh ra một cách kỳ diệu, công về
phía Gia Cát Ngọc liên tiếp năm thế võ.

Chàng thiếu niên
bèn cười nhạt nói:

– Tên giặc trọc ngu
xuẩn kia, hãy mau cút đi cho ta.

Báo cáo nội dung xấu