Húng nhại – Phần II – Chương 14
14.
Quận 2 là một quận lớn, đúng như người ta đoán, gồm những dãy
làng trải dài qua núi. Mỗi làng ban đầu gắn với một mỏ than hay mỏ đá, tuy
nhiên giờ đây nhiều nơi trong số đó được dành làm nơi ở và huấn luyện cho các
Trị an viên. Không có gì toát lên vẻ thách thức ghê gớm cả, vì bên phía phiến
quân có không lực của Quận 13, ngoại trừ một điều: chính giữa quận là một ngọn
núi hầu như bất khả xâm phạm nơi đặt trung tâm quân sự của Capitol. Chúng tôi
đặt biệt danh cho ngọn núi đó là Hạt từ lúc tôi chuyển lời nhận xét “hạt cứng
khó xơi” của Plutarch tới thủ lĩnh phiến quân kiệt quệ và thoái chí ở đây. Hạt
được đưa vào sử dụng vào ngay sau Kỳ Đen tối, khi Capitol để tuột Quận 13 khỏi
tay và cần cấp kỳ một thành trì ngầm mới. Chúng có một số tài nguyên quân sự
đặt ở ngoại ô của chính Capitol – tên lửa hạt nhân, máy bay, lính tráng, nhưng
một phần lớn sức mạnh giờ lại nằm dưới quyền kiểm soát của kẻ thù. Tất nhiên
chúng không đời nào có thể hy vọng tạo nên một bản sao Quận 13, đó là công
trình hàng thế kỷ. Tuy nhiên, chúng đã nhìn thấy cơ hội trong những mỏ than cũ
của Quận 2 gần đó. Nhìn từ trên không, Hạt trông giống như những ngọn núi khác
với vài cửa núi trên bề mặt. Nhưng bên trong là khoảng không gian mênh mông
thâm u nơi các phiến đá đã được xẻ, đẩy ra ngoài rồi chuyển xuống những con
đường trơn hẹp để xây dựng các tòa nhà phía xa. Thậm chí có cả một hệ thống tàu
hỏa tạo điều kiện chuyên chở thợ mỏ từ Hạt đến ngay trung tâm thị trấn chính ở
Quận 2. Nó chạy thẳng tới quảng trường nơi Peeta và tôi đã đến thăm trong
chuyến Diễu hành Chiến thắng, đứng trên những bậc thang cẩm thạch rộng rãi của
Tòa tư pháp, cố không nhìn quá kỹ vào những khuôn mặt hằn in đau khổ của gia
đình Cato và Clove túm tụm bên dưới chúng tôi.
Đó không phải là địa hình lý tưởng nhất, khá trắc trở bởi các
vụ lũ lụt, lở bùn, lở tuyết. Nhưng lợi thế của nó ăn đứt mọi quan ngại. Khi xẻ
sâu vào núi, đám thợ mỏ đã để lại những cây cột lớn và những bức tường đá làm
trụ cho cơ sở hạ tầng. Capitol đã gia cố lại và bắt tay vào biến ngọn núi thành
căn cứ quân sự mới của mình. Lấp đầy nơi đó bằng những ngân hàng điện toán và
phòng họp, doanh trại và kho vũ khí. Mở rộng cửa núi cho tàu bay qua dễ dàng
rời khỏi kho chứa, lắp đặt bệ phóng tên lửa. Nhưng nhìn chung vẫn giữ nguyên
phần lớn ngoại diện của ngọn núi. Một mớ cây cối cỏ dại tua tủa lởm chởm. Một
pháo đài tự nhiên bảo vệ chúng khỏi kẻ thù.
Theo tiêu chuẩn của các quận khác thì Capitol khá cưng chiều
Quận 2. Chỉ cần nhìn vào những phiến quân Quận 2 là đủ thấy hồi nhỏ họ được ăn
uống và chăm sóc chu đáo ra sao. Một số cuối cùng phải làm thợ mỏ hoặc thợ đá.
Những người khác được đào tạo để làm việc trong Hạt hoặc tuồn vào đội ngũ Trị
an viên. Huấn luyện những kẻ trẻ trung lì lợm cho chiến đấu. Đấu trường Sinh tử
là một cơ hội mang đến giàu có và vinh quang không thể tìm thấy ở đâu khác. Tất
nhiên dân Quận 2 thì dễ dàng nuốt những lời tuyên truyền của Capitol hơn các
quận còn lại chúng tôi. Đi theo đường lối của họ. Nhưng xét cho cùng, họ vẫn là
nô lệ mà thôi. Và nếu điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến những kẻ trở thành Trị an
viên hay làm việc trong Hạt, thì nó vẫn tác động lên những thợ xẻ đá đã tạo nên
xương sống của thành trì này.
Mọi thứ vẫn y nguyên như hồi tôi đến đây cách đây hai tuần.
Những ngôi làng ở phía ngoài nằm trong tay phiến quân, thị trấn bị chia cắt, và
Hạt vẫn bất khả xâm phạm như mọi khi. Một vài cửa núi được tăng cường phòng bị,
trái tim của nó được bao bọc an toàn trong núi. Trong khi từng quận khác giành
giật quyền kiểm soát khỏi tay Capitol thì Quận 2 vẫn nằm trong tay nó.
Mỗi ngày, tôi làm bất cứ việc gì có thể để giúp đỡ. Thăm nom
người bị thương. Ghi những ĐTT ngắn cùng đội quay phim. Tôi không được phép
tham gia chiến đấu đích thực, nhưng họ mời tôi dự các cuộc họp về tình hình
chiến tranh, nhiều hơn hẳn so với hồi ở Quận 13. Ở đây tốt hơn nhiều. Tự do
hơn, không có thời gian biểu trên cánh tay, tôi cũng ít bị đòi hỏi về thời gian
hơn. Tôi sống trên mặt đất trong làng của phiến quân hay những hang động xung
quanh. Vì lý do an toàn, tôi thường xuyên được thay đổi chỗ ở. Ban ngày tôi
được quyền đi săn miễn là mang theo vệ sĩ và không lang thang quá xa. Giữa bầu
không khí loãng lạnh căm của vùng núi, tôi cảm thấy phục hồi phần nào thể lực,
tâm trí cũng xua tan nỗi mụ mị còn sót lại. Nhưng cùng với việc đầu óc trở nên
sáng rõ, tôi còn nhận thức sắc bén hơn về những gì đã xảy ra với Peeta.
Snow đã đánh cắp cậu khỏi tôi, bóp méo cậu đến nỗi không thể
nhận ra, và biến cậu thành món quà cho tôi. Boggs, đến Quận 2 cùng tôi, đã bảo
tôi rằng cho dù toàn bộ kế hoạch được vạch ra hết sức tinh vi, việc giải cứu
Peeta vẫn hơi quá dễ dàng. Ông tin rằng nếu Quận 13 không nỗ lực làm việc đó,
Peeta cũng vẫn được chuyển tới chỗ tôi. Được thả xuống ở một quận đang giao
tranh hoặc chính Quận 13. Được thắt ruy băng và đề tên người nhận là tôi. Được
lập trình để giết tôi.
Chỉ là giờ cậu ra nông nỗi này tôi lại càng trọn vẹn trân
trọng một Peeta thực sự. Thậm chí còn hơn thế nếu cậu chết trước đó. Sự ân cần,
chín chắn, tấm lòng ấm áp ẩn chứa sức nóng không ngờ. Ngoài Prim, mẹ tôi và
Gale, còn ai trên đời yêu tôi vô điều kiện như vậy? Tôi nghĩ trong hoàn cảnh
của mình, câu trả lời có lẽ là không. Đôi khi một mình, tôi lại lấy hạt trai
vẫn nằm trong túi ra, cố nhớ lại chàng trai với ổ bánh mì, đôi cánh tay vững
chãi đã xua đuổi những cơn ác mộng trên tàu, những nụ hôn nơi trường đấu. Để
bắt mình gọi tên thứ mình đã đánh mất. Nhưng để làm gì? Biến mất rồi. Cậu biến mất
rồi. Cho dù có bất cứ thứ gì từng tồn tại giữa chúng tôi thì nó cũng đã biến
mất rồi. Chỉ còn lại lời tôi hứa giết Snow. Tôi nhắc nhủ mình như thế hàng chục
lần mỗi ngày.
Ở Quận 13, quá trình phục hồi cho cậu vẫn tiếp tục. Dù tôi
không hỏi, Plutarch vẫn cập nhật cho tôi về tình hình khả quan qua điện thoại,
kiểu như “Tin tốt này Katniss! Tôi nghĩ chúng tôi gần như thuyết phục được cậu
ấy rằng cô không phải là con mút!” Hay “Hôm nay cậu ấy được phép tự ăn bánh
Pudding đấy!”
Khi Haymitch nghe máy sau đó, ông thú nhận rằng Peeta chẳng
đỡ chút nào. Tia hy vọng mong manh duy nhất đến từ em gái tôi. “Prim đã nghĩ ra
cách cố hoàn hồn cho thằng bé,” Haymitch bảo tôi. “Khơi lên những ký ức bị bóp
méo về cháu rồi tiêm cho nó liều cao thuốc an thần, như ma phiện chẳng hạn.
Chúng ta mới thử với một kỷ niệm thôi. Đoạn băng hai đứa ở trong hang, lúc cháu
kể thằng bé nghe chuyện kiếm con dê cho Prim đấy.”
“Có tiến triển gì không ạ?” tôi hỏi.
“Chà, nếu coi bối rối cực độ là tiến triển so với sợ hãi cực
độ, thì có,” Haymitch đáp. “Nhưng ta cũng không chắc. Thằng bé không nói năng
được suốt mấy tiếng liền. Thành một dạng ngẩn ngơ nào đó. Đến lúc tỉnh lại được
thì thằng bé chỉ hỏi độc mỗi chuyện con dê.”
“Ra vậy,” tôi nói.
“Tình hình ngoài đó thế nào?” ông hỏi.
“Chẳng có tiến triển gì,” tôi bảo ông.
“Chúng ta định cử ra ngoài đó một đội để hỗ trợ xử lý ngọn
núi. Beetee cùng vài người khác nữa,” ông nói. “Cháu biết đấy, các bác học ấy.”
Khi các bác học được tuyển chọn, tôi không ngạc nhiên khi
thấy tên Gale trong danh sách. Tôi đã nghĩ Beetee sẽ mang anh theo, không phải
vì anh thông thạo kỹ thuật mà với hy vọng rằng bằng cách nào đó anh có thể nghĩ
ra cách đánh bẫy ngọn núi. Ban đầu, Gale đề nghị đi cùng tôi tới Quận 2, nhưng
tôi thấy làm thế tôi sẽ tách anh khỏi công việc với Beetee. Tôi bảo anh cứ kiên
nhẫn ở lại đúng nơi mình được cần nhất. Tôi không nói với anh rằng sự có mặt
của anh sẽ chỉ làm tôi càng không tiện khóc thương Peeta mà thôi.
Một hôm, Gale tìm thấy tôi khi họ đến lúc cuối chiều. Tôi
đang ngồi vặt lông ngỗng trên khúc gỗ bên rìa ngôi làng tôi đang ở. Có chừng
một tá ngỗng nằm chất chồng dưới chân tôi. Từ hồi tôi đến thì hàng đàn hàng đàn
ngỗng cũng di trú về đây nên việc săn bắn khá thuận lợi. Gale lẳng lặng ngồi
xuống bên tôi và bắt đầu vặt lông một con. Chúng tôi đang làm dang dở thì anh
nói, “Liệu chúng mình có cơ hội ăn mấy thứ này không nhỉ?”
“Có đấy. Phần lớn sẽ vào bếp trại, nhưng họ đoán là em sẽ cho
bất kỳ ai ở cùng em tối nay vài con,” tôi nói. “Canh phòng cho em ấy mà.”
“Không phải vinh dự đó là đủ rồi sao?” anh nói.
“Anh thì nghĩ vậy,” tôi đáp. “Nhưng người ta rỉ tai nhau rằng
chim húng nhại gây nguy hiểm cho sức khỏe của người khác.”
Chúng tôi im lặng vặt lông một hồi lâu. Rồi anh nói, “Hôm qua
anh thấy Peeta đấy. Qua kính.”
“Lúc đó anh nghĩ gì?” tôi hỏi.
“Nghĩ loanh quanh về chuyện bản thân thôi,” Gale nói.
“Rằng anh không phải ghen tị với cậu ấy nữa chứ gì?” Tôi giật
mạnh tay, một đám lông bồng bềnh rơi quanh chúng tôi.
“Không. Ngược lại cơ.” Gale gỡ một chiếc lông ra khỏi tóc
tôi. “Anh nghĩ... mình sẽ chẳng bao giờ cạnh tranh được với chuyện đó. Cho dù
anh có bị đau đớn thế nào.” Anh xoay xoay chiếc lông giữa ngón trỏ và ngón cái.
“Nếu cậu ấy không khá lên, anh chẳng thể có cơ hội nào. Em sẽ chẳng bao giờ bỏ
cậu ấy được. Em sẽ luôn cảm thấy dằn vặt nếu ở bên anh.”
“Như vì anh nên em đã luôn cảm thấy dằn vặt khi hôn cậu ấy,”
tôi nói.
Gale đăm đăm nhìn vào mắt tôi. “Nếu hồi ấy anh nghĩ đó là sự
thật thì có lẽ anh sẽ gần như có thể chấp nhận được những chuyện khác.”
“Là thật đấy,” tôi thú nhận. “Nhưng những gì anh nói về Peeta
cũng vậy.”
Gale kêu lên tức tối. Tuy thế, sau khi chúng tôi bỏ lũ ngỗng
xuống mà tự giác trở vào rừng kiếm củi nhóm lửa buổi tối, tôi thấy mình được
bao bọc trong vòng tay anh. Môi anh chạm qua những vết thâm tím đã mờ trên cổ
tôi, dần lướt đến miệng tôi. Dù thương Peeta biết bao, đây chính là lúc mà
trong thâm tâm tôi chấp nhận rằng cậu sẽ không bao giờ trở về với tôi nữa. Hay
tôi sẽ chẳng bao giờ trở về với cậu. Tôi sẽ ở lại Quận 2 đến khi nó sụp đổ, tới
Capitol giết Snow, rồi chết vì phiền muộn. Còn cậu sẽ chết trong cơn điên loạn
và nỗi căm ghét tôi. Vì thế trong ánh ngày nhàn nhạt, tôi nhắm mắt lại hôn Gale
để bù đắp cho tất cả những nụ hôn tôi đã nén giữ, bởi còn quan trọng gì nữa
đâu, và bởi tôi cô đơn khôn cùng đến không chịu nổi.
Sự đụng chạm, hương vị và hơi nóng của Gale nhắc tôi nhớ rằng
ít nhất cơ thể mình vẫn còn sức sống, và trong thoáng lát cảm giác ấy thật dễ
chịu. Tôi rũ sạch suy nghĩ và để mọi rung động lan khắp các thớ thịt, vui lòng
thả lỏng bản thân. Khi Gale hơi rời ra, tôi nhích tới khép lại khoảng cách,
nhưng rồi cảm thấy tay anh dưới cằm tôi. “Katniss à,” anh nói. Ngay khi tôi mở
mắt ra, xung quanh như rời rạc. Đây không phải cánh rừng của chúng tôi hay ngọn
núi của chúng tôi hay con đường của chúng tôi. Tay tôi tự động lần tới vết sẹo
trên thái dương trái, nơi tôi cho là có liên quan tới sự rối loạn này. “Nào,
hôn anh đi.” Bối rối, không chợp mắt, tôi cứ đứng đó khi anh ngả tới trước
thoáng đặt môi anh lên môi tôi. Anh soi xét kỹ khuôn mặt tôi. “Em đang nghĩ gì
vậy?”
“Em không biết,” tôi thì thầm đáp lại.
“Thế thì chẳng khác gì hôn người say cả. Không tính,” anh
gượng cười. Anh bốc một ôm củi thả vào đôi cánh tay trống không của tôi, đưa
tôi trở lại với hiện thực.
“Làm sao anh biết?” tôi nói, cốt để che giấu nỗi xấu hổ của
mình. “Anh từng hôn người say rồi à?” Hồi ở Quận 12 Gale có lẽ đã hôn biết bao
nhiêu cô gái. Chắn chắn anh không thiếu người đón nhận. Trước đây tôi chưa bao
giờ nghĩ về chuyện đó cả.
Anh chỉ lắc đầu. “Chưa. Nhưng có gì khó tưởng tượng đâu.”
“Thế anh chưa bao giờ hôn những cô gái khác hả?” tôi hỏi.
“Anh nói thế bao giờ. Em biết đấy, khi mình gặp nhau em mới
chỉ mười hai tuổi. Lại còn mang nỗi đau thực sự. Ngoài đi săn với em thì đứng
là anh còn có những trải nghiệm khác nữa,” anh vừa nói vừa vác củi lên.
Tôi bỗng thấy tò mò khôn tả. “Thế anh đã hôn ai? Ở đâu?”
“Nhiều quá không nhớ nổi. Sau trường, trên đống xỉ, bất cứ
chỗ nào,” anh nói.
Tôi đảo mắt. “Vậy em trở nên cực kỳ đặc biệt khi nào? Khi họ
tống em đến Capitol à?”
“Không. Trước đấy khoảng sáu tháng cơ. Ngay sau khi đón năm
mới ấy. Lúc đó mình đang ở chợ Hob, ăn xúp ở quán bà Greasy Sae. Còn Darius thì
trêu rằng sẽ lấy một con thỏ để đổi lại cho em một nụ hôn. Và anh nhận ra...
anh thấy khó chịu,” anh kể tôi nghe.
Tôi nhớ lại hôm đó. Mới bốn giờ chiều mà trời sầm sì, lạnh se
sắt. Chúng tôi đang đi săn thì phải quay về thị trấn vì gặp tuyết lớn. Chợ Hob
đông nghẹt người tìm chỗ trú. Xúp quán bà Greasy Sae, được nấu từ nước hầm
xương chó hoang mà chúng tôi bắn được một tuần trước đó, không ngon như mọi
bữa. Nhưng nó vẫn nóng hổi và tôi thì đói ngấu xúc lấy xúc để, chân khoanh tròn
trên quầy. Darius dựa vào cột quầy hàng chọc chọc đuôi bím tóc vào má tôi trong
khi tôi hất tay anh ra. Anh thao thao giải thích tại sao nụ hôn của mình lại
đáng giá một con thỏ, hoặc có thể là hai, vì ai cũng biết đàn ông tóc đỏ là
sung nhất. Còn Greasy và tôi thì phì cười vì anh đúng là lố bịch và dai như
đỉa, không ngớt chỉ ra các bà các cô quanh chợ Hob mà theo lời anh là đã trả
hơn một con thỏ để được thưởng thức môi anh. “Thấy không? Cái cô quàng khăn
xanh ấy? Ra mà hỏi cô ta. Nếu em cần tham khảo.”
Cách đây hàng triệu dặm, hàng tỷ ngày, chuyện ấy đã xảy ra.
“Darius chỉ đùa cho vui thôi mà,” tôi nói.
“Có thể. Mặc dù nếu anh ấy không đùa thì em cũng còn khướt
mới phát hiện ra,” Gale bảo tôi. “Cứ lấy Peeta ra làm ví dụ này. Hay lấy anh.
Hay thậm chí là Finnick. Trước anh lo anh ta để mắt đến em, nhưng giờ anh ta có
vẻ trở lại đúng hướng rồi.”
“Nếu anh nghĩ Finnick từng yêu em thì anh chả hiểu gì về anh
ấy cả,” tôi nói.
Gale nhún vai. “Anh biết là anh ta từng tuyệt vọng. Điều đó
khiến con người ta làm đủ thứ điên rồ.”
Tôi không thể không nghĩ rằng câu đó nhắm thẳng vào mình.
Rạng sáng hôm sau, các bác học tập trung lại bàn về vấn đề
Hạt. Tôi được yêu cầu đến dự cuộc họp mặc dù chẳng có gì nhiều mà đóng góp. Tôi
tránh xa bàn hội nghị, vắt vẻo trên bậu cửa sổ rộng trông ra ngọn núi đang được
bàn tới. Chỉ huy Quận 2, một phụ nữ trung niên tên Lyme, dẫn chúng tôi tham
quan ảo một vòng quanh Hạt, bên trong và các công sự của nó, đồng thời nhắc lại
những nỗ lực đánh chiếm thất bại. Tôi đã chạm mặt sơ sơ với bà vài lần kể từ
khi đến đây, và cứ có cảm giác là đã gặp bà rồi. Bà khá đáng nhớ, cao chừng mét
năm tám, cơ bắp cuồn cuộn. Nhưng khi xem đoạn ghi hình bà trên cánh đồng, chỉ
huy cuộc tập kích tại cửa núi chính dẫn vào Hạt, tôi mới chợt nhận ra mình đã
được diện kiến một người chiến thắng khác: Lyme, vật tế Quận 2, người chiến
thắng Đấu trường Sinh tử cách đây hơn một thế hệ. Effie đã gửi cho chúng tôi
cuốn băng về bà, lẫn trong các cuốn khác, để chuẩn bị cho Huyết trường Tứ phân.
Có lẽ tôi đã thoáng thấy bà trong các kỳ Đấu trường những năm qua, nhưng bà khá
mờ nhạt. Nhớ lại phát hiện mới mẻ về cách Capitol xử Haymitch và Finnick, tôi
chỉ có thể nghĩ đến một điều: Capitol đã làm gì bà sau khi bà chiến thắng?
Khu Lyme thuyết trình xong, phía bác học bắt đầu đặt câu hỏi.
Hàng tiếng trôi đi, giờ ăn trưa đến rồi qua trong khi họ cố tìm ra một kế hoạch
thực tế để đánh chiếm Hạt. Nhưng dù cho Beetee cho rằng ông có thể khống chế
những hệ thống máy tính nhất định, và mọi người đã bàn đến việc tận dụng khả
năng của số điệp viên trong tay ít ỏi, thì cũng không ai nảy ra sáng kiến ra
trò nào. Khi chiều tàn, cuộc thảo luận cứ xoay về một chiến lược đã thử đi thử
lại – đột kích các cửa núi. Tôi có thể thấy nỗi thất vọng tích tụ của Lyme, vì
có quá nhiều biến thể của kế hoạch này bị thất bại, quá nhiều chiến binh của bà
phải bỏ mạng. Cuối cùng, bà buột miệng nói, “Người tiếp theo đề nghị chúng ta
đánh chiếm các cửa núi nên có cách tiến hành xuất sắc, bới anh sẽ là người chỉ
huy nhiệm vụ này!”
Gale, vốn quá cuồng chân cuồng tay không thể ngồi dính vào
bàn quá vài tiếng đồng hồ, lúc thì đi đi lại lại, lúc lại nhập hội cùng tôi bên
bậu cửa sổ. Ngay từ đầu, anh xem ra đã chấp nhận lời khẳng định của Lyme rằng
không thể đánh chiếm các cửa núi, và hoàn toàn rút khỏi cuộc trao đổi. Chừng
một tiếng đồng hồ cuối cùng, anh ngồi yên, lông mày nhíu lại tập trung, chằm
chằm nhìn Hạt qua kính cửa sổ. Trong bầu im lặng nối theo sau lời cảnh báo tối
hậu của Lyme, anh cất tiếng. “Có thật là nhất thiết phải đánh chiếm Hạt không?
Hay chỉ cần vô hiệu hóa nó là đủ?”
“Làm thế thì hẳn là bước đi đúng hướng rồi,” Beetee nói. “Thế
cháu có ý gì?”
“Coi đó là hang chó hoang,” Gale nói tiếp “Ta sẽ không tìm
cách xâm nhập vào đó. Vậy ta có hai lựa chọn. Bẫy lũ chó ra bên trong hoặc lùa
chúng ra ngoài.”
“Chúng tôi đã thử đánh bom cửa núi rồi,” Lyme nói. “Chúng
được đặt quá sâu trong đá tới mức hầu như không bị sứt mẻ gì.”
“Tôi không nghĩ đến việc đó,” Gale nói. “Tôi nghĩ đến việc
lợi dụng ngọn núi kia.” Beetee đứng lên lại gần Gale bên cửa sổ, nheo mắt nhìn
qua cặp kính không vừa vặn. “Thấy không? Chạy xuôi hai bên sườn ấy?”
“Những con đường lở,” Beetee thì thầm. “Khó nhằn đấy. Chúng
ta phải thiết kế chuỗi vụ nổ cực kỳ cẩn thận, và một khi nó bắt đầu, chúng ta
không thể hy vọng kiểm soát nó được đâu.”
“Chúng ta không cần kiểm soát nó nếu chúng ta từ bỏ ý định
phải chiếm Hạt,” Gale nói. “Chỉ cần cho nó ngừng hoạt động thôi.”
“Tức là cậu đề nghị chúng ta gây sạt lở chặn các cửa núi hử?”
Lyme hỏi.
“Chính thế,” Gale nói. “Nhốt kẻ thù bên trong, cắt mọi nguồn
cung ứng. Khiến chúng không thể cho tàu bay ra ngoài.
Trong khi tất cả cân nhắc kế hoạch, Boggs giở qua chồng bản
thiết kế của Hạt đoạn nhíu mày. “Làm thế là có nguy cơ giết hết mọi người bên
trong đấy. Nhìn hệ thống thông hơi mà xem. Khá nhất cũng chỉ thô sơ thế này
thôi. Không hề giống Quận 13 chúng ta. Nó phụ thuộc hoàn toàn vào việc bơm không
khí từ sườn núi. Bịt những lỗ này là ta sẽ làm chết ngạt bất cứ ai bị nhốt.”
“Họ vẫn có thể thoát ra ngoài qua đường hầm tàu hỏa dẫn tới
quảng trường,” Beetee nói.
“Chẳng có cơ đâu nếu ta làm nó nổ tung,” Gale cộc cằn nói. Ý
định của anh, toàn bộ ý định của anh, trở nên rõ ràng. Gale chẳng màng đến việc
giữ mạng sống cho những người trong Hạt. Chẳng màng đến việc nhốt con mồi để
dành đấy.
Đây là một trong những cái bẫy chết của anh.