Đất rừng phương Nam - Chương 02 - Phần 1
Chương 2 - Trong tửu quán
Tôi thường lân la đến
quán dì Tư Béo, bởi lý do mong gặp người quen. Nhưng còn một lẽ khác nữa, là ở
đó, tôi có thể nghe đủ mọi thứ chuyện trên đời. Việc gì vừa xảy ra ở bất cứ xó
hẻm nào quanh chợ, lập tức trong quán dì Tư Béo mọi ngươi đã biết ngay. Từ
những tin nóng hổi ở mặt trận Vàm Xáng như... "một chiến sĩ ta bị thương,
khúc ruột lòi ra, anh lấy tay nhét vào, không rên một tiếng", cho đến
chuyện "ông Tổ sư Bồ đề truyền dạy phép màu cho Tề Thiên Đại Thánh như thế
nào... " tôi đều có thể nghe được ở đây.
Đó là một ngôi quán nhỏ xệch xạc, trống trước
trống sau, cất dựa bên bờ kênh dưới bóng một cây gáo cổ thụ.
Mái lá rách thủng lô chỗ, ban ngày nắng soi
xuống mặt chiếc bàn dài, thả những bóng trứng vịt xuống bên mâm người ngồi
nhậu, và ban đêm, người ta có thể uống cả một vì sao xanh rơi trong lòng cốc.
Quán rượu dì Tư Béo nối tiếng về thứ rượu tăm
ngọt giọng, phảng phất mùi cháy khê nồi mà không nhà nào cất được, về tài xào
nấu các món thịt rừng mà các lão già cũng hay bông phèng đã nức nở khen rằng
"nhắm xong một miếng, thấy người phấn hứng, trẻ tráng ra ngay".
Nhiều người tin như vậy. Chứ như tôi, tôi
nghĩ rằng những người lui tới nơi đây là bởi tự thói quen cố hữu của họ. Mà bà
chủ quán vốn là một người đãi bôi xởi lởi, không bao giờ để phật lòng bất cứ
một ông khách nào dù khó tính đến đâu. Duy chỉ có một điều mà ai cũng biết
nhưng cũng chẳng ai nói ra, là trong sự dễ dãi hào phóng của bà ta, dù thế nào
thì thế, một đồng xu cũng không lọt được qua cánh tay nhờn nhầy bóng mỡ của bà,
vì bà không để mình chịu thiệt với ai bao giờ. Chẳng vậy mà một hôm, bà ta đã
bảo tôi: "Tao thấy mày sống hổm rày ở chợ này như con chó hoang. Tội quá!
về đây mà ở, tiếp giúp tao việc vặt trong quán. Mày sẽ tha hồ ăn, tha hồ uống.
Còn như công xá". Bà ta im lặng một lúc, sụt sịt mũi; "Nói chuyện
công xá, hóa ra cháu ở đợ cho dì sao? Dì có một thân một mình. Dì coi cháu như
con thôi. Mẹ con mà tính chuyện tiền bạc thì còn ra cái nghĩa gì."
Tôi đứng lặng đi một lúc lâu, bàng hoàng
không biết đáp ra sao. Trước mắt tôi, dòng kênh xanh ngắt lặng lẽ chạy hút vào
chân trời. Một cánh buồm nhỏ xíu bồng bềnh trên khói nước, ở một nơi nào xa
lắm, đôi khi không trông rõ, dường nửa thực nửa hư. Quay nhìn về hướng quê nhà,
chỉ thấy mây trời đùn cao như núi. Ngày mai tôi sẽ đi về đâu sống ra sao, tôi
chưa biết. Tôi chẳng ở đây thì còn đi đâu nữa? Tôi gật đầu, chẳng nghĩ ngợi gì.
- Vâng. Cháu sẽ ở đây với dì!
Tôi trở thành thằng nhỏ
hầu rượu trong quán dì Tư Béo bắt đầu từ hôm đó.
- Cầm hào bạc đây, ra chợ mà cắt tóc ngay đi
- bà ta vừa truyền lệnh cho tôi, vừa tháo mấy cây kim băng cài miệng túi áo
chích đưa lên ngậm ngang mồm, và móc từ trong miệng túi thâm đen vì bẩn mỡ ra
một nắm giấy bạc, nhặt một tờ hào dúi vào tay tôi.
Khi tôi cắt tóc xong, trở
về quán thì thấy bà ta lúi húi ngồi khâu bên rổ may.
- Lại ướm thử cái quần
đùi coi nào. Dì khâu cho mày đấy.
Bà ta đứng dậy, cầm mảnh lụa đen vừa cắt từ
ống quần dài cũ của bà chỉ cần khâu một đường lưng và một đường khoét đáy là
thành một chiếc quần đùi. Tôi mặc thử, thấy hãy còn quá rộng.
- Cầm bánh xà phòng thơm của dì, xuống bến
tắm đi. Rồi lên mà mặc quần mới, con? - bà ta ngọt ngào bảo tôi.
Bà ta nói với tôi rất ít, lời lẽ dịu dàng,
nhưng mỗi câu là một mệnh lệnh. Sau khi tắm rửa xong, tôi vội mặc chiếc quần
lụa đen ngắn vào. Bà ta ngồi nheo mắt, cười làm rung rung hai tảng mỡ của đôi
gò má bóng nhẫy, ngắm tôi hồi lâu.
- Tươm da! Sạch sẽ thơm tho như vậy mới có
thể hầu khách được. Chứ đứng gần người ta mà hôi như cú thì họ gõ chai lên đầu
biết không" Mà trông mày mặt mũi cũng sáng láng đấy. Có chữ nghĩa gì bỏ
túi không?
- Dạ, cháu đã đỗ xép-phi-ca
(tiểu học) tháng sáu năm ngoái.
- Thiệt chứ? Trời, thằng này giỏi đa? Mới
mười bốn mười lăm tuổi mà đã dỗ phi-ca thì giỏi lắm. Ờ, hồi tao còn con gái, có
một ông giáo phica chú ý đến tao, nhưng duyên trời không định: Chà, ngày xưa đỗ
phi-ca là đã nên ông nọ ông kia rồi. Khổ cho mày, gặp thời buổi loạn ly!... Thế
ba má cháu đâu?
- Dạ, ở xa lắm! - tôi đáp một cách miễn
cưỡng..
Thấy tôi không muốn nói, bà ta cũng thôi
không hỏi. Bà ta vốn là người khôn ngoan, lịch thiệp và từng trải, luôn luôn
đoán trước ý mọi người, biết lúc nào nên nói, lúc nào nên không và nên chấm dút
câu chuyện ở chỗ nào. Điều này, tôi nhận ra trong những đặc tính của bà ta chỉ
qua vài ngày sau thôi.
Kể ra thì khách rượu của quán rượu dì Tư Béo
không thiếu hạng nào. Những tay vô công rồi nghề, la cà ngồi tán dóc suốt ngày
cũng có. Những người tản cư, cắm thuyền tạt lên uống chén rượu rồi quảy qua đi
ngay cũng có. Bọn con buôn vào ngồi chỉ cốt lấy chỗ gặp gỡ, trao đổi luồng hàng
đương khan hiếm và để kiếm món xào nướng khoái khẩu hơn là vì cần nên đôi khi,
một vài người lính Cộng hòa vệ binh có tuổi lén rời chỗ trú quân vào làm một
cốc rượu khan, trước khi ra khỏi quán cứ đưa ống tay áo chùi ria mép và dặn đi
dặn lại tôi: "Này, chú em, hễ có ban chỉ huy đến hỏi thì nói không có ai
tới uống rượn đây cả nhé! Nhớ nhé".
Chỉ trong vài hôm, tôi đã quen mặt hầu hết
những đệ tử Lưu Linh của xóm chợ này. Nhưng trong đám người thường lui tới đây,
tôi chỉ đặc biệt chú ý có hai người.
Một
là lão Ba Ngù. Dường như lúc nào cũng có lão túc trực trong quán. Nói cho đúng
thì lão ta cũng không phải là tay mạnh rượu. Nhưng lão có thể lai rai uống được
suốt ngày. Những chuyện tiếu lâm, những chuyện giang hồ mã thượng lão kể đi kể
lại với mọi người, tôi nghe đến thuộc làu những vẫn thích nghe. Bởi mỗi lần kể,
lão thường hay thắt thêm vào những chi tiết bất ngờ khiến tôi phải cười bò ra;
hoặc cũng có một đôi chỗ mà lần trước kể dài dòng, lão đã biết khéo léo thu vén
bỏ đi cho câu chuyện thêm tròn trĩnh, dễ nghe hơn. Những lúc đông khách, lão
đứng dậy nhường chỗ cho người mới tới. Đôi khi lão còn bưng hộ bát thừa giúp bà
chủ quán.
Dì
Tư béo mến lão vì cái tài đưa chuyện và giữ khách không công của lão, nên thỉnh
thoảng bà ta cũng đãi lão cút rượu kèm theo một con khô cá lạt nướng. Ai mời
rượu. lão đều uống, không từ chối. Nhưng chỉ uống một chén con cho vui bụng
ngươi ta thôi. Không bao giờ lão uống đến chén thứ hai. "Mình là người
biết tự trọng. Mình có phải là thằng già nát rượu đâu? " Lão thường lè nhè
nói một mình như vậy. Cứ mỗi người một chén rượu mời, mỗi ngày đêm lão Ba Ngù
có thể uống tính ra đến một, hai lít? Lão luôn luôn cởi trần, áo chỉ dể vắt hờ
bên vai, bảo: "Để vầy cho nó mát". Lão chỉ mặc độc chiếc quần đùi: da
mặt, da lưng đỏ như cua luộc. Dường như bấm vào bất cứ chỗ nào trong thân hình
lão cũng có thể chảy rượu ra ngay được...
Đó là người thứ nhất.
Người
thứ hai là Tư Mắm. Không biết y ở đâu, tên thật là gì. Chỉ biết rằng y thường
chở mắm lóc, mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ trong một chiếc ghe lườn
bán dọc theo các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là Tư Mắm. Còn người đàn bà
chạc ba mươi tuổi mà Tư Mắm bảo là vợ y không mấy khi bước lên bờ. Có lần, tôi
nghe thấy lão Ba Ngù che tay lên miệng bảo với dì Tư Béo: "Chà, bộ thằng
Tư Mắm có ngải hay sao mà nó chài được con nỡm đẹp quá. Không phải vợ hắn đâu.
Dứt khoát là không phải bà chị ạ."
Tư
Mắm ngươi dong dỏng cao nước xanh mét, tóc cắt bom-bê, mái tóc trước trán rủ
xuống tận gò má bên phải. Đôi mắt y rất bé và sắc lạ lùng, tròng mắt đảo đi đảo
lại rất nhanh và không hề nhìn thẳng vào ai bao giờ.
Một
buổi sáng, lúc tôi đang bưng rổ tôm càng xanh từ chợ về thì nghe tiếng tàu bay
vè vè từ hướng Sóc Trăng lượn đến. Người trong chợ xô nhau nhạy toán loạn.
Chiếc
tàu bay đảo hai vòng trên xóm Ngã Ba Kênh, bay rất chậm nhưng thật cao, nghiêng
qua nghiêng lại quan sát rồi thả xuống một đống truyền đơn. Những tờ truyền đơn
tủa ra, bị gió cuốn đi bay về mạn rừng tràm cách chợ có đến vài ngàn thước.
Không biết bọn giặc nói gì trong ấy. Nhưng khi tôi về đến quán thì gặp ngay lão
Ba Ngù đứng chửi oang oang:
-
Tổ cha thằng Tây. Mày đánh thì xuống đây. Chứ bay trên trời thả giấy xuống thì
cũng chưa gọi là bảnh.
Lão
níu rổ tôm của tôi lại, hỏi:
- Mày có nhặt được tờ nào đút trong này không?
- Không - tôi đáp.
- Truyền đơn nó kêu gọi Việt Minh đầu hàng đấy!
- Sao bác biết? Bác nhặt được à?
- Nhặt
đâu mà nhặt. Thằng Tư Mắm nó vừa bảo đấy. Cái thằng coi vậy mà nhát. Nó mới
nghe hơi tàu bay một chút, đã xuống ghe chèo đi tuốt rồi!
Từ
đó đến chiều, gặp ai lão Ba Ngù cũng nói đi nói lại có bao nhiêu chuyện đó. Và
chuyện giữa người trong quán cứ xoay quanh vấn đề: "Tây sắp tiến công vào
đây? Liệu chúng ta có chặn nổi không."
Vào
lúc chạng vạng, trời bỗng nổi gió to. Tiếng sấm nổ chát chúa trên những vầng
mây đen sì mỗi lúc như muốn xà thấp xuống ngọn cây. Mưa bắt đầu rơi lộp độp
những hạt to và nặng trên mái lá. Nhưng chỉ ào qua một loạt rồi tạnh ngay. Lão
Ba Ngù đứng trước quán, nhìn theo những làn chớp kêu:
-
Mưa đi ông! Muốn mưa thì cứ mưa đi. Sao cứ làm khó khăn cho người ta vậy?
-
Nếu mưa to thì Tây còn chưa dám vào đâu, phải không anh Ba?
Dì
Tư Béo lạch bà- lạch bạch như con vịt mái xiêm, ra đứng bên cạnh lão, vừa thở
dài vừa hỏi phụ họa:
-
Dứt khoát là mưa thì nó không dám tiến công. Nó toàn đi giầy, gặp đất trơn
trượt ngã bỏ mẹ đi. Hồi đằng cựu (thời cần vương, văn thân khởi nghĩa) các ông
rải quả mù trên lộ, Tây đi ngã lạch bạch. Thế là dao, mác, mã tấu mình cứ xông
ra chém nó như chém chuối!
Tôi
dọn rửa bát đĩa xong, không còn việc gì làm cũng ra đứng hóng chuyện bên lão.
Bỗng nghe dưới kênh có người hỏi:
-
Quán dì Tư có gì nhậu không?
-
À thằng Sáu tuyên truyền - lão Ba Ngù kêu khẽ.
Dì
Tư Béo tức thời quát tôi:
- Vào
nhóm bếp lên. Con nít mà biết cái gì, lúc nào cũng chực nghe. - Và bà ta đáp
vọng ra kênh: - Vô khối! Còn vô khối?
Tôi
ngồi trong bếp vừa nhóm lửa, vừa đưa mắt nhìn ra. Nghe tiếng xuồng cập bến,
khua lộp cộp. Dì Tư Béo chạy vào cầm cây phất trần bằng cuống quài dừa nước quét
lạch xạch trên bàn rượu. Chắc là có khách sộp đây Tôi nghĩ thầm như vậy, vì
nghe lão Ba Ngù dạ dạ hai ba tiếng, bộ kính cẩn lắm. Rồi thấy anh Sáu tuyên
truyền mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tay xách một bao cà rồng công văn giấy tờ, khom
người bước qua mái giọt, vào đặt phịch cái bao lên bàn. Lão Ba Ngù khệ nệ ôm
một chiếc ba-lô to tướng rằng rịt những dây da, lấm lem bùn đất, thận trọng đi
từng bước vào và sẽ sàng đặt lên chiếc chõng tre, cạnh cửa ra vào bếp.
Một
người đàn ông chạc hăm sáu hăm bảy tuổi, cao lêu nghêu, mặc bộ quân phục ka-ki
màu rêu, thắt lưng da rộng bản, khẩu súng poọc-hoọc đeo trễ bên hông, tay xách
đôi giày vải, tay cầm chiếc mũ vải kiểu hướng đạo bước vào đưa mắt ngắm nghía
một vòng trong quán rồi thong thả kéo ghế ngồi xuống.
Anh
Sáu tuyên truyền giới thiệu với dì Tư Béo:
-
Đây là ông Huỳnh Tấn, đặc phái viên của Tổng hành dinh Ủy ban kháng chiến Nam
Bộ, ở miền Đông mới tới!
Dì
Tư Béo chắp hai tay trước bụng cúi đầu chào, nói gì lí nhí trong mồm không nghe
rõ, chỉ thấy dôi môi run run một cách cảm động. ông khách đứng dậy, toét miệng
cười, khẽ nghiêng đầu chào đáp lễ rồi nói cách thân mật tự nhiên:
- Kiến cắn bụng dữ rồi đây? Dì có gì cho chúng tòi
làm ba hột cho đỡ đói cái đã...
Lão
Ba Ngù buột miệng đáp ngay:
-
Còn nửa rá bún tươi. Có thể ăn với thịt bò xào lá cách. Còn nhậu thì... đâu như
nhà còn mấy con tôm càng nướng, phải không bà chị? Mà rượu hôm nay không đặng ngon?
Dì
Tư Béo gật đầu lia lịa:
-
Muốn ăn cơm cũng được. Tôi chịu khó nấu. Chẳng mấy thuở mà! Bắt gà làm xé phay
ăn thôi.
Anh Sáu tuyên truyền vừa lau mồ hôi vừa nuốt nước
bọt, giọng sốt ruột:
-
Dì muốn cho ăn thức gì cũng được. Có bao nhiêu cứ dọn hết ra đây. Nhưng phải
gấp lên!
Lão
Ba Ngù lăng xăng giúp bà chủ quán pha ấm trà, đặt lên bàn mời khách. Anh Sáu
tuyên truyền bảo tôi đem cho ảnh một ít bún tươi, rồi ảnh rút trong bao cà-ràng
ra một cuộn giấy nhặt lấy hai tờ rộng khổ nhất úp lên bàn, bảo tôi xếp bún vào.
-
Chà, có khẩu hiệu gì mới hả chú Sáu? - lão Ba Ngù tò mò hỏi.
- Phải. Vừa lĩnh trên quận về đây. Bác kê giúp cái
ghế cho tôi dán lên vách đi.
Anh
Sáu tuyên truyền đứng lên ghế, đưa tờ khẩu hiệu ngắm nghía cho cân bằng hai đầu
rồi từ từ dán vô vách lá. Dán xong một tờ, anh thong thả dán nốt tờ thứ hai.
Tôi
cầm đèn soi lên, nhìn trân trân vào những dòng chữ khắc gỗ in mộc bản mà tôi đã
đọc nhiều lần trên các tờ khẩu hiệu dán đầy ở những nẻo đường tôi đã vượt qua.
Độc lập hay là chết !
Nước Việt Nam của người Việt Nam!
Anh
Sáu tuyên truyền lại lôi ra một tờ giấy khổ nhỏ in chữ chì, còn thơm phức mùi
mực ty-phô, dán vào vách ngang tầm mắt người ngồi ở bàn. Lão Ba Ngù lẩm nhẩm đánh
vần:
-
Khờ... ông... không, đờ.. i đi... Khô.ng đi lính chờ... o cho... Không
đi lính cho giặc!
Đôi mắt tròn ra, nét mặt trang nghiêm, lão Ba
Ngù lần lượt vừa đánh vần vừa đọc hết những khẩu hiệu như những lời thề viết
lên bằng máu:
Không đi lính cho giặc!
Không bán lương thực cho
giặc!
Không đưa đường chỉ lối
cho giặc!
Ai có dao dùng dao, có mác dùng mác, mỗi
người dân là một người lính, mỗi thước đất là một chiến hào, sẵn sàng hi sinh
bảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc!
Đọc xong rồi, lão Ba Ngù lẳng lặng bước đến
chỗ móc áo lấy cái áo bà ba đen của lão giũ giũ mấy cái. Đoạn lão mặc vào, cài
cả cúc cổ cẩn thận. Lão cứ đứng nhìn lên những dòng chữ đỏ chói như máu kia,
hai bàn tay vuốt đi vuốt lại những nếp áo nhăn nheo đã lâu không mặc tới.
Không biết có phải vì cơn gió to lúc nãy
khiến lão bị lạnh, hay bởi lẽ nào khác tôi không được rõ. Chỉ trông nét mặt im
lặng và cử chỉ trang nghiêm của lão thì tôi thấy giống như lão đang đứng bên
giường một ngươi bệnh thập tử nhất sinh. Kinh nghiệm ở những nơi khác thì với
tình hình này, chắc chắn là chỉ trong vòng một tuần lễ nữa thôi, giặc Pháp sẽ
tiến tới đây...
- Trời ơi, mày có bưng đĩa thịt bò ra giùm
tao một chút không. Làm gì mà đứng chết gí ngoài đó vậy? - dì Tư Béo trong bếp
eo éo gọi vọng ra.
Tôi giật mình chạy vào, suýt nữa ngã bổ xuống
ngạch cửa. Lão Ba Ngù không vào giúp tôi một tay như mọi khi, lão lặng lẽ ra
đứng trước bến hút thuốc lá một lúc rồi bỏ đi đâu mất. ông Huỳnh Tấn và anh Sáu
tuyên truyền đói dữ. Chẳng mấy chốc mà hai người đã làm sạch rá bún và hai đĩa
thịt bò xào to tướng. ông Huỳnh Tấn vươn vai đứng dậy, co chân duỗi tay, cười
hì hì:
- Từ sáng đến giờ, hai anh em thay nhau chèo
một mạch, chẳng có hột cơm bỏ bụng ăn bữa bún ngon quá. Ước chừng còn một rá
nữa, chúng tới cũng ních hết?
Anh Sáu tuyên truyền quay sang hỏi dì Tư Béo
đang chấp hai tay trước bụng, đứng bên góc bàn hầu khách:
- Độ mấy giờ thì liên lạc
ở Thới Bình lên tới?
- Sớm thì cùng chín mười giờ. Trời đất này,
ngược nước ngược gió, họ có thể lên khuya hơn... Các ông cứ ở lại nghỉ cho đỡ
mệt - dì Tư Béo dáng thong thả, có ý muốn cầm khách.
- Có gì nhậu, dì mang ra vứt đó cho chúng
tôi! ông Huỳnh Tấn nói cách vui vẻ - Dằn bụng rồi, bây giờ có thể lai rai được
chứ hả, đồng chí Sáu?
Tôi quạt than hơ lại mấy con tôm càng nướng
sẵn, to cỡ cổ tay người lớn mà dì Tư Béo còn cất trong chạn.
Trong khi đó, anh Sáu tuyên truyền cầm đèn ra
sau quán ngắt mấy ngọn rau răm, còn ông Huỳnh Tấn thì giành với dì Tư để tự ông
ta giã bát muối ớt cho vui.
- Bác Ba Ngù đi đâu rồi hả dì Tư? - Anh Sáu
tuyên truyền chợt hỏi.
- Ối có trời biết ổng đi đâu? Muốn đến thì
đến, muốn đi thì đi.
- Nhậu mà thiếu bác thì không vui?
- Có tôi đây, chú Sáu lão Ba Ngù từ ngoài nói
vọng vào May quá, chỉ lo về không kịp? - Lão Ba Ngù bước vào, đặt một lít rượu
trong như mắt mèo lên bàn, xoa xoa hai bàn tay rồi đan mười ngón tay vào nhau,
nghiêng đầu ngắm chai rượu:
- Tôi chạy vào tận xóm Tràm, nài lại của họ
đây. Không mấy thuở... Để khách xa uống không đặng ngon sẽ mang tiếng đất Rạch
Giá, Bạc Liêu mình!
Khi ba người đã ngồi vào bàn,sắp sửa rót rượu
thì có bóng một người mặc quân phục màu đen, khoác ca- pốt, lom khom bước theo
ánh sáng đèn, đi vào quán. Tôi nhận ra ngay đó là anh phân đội trưởng Cộng hòa
vệ binh vừa về đóng quân ở xóm trên đã mấy hôm nay.
Ông Huỳnh Tấn bỗng xô ghế đứng dậy, đôi mắt
tròn thao láo nhìn anh phân đội trưởng, còn anh phân đội trưởng thì đứng sững
lại ở chỗ ngạch cửa mồm há hốc ra.
Hai người im lặng nhìn nhau, rồi cả hai cùng
lao tới ôm lấy nhau, tay đấm đấm vào lưng nhau thùm thụp:
- Trời ơi, tao tưởng mày
chết rồi?
- Tao cũng tưởng mày chết rồi?
- Vậy ra không thằng nào chết cả...
Hai người cùng tranh nhau nói. Không còn nghe
câu nào là của người nào. Những tiếng nói bằng giọng cường tráng sôi nổi vồ vập
tuôn ra cùng với những tiếng cười vui vẻ mừng rỡ của đôi bạn tình cờ gặp lại,
cứ xoắn lấy nhau.
- Sao nghe mày chết ở mặt trận Gò Công rồi?
Ngồi xuống đây? - ông Huỳnh Tấn kéo ghế mời anh phân đội trưởng.
- Chết thế nào được? Ờ mình có bị thương ở
Vàm láng, Gò Công anh phân đội trưởng lột áo ca-pốt ném lên chõng, mở cúc áo
trỏ vào vết sẹo trên ngực. – Xuyên trước trổ ra sau lưng, thủng một lỗ phổi cầm
chiếc đũa thọc qua được. Bọt cứ tuôn ra phì phì. Cả máu cả bọt. Vậy mà chỉ hơn
tháng sau mình đã dậy, ra chỉ huy chiến đấu.
- Sức mày canông bắn cũng
không chết - ông Huỳnh Tấn cười hì hì.