Lời kết

LỜI KẾT

Trước kia, mũi Kannon thường được gọi là mũi Hotoke, hay mũi
Phật Bà. Dù đã gần bảy mươi hai tuổi, nhưng Kayo cũng chưa từng nghe ai gọi mũi
Kannon bằng những cái tên cũ này.

Trong ánh bình minh buổi sớm mùa xuân, Kayo nhanh nhẹn bước
chân trên con đường bà vẫn thường đi bộ. Người ta tin rằng vị Phật bà nhân từ, Quan
Âm, sẽ dang rộng cánh tay cứu rỗi với tất cả những ai gọi tên Người. Kayo tin
vào Quan Âm, và đã thành lệ, bà luôn đi đường này mỗi lần thả bộ buổi sáng
trong suốt hai mươi năm qua.

Dù là “Kannon” hay “Hotoke”, tên của mũi đất này cũng gợi ra
nhiều liên tưởng. Ít nhất, cái tên cũng cho thấy mũi đất này là một nơi ghi dấu
lịch sử. Trên thực tế, đi bộ dọc theo lối dành cho người đi dạo, người ta sẽ
thấy tượng Địa Tạng hoặc bia mộ giữa các bụi cây. Chắc chắn là, những thứ này
được đặt đó để an ủi linh hồn những người chết bị sóng đánh dạt lên doi đất này,
nhưng không người dân địa phương nào biết bằng cách nào và tại sao những tác
phẩm thủ công này lại được dựng lên. Dù sao chăng nữa, chúng cũng có nhiều một
cách đáng ngạc nhiên trên và xung quanh mũi đất này.

Trời vẫn chưa sáng hẳn khi Kayo bước đi trên con đường ven
biển. Người hơi còng xuống, bà cất bước, mắt hướng xuống đất. Mỗi khi kì nghỉ
xuân đến, cháu gái bà, Yuko sẽ đến thăm, và có vẻ Kayo có thể dẫn con bé đi bộ
cùng mình mỗi sáng. Bà cảm thấy một chuyến đi sẽ luôn có giá trị hơn khi có ai
đó ở bên.

Đôi mắt kính đã trắng mờ hơi thở của chính bà, Kayo bèn bước
chậm lại và xem máy đếm bước chân đeo ngang thắt lưng. Việc này với bà chẳng
mấy cần thiết. Thường thì bà vẫn đoán được mình đã đi được bao nhiêu bước và
chưa bao giờ sai quá vài bước cho cả hai chiều đi về. Chính xác như vậy cũng
đúng thôi. Dù gì bà cũng đã đi bộ trên quãng đương này gần như hàng ngày suốt
hai mươi năm qua.

Đứng nghỉ trước một hang đá sụt, bà lại nhìn máy đo bước
chân, vừa đúng hai nghìn bước. Có nghĩa là bà đã đi được hẳn một dặm từ lúc ra
khỏi nhà ở Kamoi. Duỗi thẳng lưng, bà bước về phía biển, chắp hai tay cầu
nguyện khi thấy mặt trời lên. Suốt hai mươi năm qua, lời cầu nguyện của bà hầu
như chẳng hề thay đổi. Bà cầu sức khỏe cho hai người con trai, một người đang
sống ở Tokyo, người kia ở Hokkaido, và cho gia đình họ. Thỉnh thoảng, khi
cần, bà cầu điều mình mong muốn, nhưng không bao giờ nhiều hơn một điều cả. Bà
không bao giờ cầu xin quá nhiều. Kayo tin rằng nếu đứng ở mũi Kannon và hướng
về phía mặt trời đang lên cầu nguyện thì mọi điều ước của ta sẽ thành hiện
thực. Sau khi bà thỉnh cầu mặt trời liên tục gần hai tháng, con trai bà hãnh
diện gọi điện thông báo rằng anh vừa được thăng chức lên làm giám sát khu vực, ở
độ tuổi còn rất trẻ.

“Đó là nhờ Phật bà Quan Âm,” Kayo bảo anh.

“Ha! Con nghĩ là nhờ con rất thạo việc,” con trai bà cười
đáp.

Ban đầu bà đi bộ buổi sáng như một cách để phục hồi thể
trạng, nhưng giờ những chuyến đi bộ ấy đơn thuần chỉ để cầu cho những điều tốt
đẹp sẽ xảy ra đến vơi gia đình bà.

Tính đến giờ đã được hai mươi năm kể từ ngày Kayo ngã quỵ
trên một góc phố ở Yokosuka.
Hồi đó bà ngoài năm mươi tuổi. Một chiếc xe cấp cứu đưa bà tới bệnh viện, ở đó
bác sĩ chuẩn đoán bà bị xuất huyết não. Tình trạng của bà đòi hỏi phải phẫu
thuật ngay lập tức. May mắn thay, ca phẫu thuật thành công, nhưng tạm thời bà
mất đi khả năng đi lại bình thường. Suốt vài tháng trời sau khi xuất viện, bà
phải dựa vào vai chồng mới đi được. Giờ thì bà đã phục hồi đến mức chẳng thể
nhận ra ngay lập tức rằng bà từng phải kéo lê chân trái theo mình. Từng có lúc
tinh thần bà sụt xuống rất thấp khi nghĩ rằng suốt những năm tháng còn lại của
đời mình sẽ không có lúc nào bà không đi tập tễnh. Nhưng thành công khi vượt
qua khó khăn ấy đã khiến bà tự tin thêm nhiều đến mức bà cảm thấy mình như đã
tái sinh. Sau cuộc phẫu thuật, bà có cảm giác mình còn có dồi dào sức sống hơn
cả trước đó. Như Kayo vẫn tin, điều này cũng là do Phật bà Quan Âm phù hộ.

Ngoài chuyện đức Quan Âm có lẽ đã thật sự góp phần vào sự
hồi phục mạnh mẽ của Kayo, còn có một lí do nữa giải thích cho sức sống mới của
bà. Nó bắt đầu khi một dải ánh sáng chiếu vào mắt bà. Thậm chí đến giờ bà vẫn
còn trông thấy nó, vì hình ảnh đó đã khắc ghi vào võng mạc bà. Dải sáng phát ra
từ một vùng thủy triều trên bãi biển ấy là một trong những lí do giải thích vì
sao bà cứ nhất định phải đi bộ hàng sáng đều đặn như đồng hồ. Chuyện này xảy ra
đã gần hai mươi năm trước, chừng sáu tháng sau khi bà được xuất viện.

Dù bác sĩ đã động viên Kayo đi bộ như một phương pháp hồi
phục sức khỏe, bà coi đó là chuyện vặt vãnh đến mức cứ liên tục bỏ qua. Cuối
cùng, bác sĩ nói bà sẽ nằm liệt giường nếu không chịu thay đổi thái độ. Những
lời đó thôi thúc bà hành động, và một buổi sáng nọ bà quyết định đi dạo.

Tuy phải nặng nề lê cái chân trái phía sau, bà vẫn xoay xở
đến tận chóp mũi đất. Khi dừng lại lấy hơi, bà rũ người xuống qua rào chắn lối
đi dạo. Bà hoàn toàn kiệt sức sau khi vật lộn đi hết cả quãng đường, ép cái
chân trái tiến lên theo toàn bộ phần cơ thể còn lại. Suốt từ hồi xuất viện, bà
luôn đau khổ vì cơ thể luôn từ chối hợp tác với ý chí. Từng là một người năng
động, bà cảm thấy sự tàn phế này càng khó chịu hơn. Thở hổn hển, bà ngồi lên
rào chắn và lấy từ trong túi ra một miếng khăn giấy. Lau mắt mũi xong, bà cho
nó lại vào túi, dường như không nỡ vứt đi miếng giấy dùng rồi. Cứ thế bà dùng
đi dùng lại mẩu giấy ấy trong suốt quãng đường đi bộ. Rào chắn dẫn đến một bãi
biển đầy đá. Sóng vỡ tan dưới chân bà, và khi gió đột ngột đổi hướng, nó táp
những giọt bụi nước lên má bà. Ngay dưới chân rào chắn mọc đầy cỏ tía. Từ mỗi
gốc, thân cỏ mập mạp đâm ra mấy chồi non, khiến cả cây này nở bung ta thành
từng chùm hoa nhàn nhạt. Nhưng vào thời điểm này trong năm thì còn quá sớm. Cây
cỏ này là một loài thuộc họ bạch chỉ, tiếng Nhật gọi là ashitaba. Kayo biết cả
tên lẫn xuất xứ của cái tên đó. Trong chữ Hán, ashitaba có nghĩa là “minh nhật
diệp”. Loài cỏ này được đặt tên như vậy vì nếu lá của nó bị ngắt ngày hôm nay thì
đến mai sẽ nảy lộc trở lại. Khi nhìn xuống cây bạch chỉ Nhật Bản, trầm ngâm
nghĩ nó thật sự là bằng chứng của sức sống, bà cảm thấy mình bị thôi thúc phải
cúi xuống và ngắt lấy một hai cái lá. Bà làm vậy không phải vì cơn bốc đồng hủy
diệt mà vì khát vọng muốn loài cỏ ấy sẻ chia với mình chút sức sống đang chảy
trong nó.

Khi chăm chú nhìn vào cuống lá vừa ngắt, bà để ý thấy có
chất lỏng màu vàng ứa ra từ mạch cỏ. Bà cầm cái lá đưa lên mũi ngửi thử xem có
thơm không. Bà không thể khẳng định rằng mình không ngửi thấy gì vì loài cỏ này
không có hương thơm hay vì chứng sổ mũi khiến khứu giác của bà trở nên kém nhạy
hơn.

… Mai mình phải trở lại đây xem mới được.

Bà sẽ quay lại với quyết định ấy, bà ngẩng lên. Đúng lúc đó
bà trông thấy nó: một dải sáng nhỏ chiếu qua mắt bà. Đầu tiên, bà chưa thể xác
định được ánh sáng đó xuất phát từ đâu. Dường như không phải nó phát ra trực
tiếp từ mặt trời vì nó bắt đầu nhấp nháy phía trên đường chân trời mới. Nó tạo
ấn tượng lóe bằng cách sáng rực trong chốc lát, để lại một hình ảnh lưu trên
võng mạc bà, rồi biến mất.

Bà thử hướng mắt về hướng chính chỗ bà từng trông thấy ánh
lấp lánh ấy biến mất. Đúng vậy, nó lại xuất hiện lần nữa. Cũng góc độ đó, dải
sáng lại chiếu vào mắt bà, chỉ yếu hơn lúc trước một chút. Ở đó, tại sao khoảng
trống trơn trên bờ biển toàn đá, dường như có gì đó đang bập bềnh trong vũng
nước biển và phản chiếu ánh mặt trời. Ở một góc nhất định, nó tạo ra một tia
sáng và chiếu vào mắt Kayo.

Đi xuôi xuống bên kia của rào chắn, bà đến bên cạnh cái vũng
nước thủy triều. Cẩn thận để khỏi bị ướt, bà ngồi xổm xuống để nhìn kĩ hơn. Bà
phát hiện ra nguồn của ánh sáng phản chiếu ấy là một túi nylon chứa trong một
hộp nhựa trong mờ. Có vẻ như sóng đã xô nó về phía bãi đá. Cái hộp hình trụ bập
bềnh trong nước như thể có ý chí của nó. Bà cho rằng mình đã nghe thấy một
giọng nói giục bà với tay ra nhặt cái hộp lên. Dù không có thói quen nhặt nhạnh
những vật bị sóng đánh dạt lên bờ, bà vẫn không cưỡng lại được, bèn với tay
nhặt nó lên. Bà nhón tay nhấc cái túi nylon tong tong nước rồi giơ nó về phía
ánh mặt trời mới lên. Cái hộp bên trong nó được niêm phong cẩn thận bằng băng
dính. Rồi bà thấy trong hộp là một tờ giấy cuộn lại.

… Một lá thư!

Trực giác lóe lên, bà xé toang cái túi và lấy lá thư khỏi
hộp. Một hình ảnh tưởng tượng lãng mạn xảy đến với bà trong khoảnh khắc ấy, rằng
bà vừa nhận được một lá thư dạt vào bờ sau khi vượt qua một khoảng cách vĩ đại.
Hoặc ngược lại, có thể chỉ là một đứa trẻ đã làm việc đó. Bà nhớ lại một lần
từng thấy con trai lớn của mình buộc những lá thư kì cục vào bóng bay trong
ngày hội thể thao ở trường, cuối cùng thả hết số bóng đó lên trời. Kayo chợt có
ý nghĩ rằng rất có thể đứa trẻ nào đó cũng đã làm việc tương tự, chỉ là gửi gắm
lá thư cho biển cả chứ không phải cho không trung.

Kayo quyết định không đọc lá thư trong hộp ngay tại chỗ mà
cho cái hộp vào túi rồi bắt đầu quay về nhà. Không hiểu sao, bà cảm thấy chân
trái mình đã không còn lê lết nặng nề như lúc bà ra khỏi nhà nữa.

Khi mở hộp ra, thứ bà tìm thấy trong đó là một tấm bản đồ
vùng núi Chichibu và phụ cận được gấp cẩn thận rồi cuộn lại. Bà thấy có chữ
viết ở mặt sau; và trước khi kịp suy nghĩ gì khác, bà đã đọc to nó lên. Lần đầu
tiên, nó chẳng gợi cho bà chút cảm xúc gì, dù chỉ nhỏ nhất. Nghe như một hai
cụm từ trích ra từ bài thuyết pháp nào đó.

Bà để ý thấy người gửi là một anh Fumihiko Sugiyama nào đấy,
và cuối lá thư có ghi ngày tháng, chỉ ra rằng nó được viết cách đây một năm. Có
lẽ cũng không phải quá suy diễn khi kết luận rằng Fumihiko Sugiyama đã viết lá
thư này cho con trai Takehiko của anh. Nhưng Kayo vẫn không thể tưởng tượng ra
Fumihiko đã viết lá thư ấy trong hoàn cảnh nào. Bà cũng không hiểu ý nghĩa của
tấm bản đồ vùng núi Chichibu. Trong khi ấy, địa chỉ trên thư lại viết là khu
Ohta, Tamagawa (sông Tama), thậm chí có cả số nhà nữa. Nhìn vào tấm bản đồ thì
thấy khu vực có địa chỉ mà lá thư gửi đến ở khoảng giáp ranh giữa Tokyo và quận
Kanagawa, tại cửa sông Tama.

Sau đó lá thư nằm trong tủ ngăn kéo một thời gian. Tuy vậy
nó không bị vứt đi và quên lãng. Bất cứ khi nào trí tưởng tượng ập tới, Kayo
lại lấy nó, mải mê nghiên cứu. Càng đọc lại lá thư nhiều lần, những dòng ấy
càng tỏa ra nhiều hào quang ý chí mạnh mẽ. Bà chợt nghĩ sức mạnh này còn có thể
lớn hơn tột bậc nếu lá thư được chuyển đến cho người nhận mà chủ nhân của nó định
gửi cho. Bà quyết định sẽ xem lá thư có thể đến đúng địa chỉ ghi trên nó không.
Ý tưởng đến với bà một cách tự nhiên: đích thân bà sẽ chuyển lá thư đến cho
người nhận chứ không qua bưu điện. Suốt hơn nửa tháng trời, bà đọc đi đọc lại
lá thư, cảm thấy nó truyền cho mình sức mạnh. Bà cảm thấy nhất định phải tìm ra
địa chỉ đó để củng cố sức mạnh chính bà được ban cho và tỏ lòng biết ơn vì điều
đó.

Đồng thời, bà cũng cảm thấy đây là một mục tiêu mới cho
mình. Trước hết việc này sẽ đòi hỏi bà phải bắt đúng những lần chuyển tiếp tàu
hỏa trên tuyến từ Yokosuka đến Tamagawa ở khu Ohta. Đây không phải loại kế
hoạch bà cảm thấy chắc chắn thực hiện được, trừ phi bà có thể tự mình đi vòng
qua mũi Kannon rồi quay trở lại mà không gặp trở ngại gì.

Sau đó, thời gian biểu buổi sáng của bà là thức dậy trước
bình mình, khởi hành đi bộ quanh mũi đất, ngắt vài chiếc lá cây bạch chỉ dâng
lên Bồ tát Địa Tang, cầu cho chân mình trở lại như cũ.

Bà nghĩ đến việc chậm đưa lá thư đến đích là có thể lượng
thứ. Đằng nào thông điệp đó cũng được viết cách đó gần một năm rưỡi rồi; hiển
nhiên nó có thể đợi thêm chút nữa. Nhưng bà cũng hiểu được rằng có thể gia đình
đó đã biết về bức thư và đang chờ đợi được nhận nó trong lo lắng. Ý nghĩ đó hất
bà ra khỏi cảm giác tự thỏa hiệp và đẩy bà lão vào những nỗ lực phục hồi chân
trái.

Đến khoảng mùa bạch chỉ nở hoa, chân bà đã phục hồi để bà có
thể tự mình đi cả quãng đường tới tận Tamagawa rồi trở lại. Kayo chọn một buổi
chiều đẹp trời đầy nắng để bắt tay vào thực hiện kế hoạch của mình.

Chung cư có địa chỉ như lá thư nằm không cách xa ga, ít nhất
theo đường chim bay. Tuy nhiên, dọc theo đường Kayo bị lạc vài chỗ và phải dò
dẫm đi tới đi lui vài phố thì cuối cùng mới tìm được khu nhà ấy. Khi đến nơi, bà
hoàn toàn kiệt sức, đến nỗi tưởng không nhấc nổi chân đi thêm bước nào nữa. Bà
phải dựa toàn bộ sức nặng của cơ thể vào lan can mới có thể lên hết ba bậc thềm
dẫn đến sảnh chung cư. Tình hình này thì bà sẽ chẳng thể về nổi nhà ga, trừ phi
phải tìm ngay một chỗ nghỉ.

Tên của bốn người được viết trên hộp thư của địa chỉ lá thư cần
gửi tới: SUGIYAMA, Fimihiko, Kyoko, Takehiko, Akihiko. Kayo cảm thấy người cha,
người đã gửi lá thư này, hẳn phải là Fumihiko, còn Takehiko hẳn là con trai
anh. Từ nội dung bức thư, Kayo chắc chắn rằng đó đúng là một lá thư của cha gửi
cho con trai. Những cái tên trên hộp thư trước mặt bà dường như đã chứng thực
giả định ấy. Bà thấy mình tưởng tượng ra đủ kiểu tình huống có thể. Hoàn cảnh
nào mà có thể thôi thúc người cha viết cho con mình một lá thư như thế? Hiện
giờ người cha đang ở đâu và anh đang làm gì? Tên của người cha vẫn còn trên hộp
thư. Điều đó có nghĩa là anh đang sống cùng gia đình hay không? Hay có nghĩa
là…?

Kayo cho lá thư trở lại hộp đựng phim, như khi bà tìm thấy
nó. Tiếng lách cánh của kim loại vang lên khi bà bỏ nó vào hòm thư. Tiếng động
khiến Kayo yên tâm rằng cuối cùng nó cũng đã đến được nơi mà chủ nhân nó muốn.

Bà đã hoàn thành phần việc của mình. Cảm giác mệt nhọc và
hài lòng lẫn lộn khiến tấm thân nhỏ bé của bà buông xuống nghỉ trên sofa, cứ ở
đó và phó mặc mình cho những hình ảnh tưởng tượng đủ loại. Bất chợt, có vẻ đã
đến giờ cho một hoạt động gì đó trong sảnh vắng hoe. Bà nhìn lên thấy một cậu
bé chừng bốn năm tuổi đang cố hết sức mở cửa kính lối vào.

“Mẹ ơi, đói quááá!” thằng bé hét.

Khi ấy, mẹ nó đang cố leo bậc thang dẫn lên tòa nhà cùng một
chiếc xe nôi trong đó là một đứa trẻ sơ sinh đang khóc ầm ĩ. Lúc nhấc chiếc xe
nôi lên, cô tựa vào tay vịnh lan can để đi lên ba bậc thang, y như Kayo. Lên
hết bậc thang, người mẹ bước vào cánh cửa mà con trai cô đang giữ mở sẵn. Cậu
nhóc lại tiến lên phía trước mở đường cho mẹ, vừa đi vừa nhảy nhót đầy sinh
lực. Đến chỗ hòm thư, nó lại bắt đầu nhảy lên, cố với tới hòm thư nhà nó, nhưng
không được. Mẹ nó bắt kịp, nhanh chóng lấy thứ bên trong ra và giơ chúng lên cao.
Thằng nhóc hét lên phản đối; mắt nó dán vào hộp phim như thể đó là một giải
thưởng quý giá, và nó nhảy lên cao hơn hẳn lúc trước. Người mẹ đứng đó, ngờ vực
nhìn hộp phim vừa lấy ra khỏi hòm thư, trong khi cậu bé con cứ nhảy tưng tưng
bên cạnh, gào lên “Con muốn nó!” và “Cho con xem!”

Rồi cửa thang máy mở, và ba người bọn họ biến mất vào trong,
để lại sảnh hoàn toàn chìm trong sự tĩnh lặng không một bóng người vốn tràn
ngập nó trước khi họ tới. Trong im lặng, tiếng khóc của đứa bé trong nôi và
tiếng gào của cậu bé nọ cứ lẩn quất trong tai Kayo. Bà nặng nhọc đứng lên khi
những âm thanh đó còn chưa kịp phai mờ hẳn.

Sự ồn ào dồn nén vào khoảnh khắc ngắn ngủi lúc đó hẳn đã
thực sự để lại ấn tượng sâu sắc. Nhiều năm ròng sau đó, Kayoi vẫn hình dung ra
cảnh cậu nhóc nhảy loi choi. “Bố biết bố có thể tin tưởng rằng con sẽ chăm sóc
mẹ và đứa em sắp sinh tốt.” Đây là những lời cuối cùng của người cha dành cho
đứa con trai nhỏ, và ngay cả đến giờ từ nó vẫn tỏa ra niềm sướng vui thấm thía
đến mức Kayo vẫn còn nhớ rõ khuôn mặt nhỏ đầy nghị lực ấy, tràn đầy sức sống.

Đương nhiên Kayo ghi nhớ toàn bộ nội dung bức thư. Cuối mùa
hè năm ngoái, bà đã đọc thuộc lòng lại lá thư cho cháu gái Yuko, bảo nó đó là
một phần của kho báu mà biển cả đã đánh dạt lên bờ. Sau khi nghe bà đọc, con bé
nhìn bà với ánh mắt đầy nghi ngờ. Nó không hiểu lắm sao những lời ấy lại có thể
ngang bằng với “kho báu” được, dù kho báu thuộc loại gì. Thực ra, ngay cả Kayo
cũng không thể khẳng định chắc rằng mình hiểu sự thật đằng sau bức thông điệp
ấy. Nhưng không thể phủ nhận rằng bất kể sự thật là gì, nó cũng đã ngấm vào
từng đường gân thớ thịt bà, tạo nên một sức mạnh nâng đỡ tinh thần. Bà phải bắt
đầu đi bộ hàng sáng, và giờ chân trái của bà đã hồi phục kể từ đó, và đến nay
đã gần như hồi phục hẳn.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com – gác nhỏ cho người yêu
sách!]

Lại sắp đến kì nghỉ xuân. Chẳng bao lâu nữa Yuko sẽ đến ở
với bà. Kayo ngắt một lá bạch chỉ và dâng lên pho tượng Địa Tạng ven đường. Khi
rảo bước về nhà, bà thấy căng tràn sức sống.

Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Mai – Fuju – thao1011
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3