2. Biệt đảo - Phần 5 - 6 - 7

5

Điểm tập hợp là phòng đợi của bến du thuyền Đảo Mơ. Sasaki
có vẻ bận rộn với việc liếm láp cái kem của mình. Ngoài anh và Kensuke, ở đó
chỉ có thêm một người là quan chức chính quyền thành phố tên là Naito; các
thành viên hội đồng đại diện cho Minato vẫn chưa xuất hiện. Hẹn lúc mười giờ
nhưng giờ đã trễ mất mười phút. Kì nghỉ hè vừa mới bắt đầu, vào những buổi sáng
ngày thường, có rất nhiều người trẻ tuổi, cả nam và nữ, đến bến du thuyền. Mỗi
khi có một cô gái đi qua, mặt Sasaki lại ngẩng lên khỏi cây kem để dán mắt theo
cho đến khi cô nàng đi khuất. Kensuke thọc khuỷu tay vào sườn Sasaki.

“Trưởng đoàn, thật đáng xấu hổ. Ở tuổi của anh.”

“Đừng có phong tôi làm ‘trưởng đoàn’ chứ!” Sasaki nhăn nhó
đáp.

“Anh bảo tôi đây là một chuyến đi nghiêm túc mà.”

“Cậu có để tôi yên không hả?”

Giọng lưỡi châm biếm của Kensuke đang phát huy tác dụng, và
Sasaki xua xua tay như thể để tống cổ một con ruồi làm phiền.

“Một giấc đến giời” là câu thành ngữ sinh ra để miêu tả
Sasaki. Cơn bốc đồng đặc trưng chuyên thổi phồng sự việc gấp mười lần của ông
lần này được áp dụng với đội khảo sát Daiba 6, Sasaki nói đội này gồm những bộ
óc khoa học lỗi lạc nhất mà thành phố có thể tập hợp được. Nhưng khi Kensuke
đến thì chỉ thấy mỗi Sasaki và một quan chức thành phố.

“Những thành viên khác đâu?” Kensuke ngơ ngác hỏi, chớp chớp
mắt.

Sasaki nhũn nhặn xin lỗi thế này: “Ai cũng bận và lần lượt
gọi điện xin rút lui.”

Naito, quan chức thành phố, lại tiết lộ một câu chuyện khác
khi Kensuke hỏi về vụ này. Có vẻ như là chỉ cần có một thành viên hội đồng khu
và một quan chức thành phố tham gia cuộc điều tra, nhưng Sasaki đã nằng nặc đòi
đi cùng. Tất cả những gì Sasaki đã nói về chuyện “được hội đồng khu chỉ định”
và đã “tổ chức một đội nghiên cứu” chỉ là những lời nói dối trắng trợn. Sự thật
là Sasaki đã kéo theo Kensuke để mình đỡ phải là kẻ duy nhất bám càng họ.

“Ông Kano đến rồi đấy. Chúng ta đã sẵn sàng lên đường.” Chỉ
vào viên đại diện khu Minato, Naito đứng dậy. Theo phản xạ, Sasaki và Kensuke
cũng đứng lên.

Đợi trên con tàu tuần tra nhỏ buộc vào cầu tàu là thuyền
trưởng và độc một thủy thủ boong, cùng là nhân viên chính quyền cả. Cả đội, hiện
tổng cộng là sáu người, nổ máy khỏi bến du thuyền Đảo Mơ dưới ánh mặt trời rực
rỡ lúc mười rưỡi sáng, hướng về Daiba 6, nói chỉ cách đó một tầm ném đá.

Trên đường họ đi qua bên dưới bốn cây cầu. Rầm của một trong
số đó, thấp đến độ với tới được, đã chặn những tia nắng mặt trời lại trong chốc
lát, và toàn bộ sức nặng của cây cầu dường như đổ cả lên họ. Khi họ chui qua
cây cầu thứ tư, cầu Cầu Vồng hiện ra trong tầm mắt và phía sau đó chính là
Daiba 6. Kensuke nhớ lại mình từng nhìn xuống hòn đảo từ lối dành cho người đi
bộ của cầu Cầu Vồng ngay khi cây cầu xây xong ra sao. Trên bệ quan sát, qua ống
nhòm, anh nhìn xoáy vào sâu trong cánh rừng rậm rạp che kín hòn đảo. Giờ thì, lần
đầu tiên, anh đang nhìn thấy hòn đảo từ độ cao gần ngang với mực nước biển.

Khi hình dáng của hòn đảo hiện ra lớn hơn, Kensuke khấp khởi
hi vọng. Cuối cùng anh cũng có thể tiếp cận với bối cảnh của một ảo ảnh vẫn
không ngừng biến đổi và đâm chồi nảy lộc bằng ý chí của chính nó trong suốt
chín năm qua. Daiba 6, một hình ngũ giác bất quy tắc với diện tích bề mặt
khoảng gần năm hecta và chu vi hơn nửa cây số, được bảo vệ bằng một bức tường
đá cao gần năm mét, nghe đâu còn có một giếng nước ngọt cho dù nó chỉ là một
hòn đảo nhân tạo nằm giữa vịnh. Nghĩ rằng chỉ cần có nước là sống được, nên
suốt chín năm trời Kensuke vẫn cho rằng Yukari còn sống trên hòn đảo biệt lập
ấy. Anh cũng biết đó là một ý nghĩ buồn cười. Nhưng anh không thể không tính
đến nụ cười lạ lùng đầy thỏa mãn hiện trên gương mặt Aso ngay trên ngưỡng cửa
cái chết. Có phải Aso, với bộ não bị tế bào ung thư xâm chiếm, đã khuất phục
trước sự dối trá của chính mình? Hoặc có lẽ anh, vì hi vọng có được một nơi để
sống sau khi chết, đã hợp nhất một hoang đảo với hình ảnh thiên đường?

Dường như chờ đợi được cho ăn, một bầy hải âu lớn vây quanh
con tàu tuần tra. Chỉ bay là là trên mặt biển, bầy chim lướt qua Daiba 6 rồi
vút lên trên nó. Rung mạnh như thế để đám hải âu dãn ra, con tàu phanh lại cập
bờ Daiba 6.

6

Trong khi Sasaki, chuẩn bị kĩ lưỡng đến từng chi tiết, trang
bị cả máy quay phim, băng video, và sổ kí họa thì Kensuke hầu như chẳng mang
theo gì ngoài một đôi ủng chống thấm mà trước khi cập bờ anh đã đi thay cho đôi
giày đế mềm.

Sasaki nhảy lên cầu cảng và kêu lên, “Chẳng thay đổi tí nào!”

Kensuke ngạc nhiên, hỏi ông, “Ý anh là hồi trước anh đã đến
đây rồi?”

“Mỗi một lần thôi. Mười năm về trước, trong một chuyến đi
khảo sát như lần này.”

Mười năm trước…, Kensuke trầm ngâm. Một năm trước cái chết
của Aso.

“Nhìn kìa!”

Sasaki chỉ một khoảng hẹp trong bờ đê biển. Đằng sau nó mở
ra một không gian mờ mờ bị bóng cây che khuất, còn phía trước, nơi trên thực tế
vẫn là đường bờ biển, có cái gì dó giống như vô số cây mùi tây mọc um tùm.

“Kia có phải là cây mùi tây không nhỉ?”

“Đấy là cây bạch chỉ. Angelica keiskei. Có nhiều trên bán
đảo Izu và đảo Oshima. Hẳn là đã phải trôi dạt một khoảng cách không nhỏ! Cũng
ở đó được mười năm rồi.”

Sasaki tỏ lòng ngưỡng mộ trước sức sống của loài bạch chỉ, loài
cây có hạt giống bị đánh dạt lên bờ từ nơi chỉ có trời mới biết, rồi bén rễ và
lớn lên với sinh lực đến thế. Sasaki nhắc lại vài lần rằng điều đáng kinh ngạc
nhất về đảo Daiba là sự phong phú và sức sống dồi dào của những hạt giống đã
tìm được đường tới đó, và rằng nơi đây là một kho báu thiên nhiên rất đáng để
nghiên cứu tỉ mỉ một cách chính xác bởi nó biệt lập hẳn với công chúng.

Trong khi Naito và Kano
đề nghị rằng trước hết họ sẽ làm nghiên cứu tổng quan bằng cách đi quanh đảo
một vòng dọc theo bờ đê biển, Sasaki rõ ràng là muốn đi thẳng đến trung tâm hòn
đảo, và Kensuke chọn đi cùng Sasaki. Thuyền trưởng và người thủy thủ sẽ ở lại
trên cầu cảng. Mọi người cũng quyết định là mỗi cặp, Kano và Naito đi một vòng quanh đảo, Sasaki
và Kensuke đi sâu vào phía trong, sẽ mang theo một bộ đàm di dộng. Đây không
phải là một đảo lớn, từ bên này sang bên kia chỉ cách độ trăm mét; nếu hét lên
họ sẽ nghe thấy tiếng nhau. Nhưng họ có bộ đàm và chẳng có lí do gì không sử
dụng chúng.

“Gặp lại sau nhé.” Naito và Kano vẫy chào những người còn lại và lên
đường, đi dọc trên đê biển.

Sasaki và Kensuke bước qua đám cây bạch chỉ um tùm thẳng
tiến vào vùng phía trong mờ mờ tối. Mỗi lần Sasaki bắt gặp một loài thực vật kì
lạ nào đó, ông lại giương máy quay phim lên, ghi hình nó vào băng video hoặc vẽ
vào sổ kí họa. Không có loại cây nào Kensuke không biết mà Sasaki không nhận
ra; bậc tiền bối này của anh thực sự đã chứng minh mình là một chuyên gia khoa
học tự nhiên. Sự nghiên cứu nghiêm túc trong ánh mắt ông dường như chứng tỏ vẻ
bông đùa thường thấy của ông chỉ là vẻ bề ngoài, và Kensuke lại nhìn ông theo
một cách khác.

Đất đảo, không quen với những bước giậm của chân người, rất
mềm, rỉ ra dòng chất lòng đen từ lớp mùn dưới bước đi thận trọng của họ. Nếu
không có ủng, chân họ đã hoàn toàn ướt sũng từ lâu rồi. Thậm chí không khí cũng
rất ẩm ướt. Cỏ cây, những thứ hiếm thấy ở Tokyo,
ở đây lại um tùm rậm rạp, vì một lí do nào đó tỏa ra mùi hương quái đản và tạo
nên một khu rừng nhỏ lai tạp độc nhất vô nhị cho hòn đảo này. Khi gió biển lay
động ngọn cây, khắp nơi xung quanh họ ngập trong âm thanh xào xạc, và thỉnh
thoảng Kensuke chẳng còn biết mình đang ở đâu nữa. Anh gần như quên hết chuyện
Yukari. Hòn đảo này đơn giản là quá khác vùng đất mà anh tưởng tượng.

Càng đi sâu, càng âm u ảm đạm – và Sasaki càng lúc càng ít
nói. Ông cũng không hay nhòm vào máy ảnh như trước. Quay ngang quay ngửa một
hồi, cuối cùng ông đứng lại.

“Lạ thật,” ông lẩm bẩm.

Kensuke, vẫn theo sát Sasaki nãy giờ, cũng đứng lại theo. “Cái
gì lạ cơ?” anh hỏi.

Sasaki chỉ ậm ừ mà không giải thích, chìm vào suy nghĩ. Cả
hai đứng im một lúc, không ai phát ra tiếng nào.

“Anh không sao chứ?” Kensuke trông có vẻ lo lắng khi anh phá
vỡ im lặng.

“Đám cây bạch chỉ chỗ chúng ta cập bờ trông vẫn y hệt. Nhưng
khi chúng ta đi sâu vào trong… có cái gì đó rất lạ.”

“Ý anh là, khác lúc trước à?”

“Tôi không nói trước được. Nhưng chắc chắn có gì đó không
ổn.”

Nghe thấy thế, Kensuke bèn căng thẳng nhìn quanh. Anh nghĩ
mình dần có những trực cảm xấu. Ai cũng biết là hồi những năm 1920, người ta
đồn Daiba 6 là hòn đảo bị ma ám. Chỉ mới gần đây thôi, Kensuke nghe nói có một
vận động viên lướt ván buồm đang luyện tập ở Công viên Bãi Biển đã mất hút sau
đảo và biến mất không dấu vết, cùng cả tấm ván lướt và mọi thứ - hoặc đại loại
thế. Nhớ lại những câu chuyện như thế, Kensuke không khỏi thấy bất an.

“Đi tiếp thôi, được chứ?” Kensuke giục, định bụng sẽ gắng
can đảm, nhưng giọng anh vẫn hơi run một chút.

“Chắc phải mười năm rồi chẳng có ai đến đây…” Sasaki lẩm bẩm
một mình, như thể để xác nhận lại sự thực, rồi tiếp tục bước đi. Lúc trên tàu
Naito đã nói với họ rằng đấy là lần đầu tiên Hội đồng Khu Minato tham gia viện
nghiên cứu đó và rằng chưa có một cuộc trong suốt mười năm qua.

Kensuke vẫn im lặng.

Sasaki đứng lại lần nữa. Ngước nhìn, ông thốt lên, “Khu rừng
này đang nuôi dưỡng một cái gì đó!”

“Sao lại không chứ? Chẳng phải cây cối luôn duy trì các dạng
sống gần đó sao?”

Sasaki chỉ chéo lên trên. “Đó là một cây hồng ngâm. Bên cạnh
nó là cây sơn trà. Lần trước tôi ở đây, chẳng có cây ăn quả nào hết.”

Chưa kịp dứt câu thì Sasaki đã dợm chân chạy về phía trước.

“Chờ với!” Kensuke kêu lên.

Nhưng Sasaki chỉ tăng tốc, và đó cũng là tất cả những gì
Kensuke có thể làm để theo kịp ông. Mồ hôi nhỏ tong tong, anh sắp bỏ cuộc rượt
bắt đến nơi thì quang cảnh đột nhiên thay đổi và anh thấy mình giữa một khoảng
đất trống rộng chừng mười mét. Nơi này có vẻ là trung tâm đảo, bốn bề là rừng
rậm như nhau. Cầu Cầu vồng sừng sững in bóng lên nền trời phía Bắc. Thật gai
người khi bắt gặp hình ảnh một công trình hiện đại từ trung tâm một hòn đảo
giống như rừng rậm không người. Cứ như thể các chiều không gian đã trở nên rối
loạn và Kensuke đã lạc bước vào một thế giới ngoài trái đất.

Mặt trời giữa buổi trưa tưới đẫm khoảng đất trống xanh cỏ
bằng vô số tia nắng. Ve sầu rền rĩ inh ỏi. Không khó để Kensuke nảy ra vài từ
miêu tả khoảng đất này: đó là một khu vườn. Cà chua, cà dái dê, dưa chuột, và
những loại rau mùa hè khác được trồng thành các luống đâu ra đấy. Giờ thì không
thể phủ nhận rằng có một lực lượng không phải của tự nhiên đang hoạt động ở
đây. Những luống rau này đã được trồng theo một ý chí nào đó vì một mục đích gì
đó. Đây không phải là một cách tự nhiên. Kensuke và Sasaki nhìn nhau, cùng xác
nhận cảm tưởng của mình.

“Nhìn kìa.” Sasaki hất hàm về mép phía Đông của khu đất. Ba
thanh gỗ mảnh dựng đứng trên một nấm đất.

Tiến lại để nhìn rõ hơn, họ thấy rằng những thanh gỗ đó là
những tấm bài vị. Trong số những chữ viết bằng mực, chỉ có hai chữ là đọc được,
cả hai đều là những chữ vẫn thường có trên bài vị, còn những chữ khác đã mờ
sạch. Những cái bài vị này làm gì ở đây chứ? Liệu có thể nào chúng cũng từ đâu
đó trôi dạt đến đảo Daiba 6 này? Nếu vậy sao chúng lại cắm chắc đến thế xuống
đất?

“Anh nghĩ thế nào?” Kensuke nói.

Nắm đất bên dưới những thanh gỗ gợi lên duy nhất một điều
cho cả hai người.

Sasaki nói ra điều đó: “Đây hẳn phải là một ngôi mộ.”

Kiến xếp đội hình hàng dọc bò ngoằn nghèo trên đống đất
tròn. Một ngôi mộ… Chẳng thể là cái gì khác được.

Ngay lúc đó, máy bộ đàm di động đang treo trên vai Kensuke
bỗng bừng tỉnh.

“Kano đây. Anh có nghe thấy tôi không? Hết.”

“Chúng tôi nghe rõ,” Kensuke đáp, ngón tay đặt trên nút
chuyển.

“Chúng tôi vừa thấy một bóng đen nhỏ trên bờ đê phía biển.
Nó biến mất vào trong rừng và chắc đang di chuyển về phía trung tâm. Xin hãy
cẩn thận.”

“Gì cơ?”

“Có thể đó chỉ là một con gì đấy thôi.”

“Có lẽ là một con chó chăng? Hay là mèo?”

“Không,” Kano bác bỏ ngay lập tức.

“Sao anh chắc như vậy?”

“Chúng tôi không chắc. Chúng tôi đã cố đi theo nó, nhưng nó
lao vào rừng với tốc độ đáng kinh ngạc.”

“Phía Tây à?”

“Đúng vậy.”

“Rõ. Hết.” Kết thúc cuộc điện đàm, Kensuke nhìn Sasaki, chờ
quyết định của ông.

“Đi nào.”

Sasaki bắt đầu bước về khu rừng phía Tây, nơi vật đó được
báo cáo là biến mất, và Kensuke theo sát phía sau. Hai người dừng lại ở mé
khoảng đất và, cẩn thận không để phát ra tiếng động nào, dò xét phía trước. Họ
vẫn chưa nghe thấy gì, nhưng vật đó đang đi xuyên qua đám cây rậm rạp ngay
trước mặt họ để tiến đến gần. Kensuke nín thở chờ một điều gì đó xuất hiện.

Một con muỗi vo ve khó chịu gần mũi Kensuke trong khi anh
khom mình chờ đợi. Nếu tuyệt đối bất động, phần da thịt hở ra ngoài quần áo anh
sẽ trở thành bữa yến tiệc cho con muỗi. Phải thu mình nấp ở đó đồng thời khổ sở
cử động từng tí một quả thật là mệt mỏi.

Cỏ trong bụi rậm phía trước dường như lay động. Chẳng mấy
chốc đã nghe thấy tiếng cái sinh linh đang tiến lại gần ấy sột soạt qua những
cành cây bị dạt ra. Và rồi, bất chợt, một vật nhỏ thó đen thui nhảy xổ vào
Kensuke.

Trước khi ý thức được chuyện gì, anh đã ngã bổ ngửa ra đất.
Lực tác động của một cái gì đó cứng cứng đập vào hàm anh từ bên dưới gần như
khiến anh không dậy nổi, nhưng bàn tay anh vẫn túm chặt được thứ đó theo bản
năng. Một tiếng gầm hung dữ vang lên bên tai anh, một giây sau đó, anh cảm thấy
một cơn đau buốt nhói chỗ cánh tay. Anh không biết chuyện gì đang xảy ra nữa.
Anh cảm thấy trên mình có gì đó nằng nặng, và khi bị nó nhấc lên, anh mở mắt ra
và thấy một hình cắt bóng nhỏ thó đen thui hằn lên ánh mặt trời chói chang mùa
hạ đang treo lơ lửng trên cánh tay Sasaki. Cái sinh vật mà Sasaki đã lôi ra
khỏi anh đó là một thằng nhóc có lẽ khoảng bảy hay tám tuổi.

Kensuke đã nặng nhọc ngồi dậy được nhưng vẫn trong tình
trạng không sao tin nổi. Thằng nhóc đang hú, không phải bằng thứ tiếng nào của
con người, mà như một con thú hoang. Những âm thanh đinh tai đó mang trong mình
sự cầu xin hoảng loạn nhưng không sao hiểu nổi và khiến Kensuke thấy sợ hãi. Rõ
ràng thằng nhỏ đã cắn anh. Có những giọt máu trên cánh tay mà anh đang thấy đau.
Kensuke đứng dậy, ấn chặt tay trên vết thương. Đúng lúc ấy, Kano và Naito xông
tới từ rừng cây phía sau. Ngay khi nhìn thấy thằng nhóc đang bị Sasaki giữ chặt
trong tay, Kano liền rút bộ đàm ra liên lạc với thuyền trưởng tàu tuần tra.

“Chuẩn bị rời khỏi đây… Liên lạc với cảnh sát…” Những chỉ đạo
mà Kano liến thoắng liên tiếp chỉ ghi vào đầu Kenseuke như những mảnh rời rạc.

Anh thấy chóng mặt. Anh cố lí giải chuyện vừa xảy ra. Thằng
nhỏ hẳn đã luôn theo dõi anh từ phía sau khi anh chạy. Không để ý đến sự hiện
diện của Kensuke ngay trước mặt, nó cụng đầu vào hàm Kensuke. Nhưng sao lại có
một thằng bé, trên hòn đảo này? Kano và những người khác đang hỏi tên và địa
chỉ của nó. Hất đầu dữ dội, nó chỉ phát ra những tiếng kêu lộn xộn và chẳng đưa
ra thông tin nào. Nghe thấy những tiếng kêu đó, những âm thanh không phải tiếng
Nhật cũng chẳng phải bất cứ thứ tiếng nào, Kensuke lại thấy chóng mặt.

7

Thằng nhóc ngồi trên sàn boong tàu, đầu cứ nghển lên trên
mạn. Nó dán mắt nhìn trân trân vào hòn đảo. Trên mặt nó chẳng biểu lộ cảm xúc
gì. Rời bỏ mảnh đất chôn rau cắt rốn thường gợi lên những đợt sóng cảm xúc đặc
biệt dâng trào, nhưng thằng nhỏ không có vẻ gì là biết cách biểu đạt những tình
cảm như thế. Lúc mấy người họ đưa nó lên tàu, nó đã thôi la hét, và đến giờ nó
đã ngồi đó không nhúc nhích được một lúc rồi.

Chẳng có gì phải làm nữa ngoài việc tạm dừng chuyến nghiên
cứu. Ưu tiên số một của họ là đưa thằng nhóc về thành phố và giao cho các nhà
chức trách hữu quan. Không che giấu nổi niềm phấn khích trước kết quả bất ngờ
này, Naito và Kano trao đổi với nhau những giả thiết của họ về lai lịch của
thằng bé, nhìn nó chằm chằm không chút ngượng ngập như thể nhìn vào một đứa trẻ
hoang dã được sói nuôi dưỡng.

Không ai có manh mối gì nữa. Nhưng Kensuke có thể vẽ lại một
bức tranh tương đối rõ ràng về những gì đã diễn trên đảo Daiba 6 trong vòng
chín năm qua. Chỉ nhìn một cái vào mặt thằng bé cũng đủ làm mọi thứ trở nên rõ
ràng. Cái mũi nhỏ nhắn thanh tú đó, đôi mắt lạnh lùng đó, đôi môi mỏng đó – cho
dù bị bộ tóc bù xù rậm rạp che khuất, mọi nét của thằng bé đều giống đến không
sao chối cãi được. Kensuke và Aso gặp nhau lần đầu tiên hồi lớp ba. Gương mặt
trông nghiêng của thằng bé đang ngồi trước Kensuke lúc này là một hình ảnh sống
của người bạn cùng lớp xưa của anh. Không nghi ngờ gì nữa, đây là con trai của
Aso do Yukari Nakazawa sinh ra.

Aso đã nói dối. Anh không hề lột trần Yukari và bỏ rơi cô
trên đảo Daiba 6. Kế hoạch ngớ ngẩn biến một hoang đảo không xa thành thiên
đường trên mặt đất chắc chắn là ý tưởng của Yukari; Aso, dù hết sức khó chịu
trước sự ngu ngốc ấy, hẳn vẫn giúp đỡ cô. Còn có thể giải thích sao rau quả lại
mọc trên Daiba 6 bằng cách nào nữa? Hơn nữa, thằng nhóc không trần truồng; quần
áo nó giờ đã rách bươm, nhưng nó có mặc quần áo. Những thứ thiết yếu nhất để
tồn tại hẳn đã được chuẩn bị từ đầu và mang lên đảo.

Thế thì, Yukari, mẹ thằng nhóc ở đâu? Có lẽ đã chết và được
chôn rồi. Nếu còn sống, cô hẳn phải ở đâu đó không phải đảo Daiba 6. Dù thế nào,
cô cũng không phải là cư dân sống ở hòn đảo này. Giả định rằng Aso không nói về
tất cả mọi thứ, Yukari đã mang thai hồi mùa hè chín năm về trước – và sang năm
tiếp theo thì sinh con. Như vậy là thằng bé giờ được tám tuổi. Nếu nó sống với
mẹ từ đó đến nay, nó phải biết nói. Nhưng thay vì thế, hẳn nó đã mất mẹ khoảng
hồi được năm tuổi, và trong những năm đơn độc tiếp sau nó dần quên sạch những
thứ ít ỏi học được từ mẹ. Việc liệu Yukari đã chết trên đảo Daiba 6 hay đã bỏ
rơi đứa con để trốn đi một mình sẽ được làm rõ nếu và khi họ đào gò đất dưới
tấm bài vị gỗ. Kensuke có linh cảm rằng Yukari đã yên nghỉ dưới gò đất đó.

Nét mãn nguyện trên mặt Aso khi anh nằm trên ngưỡng cái chết…
Sau ngần ấy thời gian, cuối cùng Kensuke đã hiểu. Aso tự mỉm cười với mình vì
đã đã bí mật gieo hạt giống của mình trên trái đất này. Sức mạnh xa xôi đã hỗ
trợ cho việc gieo trồng kì lạ này không chỉ có hiệu quả với cây cối. Kensuke
đang nhìn vào bằng chứng đó.

Cảm thấy Kensuke đang nhìn mình, thằng nhóc đáp lại ánh mắt
ấy. Hầu như chẳng có chút cảm xúc nào xuất hiện trên mặt khi thằng bé quay về
phía đảo Daiba 6 đang dần khuất xa.

Báo cáo nội dung xấu