Con chó của dòng họ Baskerville - Chương 09
Chương 9
BẢN PHÚC
TRÌNH THỨ HAI CỦA BÁC SĨ WATSON
LÂU ĐÀI BASKERVILLE, 15 THÁNG 10
HOLMES
THÂN MẾN.
Tôi
đã kết thúc bản phúc trình gần đây bằng việc mô tả tấn kịch của
Barrymore cạnh cửa sổ của căn phòng trống không. Từ đó đến nay tôi đã
góp được hàng đống tin tức.
Vào
buổi sáng sau cuộc trinh sát ban đêm của tôi, tôi có xem xét căn phòng
mà Barrymore đã vào. Cửa sổ mà ông ta chăm chú nhìn qua đó rất tiện
lợi cho việc nhìn ra khu đầm lầy, hơn tất cả các cửa sổ khác. Qua
khe hở giữa hai hàng cây, khu đầm lầy hiện rõ mồn một; trong khi đó,
từ những ô cửa sổ khác hầu như không nhìn thấy nó. Bởi vậy,
Barrymore chọn cửa sổ này để nhìn ai đó hoặc cái gì đó trên khoảng
rộng bao la của khu đầm lầy. Tuy nhiên đêm tối mịt mù, tôi không biết
ông ta có thể phân biệt được cái gì. Rất có thể đó là chuyện dan
díu yêu đương nào không? Điều đó có thể giải thích tính thận trọng
trong hành động của ông và nỗi khổ đau của vợ ông. Một người với vẻ
bề ngoài như ông có đủ điều kiện để quyến rũ trái tim của cô gái
thôn quê nào đấy, và vì vậy, giả thiết này không phải không có cơ sơ.
Sau lúc trở về phòng mình, tôi nghe thấy tiếng mở cửa ở đâu đó. Có
lẽ ông Barrymore đã đi đến cuộc hẹn hò bí mật nào chăng? Sau bữa
sáng, tôi cùng nam tước đi vào phòng làm việc của ngài. Tại đây tôi
đã kể cho ngài nghe tất cả. Ngài nghe với một thái độ rất điềm
tĩnh.
-
Tôi biết Barrymore đêm đêm hay đi dạo và tôi định hỏi ông ấy từ lâu
rồi. Một vài lần tôi có nghe thấy bước chân của ông ta vào khoảng
thời gian như ông vừa nói.
-
Rất có thể, nếu thế thì cần theo dõi xem ông ta làm gì ở đấy.
Chẳng biết trong trường hợp này Holmes sẽ làm như thế nào.
-
Tôi tin rằng anh ấy cũng sẽ theo sau Barrymore.
-
Vậy thì chúng ta sẽ cùng giám sát ông ta.
-
Nhưng ông ấy sẽ nghe thấy chúng ta mất.
-
Không, ông ta nghễnh ngãng. Và dẫu sao ta cũng cần bạo dạn mà làm
thôi. Nào, đêm nay chúng ta sẽ đợi ông ấy ở phòng tôi vậy.
Nam
tước thích thú xoa xoa hai tay vào nhau khi nghĩ tới cơ hội nhỏ nhất
làm cho dòng đời có thêm một vẻ đa dạng nào đó.
Nam
tước đã liên lạc với kiến trúc sư, và đồng thời cho mời người thầu
khoán từ London tới. Cho nên ở đây không bao lâu nữa sẽ có những biến
đổi lớn lao. Những họa sĩ trang trí và những thợ đóng đồ gỗ cũng
từ Plymouth đến. Rõ ràng người bạn của chúng ta đã không tiếc cả
công sức lẫn tiền của để tái lập lại sự huy hoàng xưa kia của dòng
họ mình. Khi ngôi nhà trong tương lai được sửa sang và xếp đặt lại.
Nam tước chỉ còn thiếu một người vợ. Ngài rất say đắm người láng
giềng. Tuy vậy mối tình không thật phẳng lặng, hôm nay trên bề mặt
của mối tình đó xuất hiện những gợn sóng lăn tăn làm người bạn của
chúng ta hoang mang và lo ngại.
Sau
câu chuyện về Barrymore, ngài Henry đội mũ và định đi đâu đó. Cố nhiên
tôi cũng làm y như thế.
-
Ông đi với tôi chứ, Watson? - Ngài hỏi sau khi nhìn tôi là lạ thế nào
ấy.
-
Nếu đi tới khu đầm lầy thì tôi đi - Tôi trả lời.
-
Tới khu đầm lầy.
-
Tôi không muốn cản trở ngài, nhưng Holmes đã không bảo tôi để ngài ở
một mình, nhất là trên khu đầm lầy. Chính ngài cũng được nghe điều
đó.
Với
nụ cười hiền dịu, ngài Henry vỗ vào vai tôi nói:
-
Bạn thân mến ạ, Holmes không thể thấy rõ mọi chi tiết trong sự biến
chuyển của cuộc sống của tôi ở đây được, ông hiểu tôi chứ? Vậy chắc
không có ai muốn ngăn cản tôi. Không, ông cho phép tôi đi một mình.
Tự
anh cũng thấy được tình cảnh của tôi ra sao rồi. Tôi bối rối, trong
lúc ngài đã cầm lấy gậy của mình và đi ra.
Nhưng
sau ít phút suy nghĩ, lương tâm bắt đầu hành hạ tôi. Tại sao tôi cho
phép ông ấy đi ra ngoài sự giám sát của mình rồi sau khi trở lại
London tôi sẽ phải thú nhận với anh là sự dễ dãi của tôi đã đẩy
chúng ta tới thảm họa như thế nào? Tôi như bị ném vào lửa trong ý
nghĩ này. Vẫn còn chưa muộn, có thể đuổi kịp ông ấy. Và tôi lập
tức đi tới Mernpit.
Tôi
rảo bước theo con đường lớn. Vẫn chưa thấy ngài Henry. Vài phút sau,
tôi đến gần chỗ bắt đầu con đường mòn đi sâu vào khu đầm lầy. Tôi
phân vân không biết nên chọn đường nào. Thế là tôi trèo lên quả đồi
và từ đó nhìn xuống khu đầm lầy.
Tôi
đã thấy Nam tước. Ông bước theo con đường mòn cách tôi chừng một phần
tư dặm, đi cạnh ông là một người phụ nữ: cô Stapleton, họ bước đi rất
chậm. Nhìn theo điệu bộ của cô gái thì cô đang cố gắng thuyết phục
ngài Henry tin vào điều gì đấy. Ngài Henry chăm chú nghe, thỉnh thoảng
lắc đầu. Khi không biết ẩn mình vào đâu, tôi đành đứng vào giữa các tảng
đá. Đuổi theo họ, phá vỡ câu chuyện thân tình này là không thể được.
Nhưng nhiệm vụ của tôi ở đâu? Là ở chỗ không được một giây phút nào
rời mắt khỏi ngài Henry. Thế mà tôi không có cách giải quyết nào
khác và cứ tiếp tục đứng trên đỉnh đồi để quan sát họ. Nhưng như
vậy, nếu ngài đột nhiên bị nguy hiểm thì tôi không thể giúp gì được.
Đi
được vài bước, ngài Nam tước và cô gái dừng lại và lúc đó tôi bất
ngờ nhận ra rằng tôi không phải là người duy nhất chứng kiến cuộc
gặp gỡ của họ. Thấp thoáng giữa hai tảng đá có cái gì đó màu xanh
lục. Tôi nhìn kỹ và nhận ra đó là một mảnh màu xanh trên chiếc gậy
đi đường. Người mang gậy này đang hướng tới con đường mòn. Hóa ra đó
là nhà tự nhiên học Stapleton với chiếc vợt bắt bướm. Ông ta ở gần
đôi uyên ương hơn tôi và đang đi thẳng tới chỗ họ. Vào giây phút ấy,
ngài Henry đang ôm chầm lấy cô Stapleton, nhưng cô ta xoay lưng lại, cố gắng
thoát khỏi tay ngài. Thế rồi ngài cúi xuống gần cô, còn cô thì lánh
xa ngài. Sau đấy, họ nhanh chóng lùi xa nhau ra, ngoảnh lại nhìn phía
sau. Thì ra Stapleton đang đi tới. Ông ta đang ba chân bốn cẳng chạy về
phía họ, khoa chân múa tay trước mặt cặp tình nhân.
Tôi
không nghe được ông ta nói gì, nhưng hình như ông ta đang lên án ngài
Henry, còn người này thì cố phân trần. Cô gái đứng bên cạnh, hoàn
toàn im lặng. Sau cùng Stapleton đột nhiên quay trở lại, vẫy tay ra
lệnh cho em gái; cô ta đưa nhanh đôi mắt nhìn ngài Henry rồi đi theo sau
anh mình. Nhưng cử chỉ bồng bột của nhà tự nhiên học chứng tỏ rằng
ông ta đang trút nỗi giận dữ của mình lên đầu cô gái. Vị Nam tước nhìn
theo họ, rồi ngài chán nản, lửng thững đi ngược trở lại.
Tôi
không hiểu tí nào về cuộc cãi vã ấy. Tôi lao nhanh xuống đồi và gặp
Nam tước ở dưới đó. Mặt ngài đỏ bừng vì giận dừ, đôi lông mày nhíu
lại.
-
Chào bác sĩ! Ông ở đâu ra vậy? Có lẽ ông đã theo dõi tôi chăng?
Tôi
buộc phải giải thích cho ngài hiểu rằng tôi cảm thấy không thể để
ngài đi một mình nên đã đi theo ngài và trở thành người chứng kiến
cuộc gặp gỡ. Ngài quắc mắt nhìn tôi nhưng rồi ngài phá lên cười.
-
Cứ như là các ông cố rình xem tôi tán tỉnh cô gái và thất bại như
thế nào ấy! Ông thuê dài hạn cho mình chỗ ngồi nào đấy?
-
Trên quả đồi kia kìa.
-
Nghĩa là trên gác thượng. Còn anh của cô ta thì được thu xếp ở những
dãy ghế đầu tiên. Ông có nhận thấy ông ta đã mắng chúng tôi ra sao
không?
-
Vâng.
-
Có bao giờ ông thoáng nghĩ rằng ông ta mất trí không?
-
Chưa, chưa bao giờ.
-
Tôi cũng vậy. Trước ngày hôm nay, tôi coi Stapleton là một người phát
triển bình thường. Còn bây giờ tôi cảm thấy là cần tìm một bác sĩ
thần kinh cho ông ta hoặc cho tôi. Phải chăng tôi đã tồi tệ đến thế?
Xin ông hãy nói thẳng! Cái gì sẽ ngăn cản tôi trở thành chồng của cô
gái ấy.
-
Theo tôi, không có gì ngăn cản cả.
-
Ông ta không thể bắt bẻ về cương vị xã hội của tôi được. Vậy ông ta
có cái gì để không đồng ý tôi? Trong đời, tôi không gây điều ác cho ai
cả. Thế mà con người ấy không muốn để tôi đến gần cô ta.
-
Ông ta nói thế à?
-
Vâng. Ông biết không, Watson, tôi mới quen cô ta cách đây vài tuần. Thế
mà ngay từ buổi gặp gỡ ban đầu, tôi đã thấy rõ ràng người này sinh
ra là để dành cho tôi. Và cô ta... cô ta cũng sẽ sung sướng ở cạnh
tôi. Tôi sẵn sàng thề như vậy. Đôi mắt của người đàn bà nói nhiều
hơn so với lời của họ. Thế nhưng, ông ta phản đối sự gần gũi của
chúng tôi. Chỉ đến hôm nay tôi mới chọn được cơ hội nói chuyện riêng
với cô ấy. Cô sung sướng chấp thuận cuộc gặp gỡ này. Nhưng, cô chỉ
nói một lời: ở đây nguy hiểm và cô sẽ không yên lòng chừng nào tôi
chưa đi khỏi lâu dài. Tôi nói rằng từ sau cuộc gặp gỡ với cô, tôi sẽ
không bao giờ rời khỏi đây, còn nếu việc ra đi là cần thiết, thì cô
hãy cùng đi với tôi. Tóm lại, tôi đã ngỏ lời cầu hôn với cô ta, nhưng
cô còn chưa kịp đáp lại thì vào giây phút ấy, ông anh đã ào tới
mắng chúng tôi. Tôi còn làm gì được? Giá ông ta không phải là anh của
cô ấy, thì tôi sẽ biết cách trả lời, nhưng tôi không nỡ làm thế và
chỉ nói rằng không có gì là xấu xa trong tình cảm của tôi cả, rằng
tôi hy vọng vào một lúc nào đó sẽ gọi cô Stapleton là vợ của mình.
Nhưng, cuối cùng tôi đã không giữ bình tĩnh được nữa và nổi xung lên.
Đáng lý không nên nổi nóng khi thấy cô đang đứng ở đó thì hơn. Sau
đấy, ông ta ra đi cùng với em gái. Còn tôi ở lại một mình trong một
tâm trạng rất phân vân.
Anh
Holmes, câu chuyện này đã khiến tôi không ít băn khoăn. Tước vị của Nam
tước, sự giàu có, tuổi trẻ, tính cách và vẻ ngoài đều có lợi cho
ngài. Có lẽ, ngoài số mệnh đen tối đè nặng lên gia đình ngài, tôi
không thấy ngài có gì bất lợi.
Thật
là lạ lùng nếu lời cầu hôn của ngài Henry đã bị cự tuyệt gay gắt.
Tuy nhiên, vào ngày hôm ấy, chính Stapleton đã xin lỗi Nam tước, rồi
nói chuyện hồi lâu với ngài trong phòng làm việc. Chúng tôi nhận lời
mời ăn trưa ở Merripit vào thứ sáu tới.
-
Tôi vẫn chưa hết hoài nghi về sự phát triển bình thường của con
người này - Ngài Henry nói - Nhưng, cần thừa nhận những lời xin lỗi
của ông ta chân thực, cũng đừng nên gây sự với ông ta làm gì.
-
Ông ấy giải thích cơn bột phát của mình như thế nào?
-
Em gái đối với ông ta là tất cả. Điều đó thì chấp nhận được. Họ
đã cùng sống với nhau trong suốt cuộc đời, bởi thế ông ấy sợ phải
xa cách em gái mình. Ông ta rất lấy làm tiếc về những gì đã xảy ra,
và nói sẽ không ngăn cản chúng tôi nữa, nếu như tôi hứa sẽ không nói
gì về tình yêu với cô gái trong vòng ba tháng sắp tới, chỉ nên coi như
tình bạn mà thôi. Tôi đã hứa, và đến đây thì câu chuyện chấm dứt.
Holmes,
anh thấy đấy, một trong số những bí mật nhỏ nhoi của chúng ta được
sáng tỏ.
Bây
giờ, chúng ta sẽ chuyển sang nói về tiếng khóc bí ẩn ban đêm về bộ
mặt bi thảm của bà Barrymore và về thái độ khó hiểu của viên quản
lý với cánh cửa sổ hướng ra khu đầm lầy. Phải cần một đêm mới giải
thích được điều bí mật này bạn ạ.
Tôi
nói là “một đêm” nhưng đúng hơn là phải “hai đêm”. Tôi và ngài Henry
đã ngồi trong phòng làm việc của ngài tới ba giờ sáng, thế mà không
nghe thấy gì cả. Sau đó chúng tôi ngủ thiếp đi cho tới sáng. Tuy vậy,
sự thất bại này không làm cho chúng tôi chán nản mà cương quyết thử
lại một lần nữa.
Đêm
hôm sau, chúng tôi vặn bớt bấc đèn, ngồi im lặng hoàn toàn. Thời giờ
trôi đi vô cùng chậm chạp.
Chuông
đồng hồ điểm một giờ, rồi hai giờ. Chúng tôi đã sắp thất vọng thì
đột nhiên sự mệt mỏi của chúng tôi bay biến đâu mất. Tôi và ngài Nam
tước đều ưỡn thẳng người lại. Ngoài hành lang có tiếng cót két của
ván sàn nhà. Tiếng những bước chân lén lút đi ngang qua phòng chúng
tôi rồi dần dần lặng đi ở phía xa. Nam tước khẽ mở cửa. Chúng tôi
bắt đầu lần theo vết con thú săn. Con thú đã đi qua hành lang nối
liền lâu đài, còn trong hành lang này thì tối om. Hết sức thận
trọng, chúng tôi đi đến chái nhà phía bên kia. Ở đó thấp thoáng hình
của một người có bộ râu đen. Hắn rón rén bước dọc theo hành lang.
Sau đấy hắn chạy lúp xúp tới cánh cửa, và một tia sáng vàng mỏng
manh trải ra khu hành lang. Chúng tôi đi tới luồng ánh sáng này, dò
từng mảnh đất, vậy mà những tấm ván cũ kỹ vẫn khẽ rên và kêu cót
két, nhưng thật là may, Barrymore nghễnh ngãng, vả lại khi đó công
việc thu hút hết tâm trí của ông ta.
Cuối
cùng, chúng tôi cũng bước tới được cửa phòng, nhìn vào cửa phòng.
Viên quản lý tay cầm cây nến, đứng ở cạnh cửa sổ, hầu như mắt ông ta
ghé sát vào mặt kính, nghĩa là trông dáng điệu y hệt như tôi đã
trông thấy lần trước.
Nam
tước mạnh dạn đi vào phòng. Barrymore lùi nhanh ra khỏi cửa sổ, thở
hổn hển, toàn thân run rẩy. Nỗi kinh hoàng lờ mờ hiện ra trong đôi
mắt sẫm sáng trên bộ mặt trắng nhợt.
-
Barrymore, ông làm gì ở đây thế?
-
Không làm gì cả, thưa ngài - Vì xúc động ông ta nói rất khó nhọc,
cây nến run run trên tay ông hắt những bóng loang lổ trên tường và lên
trần nhà - Cửa sổ, thưa ngài... đêm đêm tôi kiểm tra xem xét tất cả
có được khóa kỹ không.
-
Ngay cả trên lầu hai?
-
Vâng, cả khu nhà.
-
Hãy nghe đây, Barrymore - Ngài Henry nghiêm khắc nói - Chúng tôi cương
quyết tìm cho ra sự thật. Cho nên ông càng mau thú nhận lỗi lầm thì
càng tốt. Này, ông làm gì ở đây?
Người
quản gia ném một cái nhìn tuyệt vọng về phía chúng tôi.
-
Tôi không làm gì xấu xa cả, thưa ngài! Tôi chi soi cây nến vào cửa sổ.
-
Để làm gì?
-
Xin đừng hỏi tôi, ngài Henry... Xin thề với ngài đấy là bí mật không
phải của tôi. Nếu bí mật này chỉ liên quan đến tôi, tôi sẽ không giấu
giếm điều gì cả.
Đột
nhiên trong óc tôi thoáng nẩy ra một ý nghĩ bất ngờ, tôi cầm lấy cây
nến ở trên bệ cửa sổ.
-
Có lẽ đây là mật hiệu. Bây giờ chúng ta chờ câu trả lời.
Tôi
đưa ngọn nến đến gần tấm kính như Barrymore đã làm, tôi nhìn vào
bóng đêm. Mặt trăng ẩn mình sau đám mây. Vào phút đầu tiên, tôi chỉ
trông thấy hàng cây của khu đầm lầy. Đột nhiên tôi reo lên khi trông
thấy trong khung màu đen của cửa sổ một điểm màu vàng tản ra chọc
thủng đêm tối.
-
Hãy nhìn này!
-
Không, không phải, thưa ngài...
-
Chuyển cây nến sang bên phải, Watson. - Nam tước kêu lên - Nhìn thấy gì
không? Ở đấy ngọn lửa cũng di động... Này, đồ vô lại, đó chính là
tín hiệu? Hãy tự thú đi, ông mưu toan làm gì đó?
Viên
quản lý bất ngờ ném một cài nhìn thách thức về phía ngài.
-
Đây là việc của tôi, nó không liên quan gì tới ngài. Tôi sẽ không nói
gì cả.
-
Vậy ông đã bị sa thải.
-
Rõ rồi, thưa ngài.
-
Tôi tống cổ ông đi một cách đê nhục! Tổ tiên của tôi và của ông hơn
một trăm năm nay sống cùng một căn nhà với nhau, vậy mà ông định lập
mưu kế chống lại tôi.
-
Không, thưa ngài! Chúng tôi không chống lại ngài đâu!
Những
lời này vang lên the thé. Sau khi ngoảnh lại nhìn, chúng tôi nhận ra
bà Barrymore hồn xiêu phách lạc ở cửa ra vào, vẻ tái nhợt trên khuôn
mặt bà có thể đua tranh với chồng mình.
-
Người ta đã sa thải chúng ta, em ạ, tất cả được kết thúc như thế đấy.
Hãy thu xếp đồ đạc đi - Barrymore nói.
-
Mình ạ, em đã đẩy mình tới nông nỗi này đấy!... Mọi chuyện đều là
lỗi lầm của tôi thôi, ngài Henry. Chỉ vì tôi mà ông ấy làm việc đó,
chỉ vì một mình tôi thôi.
-
Bà nói gì vậy.
-
Em trai tôi đang chết đói trên khu đầm lầy. Chồng tôi dùng tín hiệu
báo cho chú ấy biết là đồ ăn đã được chuẩn bị, còn chú ấy báo cho
biết cần mang đồ ăn đến đâu.
-
Thế nghĩa là... em bà là...
-
Người tù vượt ngục, kẻ giết người, Selden.
-
Đấy là tất cả sự thật, thưa ngài - Barrymore khẳng định - Tôi đã nói
với ngài là tôi không thể phanh phui bí mật của người khác. Và nếu
có một âm mưu nào đó thì nó hoàn toàn không nhằm làm hại ngài.
Cuộc
du ngoạn ban đêm với cây nến được sáng tỏ như vậy đấy! Tôi và ngài
Henry sững sờ nhìn bà Barrymore.
-
Đúng vậy. Thưa ngài. Chú ấy là em út của tôi. Chúng tôi cưng chiều
chú ấy ngay từ nhỏ. Thế rồi chú ấy lớn lên, nhập bọn với đám du
thủ du thực và sa vào tội lỗi. Nhưng đối với tôi, thưa ngài, chú ấy
vẫn chỉ là một cậu bé tóc xoăn đáng yêu mà tôi từng chơi đùa và
chăm sóc. Chú đã vượt ngục, biết tôi hiện ở đây. Lúc lê bước tới đây
vào ban đêm, chú ấy mệt mỏi, bụng đói mà lại đang bị truy lùng.
Chúng tôi đã để cho chú vào, giúp đỡ chú ấy bằng tất cả khả năng
của mình. Thế rồi ngài về đây, thưa ngài. Chú quyết định đi vào khu
đầm lầy. Sau một đêm, chúng tôi lại kiểm tra xem chú ấy đi hay chưa.
Chúng tôi soi đèn qua cửa sổ và nếu nhận được tín hiệu trả lời thì
chúng tôi mang bánh mì và thịt tới nơi hẹn ước. Chúng tôi mong mỏi
từng ngày là chú đã bỏ đi, nhưng chừng nào chú ấy còn ở đây thì
chúng tôi không thể bỏ rơi. Thưa ngài. Nếu ở đây có điều gì xấu xa
thì chồng tôi không hề có lỗi: ông ấy làm việc đó là vì tôi thôi?
Bà
ta nói với một tình cảm khiến người khác không thể không tin vào bà.
-
Có đúng như vậy không, Barrymore?
-
Vâng, thưa ngài, từ đầu đến cuối đều là sự thật.
-
Tôi không trách ông đã giúp vợ mình. Hãy quên những điều tôi nói với
ông đi. Giờ thì hai người hãy về phòng mình, sáng mai chúng ta sẽ
bàn bạc.
Khi
họ đi khỏi, ngài Henry mở toang cửa sổ ra, gió lạnh lùa vào mặt
chúng tôi. Xa xa bóng đêm mịt mùng, ngọn lửa nhỏ vẫn còn nhấp nháy.
-
Sao hắn không biết sợ - Ngài Henry hỏi.
-
Có lẽ chỉ đứng tại đây mới nhận thấy ngọn lửa.
-
Cũng có thể. Theo ông thì hắn ở đâu?
-
Ở chỗ nào đó cạnh những cột đá hoa cương.
-
Hai dặm?
-
Sẽ không hơn thế.
-
Đúng, nếu Barrymore mang đồ ăn đến đấy có nghĩa là sẽ không xa lắm.
Và bây giờ, Watson, tôi sẽ đi, và sẽ tóm được tên ác ôn này.
Chính
ý nghĩ này cũng thoáng qua trong óc tôi. Vợ chồng Barrymore không biến
chúng tôi thành những kẻ tòng phạm được. Con người này thật nguy
hiểm cho xã hội.
-
Tôi đi với ngài.
-
Vậy hãy cầm súng ngắn theo: Cần khẩn trương lên, nếu không, hắn sẽ
dập tắt ngọn lửa và tẩu thoát mất.
Chưa
đầy năm phút sau, chúng tôi đã bước nhanh theo con đường tối om rậm
rạp bóng cây, lắng nghe tiếng rít đơn điệu của ngọn gió mùa thu và
tiếng xào xạc của lá cây. Trong không khí có mùi hăng hăng của vật
thối rữa và sự ẩm ướt. Mặt trăng lúc ẩn lúc hiện sau những đám mây
đen. Mưa lâm thâm. Ngọn lửa nhỏ màu vàng vẫn nhấp nháy.
-
Ngài có cầm cái gì đó theo người không?
-
Có, roi gân bò.
-
Hãy hành động thật nhanh, người ta nói hắn rất táo tợn.
-
Watson - Đột nhiên Nam tước lên tiếng - Holmes sẽ nghĩ sao đây? Ông có
nhớ không? Vào lúc ban đêm, khi mà uy lực của cái ác hoàn toàn thống
trị...
Và
hình như để đáp lại những lời nói của ngài, ở một nơi nào đó rất
xa trên khu đầm lầy vang lên âm thanh lạ lùng. Gió đẩy đến tai chúng
tôi, ban đầu là tiếng gầm gừ không rõ, sau là tiếng rống rồi lại
dần dần chuyển sang tiếng rên bi thảm. Những âm thanh hoang dã, dọa
dẫm này được lặp đi lặp lại liên tục, tràn ngập cả không trung. Nam
tước túm lấy vạt áo tôi.
-
Trời ơi, Watson, cái gì thế?
-
Tôi không rõ. Người ta nói rằng âm thanh như vậy thường vang lên trên khu
đầm lầy. Tôi cũng đã từng nghe thấy.
Tiếng
kêu lặng dần, rồi hoàn toàn yên lặng. Chúng tôi đứng căng thẳng lắng
nghe, nhưng không có gì vang lên nữa.
-
Con chó rống đấy! - Nam tước thì thầm.
Máu
trong người tôi như đông lại, giọng của ngài Nam tước run lên vì kinh
hãi.
-
Người ta giải thích âm thanh này ra sao?
-
Ai?
-
Những người sống ở đây ấy.
-
Đấy chỉ là những người dốt nát? Không phải tất cả mọi người đều
giải thích tiếng kêu như thế.
-
Watson, họ nói về cái gì vậy?
Vào
giây phút ấy tôi do dự, nhưng đã đặt vấn đề ra thì không thể nào im
lặng được.
-
Họ nói rằng đấy là tiếng con chó của dòng họ Baskerville rống.
Ngài
Henry bắt đầu rên rỉ:
-
Đúng, chỉ có chó mới tru lên như vậy - Sau khi im lặng hồi lâu, ngài
nói - Nhưng con chó ở rất xa, đâu ở hướng kia kìa!
-
Khó có thể xác định tiếng rống từ đâu vọng lại.
-
Nó được gió thổi tới. Vùng đầm lầy Grimpen ở đâu? Ở đấy phải không?
-
Đúng.
-
Vậy là tiếng kêu từ đó vọng đến, Watson. Chính ông cho rằng đấy là
tiếng rống của con chó, đừng e ngại. Hãy nói thật đi...
-
Một lần Stapleton nói rằng có một giống chim nào đó kêu như thế.
-
Không, đấy là con chó. Than ôi! Chẳng lẽ câu chuyện huyền bí này là
sự thật? Chẳng lẽ có một mối nguy hiểm bí ẩn nào đấy đang đe dọa
tôi? Ông không tin vào điều đó sao, Watson?
-
Không tin!
-
Vậy còn bác của tôi? Cạnh thi thể của Người có những vết chân chó.
Tất cả chỉ là một mắt xích mà thôi. Tôi hoàn toàn không phải kẻ
nhát gan, Watson ạ, thế nhưng tôi hết hồn khi nghe thấy những âm thanh
như thế. Hãy rờ vào tay tôi này.
Bàn
tay ông giá lạnh.
-
Không sao cả, ngày mai tất cả sẽ qua khỏi thôi!
-
Không, tôi không bao giờ quên tiếng kêu ấy đâu. Chúng ta cần làm gì bây
giờ?
-
Ta quay về nhà chăng?
-
Sao lại thế! Phải tóm cổ tên đê tiện ấy. Tôi với ông săn đuổi tên tù
khổ sai, còn con chó lại săn lùng chúng ta. Mặc! Hãy đi thôi, Watson!
Chúng
tôi tiếp tục lê từng bước chậm chạp. Bên phải và bên trái chúng tôi
chồng chất hình thù những quả núi lởm chởm mờ ảo trong đêm tối.
Ngọn lửa màu vàng bé nhỏ vẫn nổi lên mờ mờ xa xa ở phía trước.
Cuối cùng chúng tôi đã nhìn thấy nguồn ánh sáng và hiểu rằng giờ
chúng tôi ở cách đấy không xa. Đó là ngọn nến được đặt lơ lửng ở
kẽ nứt giữa những tảng đá. Những tảng đá này bảo vệ cây nến,
tránh gió và tránh cả ánh mắt của con người, chỉ để hở một hướng
quay về phía lâu đài: Chúng tôi ẩn mình sau tảng đá, rồi thận trọng
nhìn ra ngoài. Kỳ lạ thay, chúng tôi chỉ nhìn thấy một ngọn nến cô
độc giữa đầm lầy. Chung quanh không hề có dấu hiệu của sự sống.
-
Cần làm gì bây giờ?
-
Chờ một lát. Hắn ở gần đây thôi.
Tôi
chưa kịp nói xong thì đã thấy hắn. Bên trong kẽ đá, nơi đặt cây nến,
ló ra một khuôn mặt xấu xa, trên đấy không hề thấy dấu vết khuôn mặt
người. Bộ mặt bết đầy bùn, râu lởm chởm, mớ tóc rối tung, trông như
một trong số những người tiền sử từng sống ở đây. Ngọn lửa cây nến
phản chiếu trong cặp mắt bé nhỏ ranh mãnh, thâm độc nhìn vào mọi
hướng. Đấy đúng là cặp mắt của con thú khi nhận ra tiếng bước chân
của người thợ săn trong đêm tối. Có lẽ một điều gì đấy đánh thức
mối hoài nghi ở hắn. Chỉ một loáng sau hắn đã thổi tắt ngọn nến
và lẫn vào trong bóng tối. Tôi chạy về phía trước, ngài Nam tước
chạy sau tôi. Tên tù khổ sai la lên một tiếng, viên đá bay vèo về phía
chúng tôi, văng ra làm nhiều mảnh sau khi đập vào tảng đá bên cạnh.
Tôi kịp nhìn thấy hắn mập lùn, vai rộng. Đúng vào lúc ấy, mặt trăng
hiện ra. Chúng tôi leo lên quả đồi, còn tên tù khổ sai thì lao nhanh
theo sườn bên kia, nhảy qua những tảng đá với sự khéo léo của một
con dê núi. Một phát đạn có thể làm hắn bị thương, nhưng tôi mang
súng ngắn theo chỉ để phòng thân chứ không phải để bắn vào lưng một
người không có vũ khí.
Chúng
tôi cố sức đuổi theo. Hắn hiện lên hồi lâu ở phía trước và cuối
cùng chuyển thành một điểm nhỏ chuyển động trên sườn đồi. Khoảng
cách giữa chúng tôi và hắn càng tăng thêm, chúng tôi hoàn toàn kiệt
sức, ngồi trên những tảng đá, đưa mắt nhìn bóng hắn đang mất hút
dần.
Chúng
tôi quyết định không đuổi theo nữa. Mặt trăng ở bên phải chúng tôi,
đỉnh cột đá hoa cương nổi rõ mồn một. Ngay trên cột đá này tôi nhìn
thấy một hình người bất động tựa như bức tượng bằng gỗ mun. Tôi
nhìn thấy rõ đó là một người cao gầy. Hắn đứng, chân hơi dang ra một
chút, hai tay đặt lên ngực, đầu cúi xuống, hình như đăm chiêu ngắm
nhìn vương quốc của than bùn ở phía trước mặt. Đó không phải là tên
tù khổ sai. Hắn ở cách xa nơi tên tù ẩn nấp, đồng thời hắn cao hơn.
Tôi rú lên kinh ngạc, chỉ cho Nam tước xem, nhưng một thoáng sau, người
ấy mất hút. Đỉnh cột đá hoa cương nhọn hoắt vẫn như trước đây, nhưng
hình người bất động trên đó thì không còn nữa.
Tôi
quyết định đi tới đó, xem xét cột đá này, nhưng Nam tước không muốn
phiêu lưu. Ngài chưa yên lòng sau tiếng rú kinh hoàng nhắc ngài nhớ
tới truyền thuyết huyền ảo nọ. Hơn nữa, chính ngài lại không nhận
thấy điều gì, và không thể chia sẻ xúc động của tôi.
-
Chắc có lẽ là lính canh. Từ khi có vụ vượt ngục, khu đầm lầy nhan
nhản lính canh - Ngài nói.
Có
lẽ ngài nói đúng, Holmes thân mến. Hôm nay chúng tôi đã biết được nơi
ẩn nấp của tên tù vượt ngục. Nhưng tiếc là không tóm được hắn.
Các
sự cố trong đêm gần đây là như thế. Holmes thân mến, anh cần phải thừa
nhận đây là bản phúc trình hoàn toàn đầy đủ về sự cố này. Phần
lớn các câu chuyện của tôi không có quan hệ nào tới vụ án, nhưng tôi
coi việc thông báo tất cả những sự kiện trong các bức thư của mình
là việc làm cần thiết. Hãy chọn lựa ở trong đó những gì có lợi
cho anh. Chúng ta đã có những thành công nào đấy. Tuy nhiên, bí mật
của khu đầm lầy than bùn vẫn còn nguyên. Có thể trong lá thư tiếp
theo, tôi sẽ ít nhiều phanh phui được tấm màn che trên đó. Tốt hơn cả
là anh hãy thân hành đến đấy!